Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

đời sống văn hóa và xu hướng phát triển văn hóa của người khmer nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.43 KB, 76 trang )

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VÀ XU HƯỚNG
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CỦA
NGƯỜI KHMER NAM BỘ

Trang 1
Người Khmer ở Việt Nam hiện nay có khoảng một triệu người, nhưng
phần lớn tập trung ở Nam bộ, nhiều nhất là ở các tỉnh Trà Vinh,
Kiên Giang, Sóc Trăng và Bạc Liêu; đây là một tộc người có dân
số cao nhất trong nhóm Môn Khmer thuộc ngữ hệ Nam Á. Người
Khmer vốn có một đời sống tinh thần phong phú, với sức lao động
cần cù và một truyền thống văn hóa tốt đẹp, từ nhiều thế kỷ
trước đã cùng với người Kinh người Hoa thắt chặc tình đoàn kết
trong việc khai mở đất đai xây dựng làng xã ở phía Nam và đã tích
cực góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn hóa của mỗi dân tộc đều có những đặc trưng nhất đònh và có
những phong cách riêng để thể hiện đời sống xã hội, phong tục
tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, văn học nghệ thuật những yếu tố
đó đều là những sản phẩm trí tuệ rất q báu của tập thể con
người đã sáng tạo và bổ sung qua nhiều thời kỳ lòch sử khác nhau;
Ở nước ta hiện nay có tất cả 54 dân tộc với 54 loại hình văn hóa
đặc thù, nhưng tất cả đã cùng hòa quyện với nhau để kết tinh
thành một nền văn hóa chung, đó là nền văn hóa của đại gia đình
dân tộc Việt Nam. Người Khmer Nam bộ trong thời gian qua đã
thực sự có những thành tích nổi bật trong việc phát triển văn hóa
phục vụ con người và xã hội, đồng thời cũng đã có những dấu hiệu
tốt trong xu hướng phát triển văn hóa phù hợp với các điều kiện
về kinh tế thò trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
1/- ĐỜI SỐNG - XÃ HỘI :
1.1. Nơi ở :
Trang 2


Người Khmer ở Nam bộ đa số đều cư trú trên các vùng đất cao gọi là
đây phnô, cũng có nơi họ sống ở ven sông, rạch hoặc ở dọc theo bờ
biển. Họ sống tập trung thành từng cụm gọi là phum tương đương
với xóm của người Kinh - ngày trước mỗi phum có chừng từ năm
đến sáu chục nóc gia. Cụm dân cư đông hơn phum gọi là sróc
người Kinh thường gọi là sóc - độ khoảng bằng một xã của người
Kinh. Thật ra phum sóc cũng không phải là những đơn vò hành
chính ở hạ tầng cơ sở, mà ngay từ thời Nguyễn nó đã là những
cụm dân cư sống đan xen với người Kinh và người Hoa, phum và
sóc đã được hợp thức hóa vào những tổ chức cộng cư của người
Việt. Có một số trường hợp ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu
trong một ấp có nhiều phum của người Khmer hoặc một xã có
nhiều sóc, sóc của người Khmer cũng giống như làng Minh Hương
của người Hoa không phải là một đơn vò hành chính riêng, mà chỉ
là một bộ phận tích hợp trong tổ chức hành chính làng xã của
người Việt.
Trang 3
Nhà ở của người Khmer ngày nay về hình dáng, vật liệu kiến trúc
cũng gần giống nhà của người Kinh và người Hoa, nhưng ngày
trước thì nhà của người Khmer có nhiều điểm khác biệt. Những
gia đình Khmer sống trên đất giồng thì nhà thường cất trên mặt
đất, còn những người sống ở nơi đất thấp họ phải cất nhà sàn, nhà
thường nhỏ nhưng nóc cao, mái rất dốc và thường được lợp bằng
lá dừa nước, ở các vùng gần biên giới người ta dùng lá dừa nước
chằm lại từng miếng trước khi lợp gọi là lá chằm đóp, các vùng
khác ở Tây Nam bộ thì dùng nguyên tàu lá chỉ xé dọc làm hai, khi
lợp sẽ xếp chồng lên nhau gọi là một đôi, một số nơi còn dùng cây
lồ ô xẻ dọc lợp âm dương rất khéo. Về khung sườn nhà của những
người Khmer ở miền Đông thường dùng các loại gỗ q như dầu,
chò, thau lau phối hợp với các loại tre, nứa, lồ ô, le, bương còn

đa số những người ở miền Tây thì sử dụng các loại tràm, đước,
cóc, dà, lục bình (cây mai), tre gai. Họ dừng vách bằng lá dừa
nước, thông thường thì lá bên ngoài sóng bên trong, cũng có một
cách dừng vách đâu sóng, theo cách này thì cả vách trong vách
ngoài đều thấy toàn sóng còn lá được ém kín ở giữa trông rất đẹp.
Nhà lớn thường có hai cái, cái trên cái dưới, mỗi cái ba gian, nhà
nhỏ thường một căn một chái cũng gần giống như nhà người Kinh,
loại chái bát vần của người Khmer được làm với kỹ thuật khá cao.
Khi cất nhà, người Khmer có một tập quán rất tốt đẹp là họ luân
phiên phụ giúp với nhau gọi là vần công cất nhà.
Trang 4
Người Khmer tuy cũng có giàu nghèo cao thấp khác nhau, nhưng cách
bày trí xếp đặt bên trong nhà của họ đa số đều gần giống nhau;
thường thì nhà trước là nhà khách có một bộ bàn ghế dài (tâu
tăng) hoặc một bộ ván ngựa (kđa) lớn để ở giữa, hai bên là hai bộ
ván ngựa nhỏ hoặc là hai chiếc chỏng tre để đàn ông con trai
trong nhà nghỉ ngơi , nếu khi có khách thì nhường cho khách
nghỉ , phía sau thường có một hoặc hai chiếc tủ (tu) , bên trong đặt
những chiếc gối thêu (khnơi) rất đẹp để biểu lộ sự khéo tay của
phụ nữ trong nhà . Nhà nào cũng có bàn thờ Phật ở gian chính ,
đôi khi cũng được đặt trên đầu tủ một cách đơn giản nhưng rất
trang trọng . Người Khmer ngày xưa không có phong tục thờ tổ
tiên trong nhà nhưng do dung nạp tín ngưỡng của người Kinh
người Hoa nên có một số gia đình người Khmer ngày nay cũng có
thờ tổ tiên, họ thờ riêng hoặc thờ chung trên bàn thờ Phật,
thường thì ảnh người quá cố được đặt dưới ảnh Phật.
Phía sau phòng khách, nếu nhà khá giả thì ngăn phòng cho vợ chồng
chủ nhà (bân tak kần lạng mây ôn), phòng con cái, nhất là con gái
luôn có phòng riêng (bân tak thơ nông kùm mụn), nếu nhà nghèo
cũng che một góc cho con gái. Người Khmer thường nằm quay đầu

về hướng Nam, cho đó là hướng ngọc (tabôn) và ít khi nào hướng
chân người này đạp lên đầu người kia vì họ luôn tin rằng trên đầu
của mỗi người đều có thần thánh ngự trò.
Sau cùng là nhà dưới, bếp và bồ lúa được đặt ở đây, nếu gia đình
không có nhà dưới thì bếp được đặt ở chái nhà. Nhà tắm thì luôn
được đặt ngoài hè hoặc phía sân sau.
Trang 5
1.2. Trang phục :
Mặc dù ngày nay có một số người Khmer ăn mặc không khác chi
người Kinh và người Hoa, nhưng đa số những người đàn ông lớn
tuổi thường mặc đồ bà ba đen hoặc trắng, khi lao động họ thường
mặc quần cụt, phụ nữ lớn tuổi cũng mặc đồ bà ba, có một số mặc
áo dài tâm pông, ta thường gọi là tầm vông, hoặc áo dài cổ bà lai,
đây là loại áo dài của người Khmer, vạt áo dài, tay dài, cổ tròn,
may bít bùng không xẻ nách và thường được may bằng vải đen.
Đặc biệt là đàn ông đàn bà đều quấn chiếc khăn rằn trên đầu
hoặc vắt trên vai.
Trang phục truyền thống hiện nay chỉ được sử dụng trong các lễ cưới,
lễ hội, sân khấu đó là những chiếc săm pốt thật xinh xắn và
những chiếc áo bó sát người màu sắc thật lộng lẩy. Săm pốt
nguyên là một tấm vải rộng được quấn ngang người từ hông trở
xuống, kéo mối vải thật khéo từ phía trước luồn giữa hai chân
vòng ra phía sau xem hình dáng như một chiếc quần phồng to và
ngắn ngang đầu gối; đây là loại trang phục có nguồn gốc Ấn Độ
xưa.
Phụ nữ Khmer rất khéo tay trong việc thiết kế trang phục, trong
nhiều thế kỷ qua họ đã dệt được những chiếc xà rông thật tinh
xảo với những hoa văn họa tiết thật duyên dáng đầy tính thẩm
mỹ, mỗi chiếc xà rông đều có đường viền rất khéo léo và đẹp đẻ,
nhất là kỹ thuật dệt của họ đã đạt đến trình độ khá cao - một

chiếc xà rông sau khi dệt xong đều mang hình ống nhưng người ta
sẽ không tìm ra được một đường nối vải nào, y như một chiếc
khăn tròn tròa liền trơn không đầu mối.
Các loại trang phục truyền thống của người Khmer nói chung vừa kín
đáo vừa trang trọng lại vừa xinh đẹp đã biểu lộ được sắc thái đậm
đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Trang 6
Ngày nay trong một số lễ cưới chú rễ cũng mặc xà rông, áo màu đỏ,
cổ đứng vai trái vắt chiếc khăn dài, lưng đeo dao cưới (kầm pách)
theo tín ngưỡng dân gian để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc săm
pốt, áo đỏ hoặc tím, đầu đội mủ cưới hình chóp, cổ cũng quàng
khăn dài trông thật duyên dáng.
1.3. Ăn uống :
Người Khmer có một món ăn rất nỗi tiếng đó là mắm prahoc (người
Kinh thường gọi trại là bò hóc). Mắm này được làm bằng nhiều
loại cá, cách làm rất công phu và tốn thời gian rất lâu (khoảng
hơn 4 tháng). Mắm prahoc có thể làm bằng các loại cá nhỏ như cá
sặc, cá chốt, cá mè, cá lòng tong hoặc những lọai cá lớn đắt tiền
như cá trê, cá lóc tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của mỗi gia
đình, người giàu có thường làm mắm prahoc ốp bằng cá trê rất
thơm ngon từ mắm prahoc người chế được rất nhiều thức ăn, có
thể đem kho, chưng để ăn với các loại rau mác, rau dừa, hẹ nước,
cải trời, cỏ the, hoặc mắm sống ăn chung với sả ớt và đậu đủa thì
thật là tuyệt diệu. Ngoài ra người Khmer còn dùng mắm prahoc
nêm nếm các loại canh hàng ngày để tăng thêm hương vò, nhất là
món canh cải bẹ xanh nấu với cá lóc chiên nêm mắm prahoc, các
món ăn tuy đơn giản những hương vò thật đặc biệt đậm đà.
Trang 7
Ngoài loại mắm prahoc, còn có các loại mắm pro ot (bò ót), ơng pa, pơ
ling làm bằng tép mồng, tép bạc và một loại mắm chua rất ngon

có tên là pha ơk, ta thường gọi là mắm chao, món này làm bằng
tôm tép gì cũng được, nhưng ngon nhất là làm bằng tép bạc.
Muốn làm món này người ta chọn mùa tôm tép nhiều, dùng tôm
tép trộn muối và cho vào nhiều thính (gạo rang) xong đem phơi
nắng khoảng 7 - 10 ngày. Khi ăn người ta trộn với đu đủ xanh thái
nhỏ, củ gừng, củ riềng, ớt, trái chuối chát xắt mỏng. Đây là món
ăn rất ngon không những của người Khmer mà người Kinh cũng
rất thích.
Trang 8
Người Khmer còn có một loại canh gọi là Sòm lo ko kô. Người Kinh
thường gọi là canh sim lo, cách nấu cũng rất công phu, phải dùng
thòt, cá tươi nấu với rau ngỗ, chuối rém, hoặc trái đu đủ non và
được nêm bằng mắm prahoc, đây là món canh rất phổ thông và
được dùng ở nhiều nơi.
Một món ăn nỗi tiếng khác đó là món sòm lo mun mờ chot, ta thường
gọi là bún nước lèo, món này cả người Kinh và người Khmer đầu
thích; nhưng cách nấu của người Khmer công phu và có nhiều
hương vò đặc biệt hơn. Người ta dùng tôm cá nấu nhừ lấy nước cốt,
đem cá ra rút hết xương, nước cốt của cá được nêm muối, ớt, sả
và hai món mêm khác không thể thiếu là ngãi bún giã nhỏ với
mắm prahoc, món nước cốt sau khi nêm nếm và nấy kỹ đã trở
thành nước lèo dùng ăn với bún bột gạo thì thật là tuyệt. Với món
nước lèo này không ăn với bún người ta có thể nấu với bầu thành
thành một loại canh gọi là sòm lo kha lốt, nấu với bí đao gọi là sòm
lo tà lách, nấu với rau đắng gọi là sòm lo mách lây Ngoài ra còn
có món canh chua vừa chua vừa cay vừa béo gọi là sòm lo mò chu
được nấu với cơm mẻ rất đặc sắc hoặc thêm cả trái chuối xiêm
còn xanh và một ít mắm prahoc gọi là sòm lo mò chu pha le chất
thì lại càng ngon hơn.
Các món ăn của người Khmer tuy không cầu kỳ như món ăn của

người Hoa, nhưng hương vò rất đặc biệt và rất gần gũi với mọi
người; một số món ăn đã được Việt hóa ở Nam bộ, người Kinh từ
nhiều năm qua cũng đã có mắm chua cá linh, mắm ruột trộn đu
đủ, tép chau, canh chua, bún nước lèo nhưng mỗi món ăn đều
được cải tiến cho thích hợp với khẩu vò của con người từng đòa
phương.
2/- TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỢNG :
Trang 9
Người Khmer đã đón nhận đạo Bà La Môn từ lâu đời, những có lẽ do
những giáo điều gò bó và cách phân chia đẳng cấp quá khắt khe
của Bà La Môn không phù hợp với tính phóng khoáng, bình dò và
dễ dãi của người Khmer nên dần dần vò trí của tôn giáo này đã bò
Phật giáo nam tông (còn gọi là Phật giáo tiểu thừa hay Phật giáo
nguyên thủy) thay thế.
Giáo lý nhà Phật đã hòa nhập vào cuộc sống của người Khmer, lâu
dần đã trở thành đạo lý của con người, trở thành một thứ ý thức
gắn liền vào cuộc đời của họ. Chùa là mái nhà chung của mọi gia
đình, thanh niên trước tuổi trưởng thành đều phải đi tu để trở
thành người đạo đức - để có đủ điều kiện tham gia xã hội, xây
dựng gia đình, người Khmer không coi việc tu hành là bổn phận
hay nhiệm vụ bắt buộc mà là mà là một điều vinh dự, vinh dự
được vào ngôi nhà của Phật để nhận những hạt giống lành và
những phúc duyên thật tốt để sau đó trở lại thế tục với một con
người đầy đủ các điều kiện về nhân cách, phẩm chất, khả năng ,
người nào không muốn ra đời thì tiếp tục tu niệm để tìm giải
thoát. Trong xã hội của người Khmer trước đây, mọi thanh niên
đều phải có thời gian tu ở chùa, vì chùa không những là nơi trau
dồi đạo đức mà còn là mái trường đào tạo văn hóa và nghề
nghiệp, người nào không xuất gia thì bò mọi người khinh rẻ, khó
hòa nhập vào cộng đồng, cả việc cưới hỏi cũng bò trở ngại, người

con gái Khmer luôn xem đó là những người chưa đủ phước, chưa
đủ điều kiện để tiến đến hôn nhân.
Việc xuất tu cũng là điều dễ dàng, bất cứ người thanh niên nào sau
một thời gian xuất gia ở chùa đều có thể hoàn tục để lập gia đình,
người này sẽ được họ hàng thân tộc và bà con trong phum sóc
mừng rỡ đón về gia đình như đón tiếp những đứa con “thi đậu”
trở về.
Trang 10
Đối với người Khmer, Phật là chổ dựa tinh thần vững chắc nhất - là
đấng thiêng liêng nhất, sư sãi đều là những người đắp y mang bát,
thừa kế đức Phật để hoằng hóa độ sinh, vì vậy rất được mọi người
kính trọng và tôn q, bất kỳ người Khmer nào được các sư nhận
đồ cúng dường đều cảm thấy vui mừng như được ban phúc lớn.
Trang 11
Về việc tu hành thì nam phụ lão ấu đều được khuyến khích tu niệm
làm lành lánh dữ, nhưng chỉ có những người con trai mới được
xuất gia làm sư ở chùa, còn phụ nữ thì không được xuất gia làm ni
cô như các phái của Phật giáo bắc tông mà chỉ được các sư dạy
bảo tu tâm tại gia. Trừ người xuất gia, số người còn lại không kể
nam nữ đều phải đi chùa tụng kinh nghe pháp tại nhà giảng
(salatean) ít nhất là 6 lần trong tháng vào các ngày mùng 5, 8, 15,
20,23 và 30 âm lòch. Nội dung những bài giảng chủ yếu là nói về ý
nghóa việc bố thí, làm phước, giúp đỡ mọi người và cúng dường
tam bảo.
Đa số người Khmer đều có lòng tin về việc bố thí để làm phước, trong
những hình thức làm phước thì làm phước lớn nhất là cúng dường
thức ăn cho sư sãi và dâng cúng tiền của để xây dựng tu sửa chùa
hoặc làm các công việc phúc lợi xã hội của Phật giáo. Bởi có lòng
tin làm phước được phước cho nên trong những xóm nghèo vẫn có
những ngôi chùa nguy nga lộng lẫy.

Tuy nhiên ngoài lòng tin về chùa về Phật, người Khmer còn có những
tín ngưỡng dân gian rất đa dạng và phong phú, phổ biến nhất là
tín ngưỡng về arăk và neakta.
Trang 12
Arăk có nghóa là thần cũng có nghóa là ma quỷ không có hình dáng rõ
rệt, arăk có bổn phận bảo vệ và gìn giữ bình yên cho dòng họ hoặc
thân chủ nào đó, có thể xem đây là một loại thần thiện. Ngày xưa
hầu hết các gia đình Khmer đều thờ arăk, một số lớn bàn thờ arăk
ở đồng bằng sông Cửu Long là những chòi nhỏ ngoài trời được
làm theo kiểu nhà sàn được lợp bằng lá dừa nước, bên trong có bệ
thờ bày trí một khúc thân chuối hoặc một trái dừa để cặm nhang,
một cái dóa bằng bẹ chuối và một cái tháp được làm bằng cây.
Nhưng hiện nay loại chòi nhỏ để thờ arăk còn lại rất hiếm, chỉ
thấy lẻ tẻ một số rất ít ở các vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên về tín
ngưỡng arăk của người Khmer cũng còn rõ nét, họ luôn tin tưởng
arăk của dòng họ (arăk chua bua), các arăk này có tên riêng, có lời
ca riêng để nhập đồng (lên xác) và nhất là các vật dâng cúng cũng
không giống nhau; thí dụ : arăk Cần Tôn Khiu là nữ thần khi dâng
cúng phải là thòt ếch, thòt bò; arăk Chùa Teo Tây cũng là nữ thần
nhưng khi dâng cúng phải có gà, đầu heo; một số arăk rất khác
thường như arăk A Chúk khi mời nhập đồng phải dùng lời ca tục,
khi dâng lễ vật phải chưởi rủa và phải dâng bằng chân, phải đổ
rượu bằng gáo dừa
Arăk thường là bà tổ của dòng họ, hoặc là một người chết oan hoặc
người sau khi chết có những hiện tượng kỳ lạ hoặc là một người
nào đó trong dòng họ rất nỗi tiếng. Khi cúng arăk thường phải có
một người nữ để nhập đồng (rub arak) - người Kinh ở Nam bộ
thường gọi là xác cô, xác cậu, người được chọn thường là một
người không được bình thường, ưa nói năng khó hiểu hoặc có các
thói quen lạ đời; tuy nhiên trong phum sóc đôi khi cũng có người

nhập đồng chuyên nghiệp.
Trang 13
Khi gia đình có người đau yếu hoặc có chuyện cần cầu xin, người
Khmer thời trước thường tổ chức nhập đồng, thường thì ngoài
các lễ vật phù hợp còn phải có 2 hoặc 4 người đánh
trống (skor arăk), một người đàn gáo, một người thổi
sáo và một người sử dụng chà pei. Khi người lên
đồng đặt hai tay lên mâm lễ vật thì nhạc tấu lên và
điệu lên đồng (chol arăk) được ca lên, người lên đồng
lúc đó uốn éo, có nhiều cử động khác thường như
uống nước liên tục, ngậm rượu phun vào người
bệnh và nói những câu đặc biệt để chữa bệnh hoặc
nói với chủ nhà phải làm một số điều gì đó thì bệnh
nhân mới hết được.
Trang 14
Cứ hai hoặc ba năm vào khoảng tháng 3 tháng 4 âm lòch, các dòng họ
của người Khmer đều có tổ chức cúng arăk chua bua, thường gọi
là cúng tổ (lờn run) để cầu cho các arăk đã phù hộ cho con cháu
được mạnh giỏi và bình yên.
Song song với tín ngưỡng arăk còn có tín ngưỡng neakta, neakta là một
vò nam thần đứng tuổi có trách nhiệm bảo hộ con người và đất đai
trong một khu vực, cũng tương tự như loại tín ngưỡng Thành
hoàng của ta. Đối với người Khmer neakta có nhiều xuất xứ khác
nhau, có thể là linh hồn của một người đã chết từ lâu, một vò thần
ở trong rừng thẩm, hoặc một vò thần ở nơi đồng ruộng được chỉ
đònh để coi sóc một đòa phương hoặc một khu vực nào đó.
Người Khmer ở Nam bộ thường thờ neakta ở các miếu nhỏ làm bằng
cây lá, thường được đặt ở ngã ba sông, bìa rừng, mé ruộng hoặc
dưới gốc cây trong một khuôn viên nào đó, trên bệ thờ mỗi miếu
thường là những viên đá cuội rất bóng láng, người ta tin rằng đó

là hóa thân của neaktà. Có một loại miếu to hơn được đặt ở các
khuôn viên chùa, miếu này thường được làm bằng gạch ngói để
thờ các vò neakta chủ xóm (neakta wâtt, neakta méchas srot), trên
bệ thờ có một viên đá to (thmor thom) và nhiều viên đá nhỏ (thmor
touch); các viên đá này có viên tròn, cũng có viên hình bầu dục,
người Kinh thường gọi nôm na là “ông tà”ø và gọi các miếu thờ là
miểu ông tà.
Trang 15
Về tên gọi của neakta cũng rất đa dạng được phân chia ra làm nhiều
loại : Loại dùng tên của một vật trong thiên nhiên, hoặc dùng đòa
danh để đặt tên, có loại mang tên nhân vật trong truyền thuyết,
có loại căn cứ vào màu sắc để gọi tên, cũng có loại tên có nguồn
gốc từ đạo Bà La Môn như neakta Day Khmau, neakta Kocohom,
neakta Buôn Muk, neakta Pottobol, neakta Neang Khmau, neakta
Neang Khiu. Riêng các neakta Day Khmau và Kocohom được thờ
cúng rất nhiều ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long được người
ta xem như những hóa thân của các thần Vishnou và Siva trong
các truyền thuyết xa xưa. Các neakta này thường được thờ cúng ở
chùa.
Tín ngưỡng arăk và neakta đã ảnh hưởng rất sâu đậm vào cuộc sống
của người Khmer trong nhiều thế kỷ qua, nhất là những đồng bào
nghèo ở các phum sóc xa xôi, người ta luôn tìm chổ dựa tinh thần
vào tổ tiên của dòng họ, vào những vò thần bảo hộ xóm làng,
người ta luôn kêu cứu các vò khuất mặt khuất mày đó để xin được
cứu giúp trong những khi bò thiên tai, dòch bệnh, thất mùa, tai
nạn Nhưng dưới sự truyền bá sâu rộng của Phật giáo nam tông,
các loại tín ngưỡng dân gian của người Khmer càng ngày càng bò
biến đổi hình dạng và cho đến nay trình độ dân trí của người
Khmer đã được nâng cao, nên một số lớn tín ngưỡng về arăk và
neakta cũng đang dần dần bò mai một.

3/- VĂN HỌC DÂN GIAN :
Người Khmer Nam bộ thật sự đã có một kho tàng văn học dân gian
rất lớn bao gồm nhiều thể loại như truyện cổ tích (rương prêng),
thần thoại (rương boran), tục ngữ (sopheaset), bài ca (châm riêng)
các thể loại này được chia làm hai loại lớn, là văn xuôi (peak
sâmrai) và văn vần (kâm nap).
3.1. Loại văn xuôi (peak sâmrai) :
Trang 16
Về văn xuôi cũng có hai thứ : văn viết và văn nói. Trong văn học dân
gian của người Khmer Nam bộ có một loại văn viết rất đặc biệt
đó là những bài diễn văn theo một khuôn mẫu có sẵn được đem ra
đọc trước đám đông tại chùa hay tại nhà riêng nhân một lễ hội
nào đó. Thường thì trong lúc đọc có nhiều người nghe, khi nghe
xong họ đều biểu đồng tình với diễn văn, lúc người đọc chấm dứt
đều nói “xong” (hâng) thì mọi người cùng lượt hô to “tốt” (sathu).
Nhưng thế mạnh trong văn học dân gian vẫn là văn nói, thể hiện rõ
nhất trong văn nói của người Khmer Nam bộ là hai loại truyện kể
: Cổ tích và thần thoại. Thực ra các truyện này có guồn gốc từ các
sách chép trên lá thốt nốt (sătra) nhưng được lưu hành trong dân
gian bằng hình thức truyền khẩu. Về cổ tích thì đa số mang màu
sắc Phật giáo, nội dung cốt truyện thường dạy con người làm lành
lánh dữ, đa số các truyện cổ tích đều nhằm nhắc nhở làm ác gặp
ác, làm thiện gặp thiện, con người hiền lành dù có bò hãm hại hay
bò tai bay họa gởi nhưng cuối cùng vẫn bình an, cuối cùng cái thiện
luôn thắng cái ác. Các tích truyện thường nói về thân phận con
người trong mọi hoàn cảnh khác nhau, đôi khi những nhân vật
trong truyện lại là những con vật như : thỏ, cáo, gà, khỉ, cọp,
voi cho thêm phần hấp dẫn và đa số các truyện cổ tích đều kết
thúc bằng các hình thức thưởng thiện phạt ác.
Truyện cổ tích Khmer rất phong phú về nội dung và dồi dào về số

lượng với nhiều đề tài có ý nghóa, các nghệ nhân Khmer phân ra
làm nhiều loại : Chuyện xưa tích cũ, ngụ ngôn, truyện kể về thú
vật và truyện cười.
Trang 17
Truyện ngụ ngôn được phát triển rất lớn vì Phật giáo có lối giảng đạo
cho người bình dân bằng cách kể truyện có ẩn dụ để thay cho
những bài giáo lý khô khan khó hiểu : Các nhà sư thường dùng
những hình tượng cụ thể trong văn học thay thế cho những khái
niệm trừu tượng trong triết học để dễ dàng truyền bá giáo lý
Phật giáo đến mọi người, lâu dần đã thành những câu truyện kể
quen thuộc trong dân gian.
Các truyện nói về loài vật thì mỗi loài được nhân cách hóa và điển
hình cho mỗi trường hợp trong cuộc sống khác nhau, riêng hình
tượng con thỏ đã được gắn vào nhiều truyện cổ tích xa xưa và
người Khmer cũng rất chú ý đến hình tượng con vật này. Một số
lớn người Khmer đều nghó rằng thỏ là loài vật tinh khôn, đẹp về
thân thể, tinh khiết về tinh thần, từng là tiền thân của đức Phật
đã có lần hy sinh thân mạng để cứu người khác, người ta đã khai
thác triệt để ý nghóa hy sinh cao cả này trong các truyện kể dân
gian. Ngòai ra, khỉ và voi cũng là những hình tượng thường được
nhắc đến.
Trang 18
Trong các loại hình truyện kể dân gian có một loại cũng rất được mọi
người thích thú đó là truyện cười. Không chỉ riệng đối với người
Khmer mà cả các dân tộc khác, truyện cười luôn mang lại những
cái vui tươi, hóm hỉnh, sảng khoái, cũng vừa là những bài học có ý
nghóa thâm thúy về cuộc đời của con người. Truyện cười đã phản
ảnh được những thói hư, tật xấu của của quan lại, vua chúa,
những người giàu sang, đạo đức giả, những con người được xem là
“phụ mẫu chi dân” nhưng lại nhẫn tâm áp bức đày đọa : “con

dân” của mình; nay lại bò những vố thật cay cú, thật khoái trá của
những nhân vật chính trong câu truyện, những nhân vật đại biểu
cho tầng lớp lao động nghèo. Người Kinh có Trạng Quỳnh đã từng
dùng trí khôn của mình làm điên đảo phủ Chúa và đã từng làm
cho những người ăn trên ngồi trước này phải nhiều phen thất điên
bát đảo, thì ở đây trong truyện cười của người Khmer cũng có
nhân vật Thnênh Cheay đã từng có nhiều thành tích làm đảo điên
“luật nhà phép nước” lỗi thời và những bọn “cao quan hậu lộc”
phải nhiều phen cười ra nước mắt.
Truyện thần thoại của người Khmer cũng có khối lượng rất lớn được
thể hiện rõ nhất bằng cách truyền khẩu và qua các tác phẩm điêu
khắc, hội họa ở chùa, ở các công trình công cộng, cứ mối một hình
tượng là có mỗi thần tích với ý nghóa sâu xa.
Trang 19
Phổ thông nhất trong truyện thần thoại Khmer là truyện Đầu thần
bốn mặt, trên đỉnh các nóc chùa Khmer đều có đặt tượng đầu của
một vò thần có đến bốn mặt nhìn ra bốn bên, biểu tượng này gắn
với một lễ nghi quan trọng trong ngày đầu của tết Chuôl Chnam
Thmay, đó là lễ rước Maha Sângkran, lễ rước ấy có liên quan đến
một câu chuyện thần thoại như sau : Ngày xưa, ở trên trời có một
vò chúa tể gọi là Maha Prum, một hôm ông tức giận vi phát hiện
dưới trần có một hoàng tử tên Thômabal, một người có trí tuệ phi
thường nên đa số dân chúng thường nghe theo.Thần Maha Prum
ganh tò liền bay xuống trần gặp mặt hoàng tử ra một câu đối và
nói rằng nếu đáp được thì Maha Prum sẽ cắt đầu chòu thua, nếu
không đáp được thì hoàng tử phải bò giết chết. Hoàng tử nhận lời
và vò chúa tể ra câu đố “Buổi sáng cái duyên con người đặt ở đâu
và buổi trưa, buổi tối lại ở đâu ?”. Hoàng tử đi vào rừng tỉnh tâm
suy nghó, bổng nghe hai con chim nói với nhau “Buổi sáng cái
duyên ở mặt nên người ta phải rửa mặt, buổi trưa cái duyên ở

bụng nên người ta phải tắm và buổi tối cái duyên ở chân nên
người ta phải rửa chân để đi ngủ”. Hoàng tử nghe xong tỉnh ngộ
liền tìm vò chúa tể Maha Prum trả lời. Maha Prum bò thua và đã
giữ đúng lời hứa tự cắt chiếc đầu có bốn mặt của mình đặt ở đỉnh
núi Somêru giao cho bảy nàng công chúa con của thần luân phiên
canh giữ.
Nội dung truyện thần thoại này đã nêu lên ý nghóa sự chiến thắng của
con người đối với vò thần có nhiều quyền năng và kiêu ngạo, sự
chiến thắng của trí thông minh, của trí tuệ loài người đối với sức
mạnh của thiên nhiên và các uy lực huyền bí.
Trang 20
Trong các ngôi chùa Khmer, người ta còn thấy biểu tượng Reahu với
chiếc đầu to mồm rộng, răng nhe, mắt trợn, hai tay nắm mặt trời
đưa vào mồm chực nuốt. Biểu tượng này cũng có nguồn gốc từ
một truyện thần thoại rất quen thuộc trong dân gian : Ngày xưa,
trong một gia đình nọ có ba anh em trai, do cha mẹ mất sớm nên
họ đã ở chung một nhà và rất thương yêu nhau. Một hôm có một
đoàn tu só đi khất thực, hai người anh bảo người em út dâng cơm,
người em chạy vào nấu cơm, nhưng cơm chưa chín, đoàn tu só đã đi
qua rồi, hai anh tức giận chưởi mắng thậm tệ, anh thứ hai còn
dùng đủa bếp đánh vào đầu đứa em. Người em nổi giận bỏ nhà ra
đi, đến một con sông thấy nước chảy cuồn cuộn mới ước ao cho
mình có sức mạnh vạn năng, may mắn thay người em lại được đắc
kỳ sở nguyện trở thành người có sức mạnh vô song và sau đó hai
người anh do có công quả tu tập, nên anh cả đã biến thành mặt
trời và anh hai biến thành mặt trăng.
Trang 21
Người em lúc này tự xưng tên là Reahu, ỷ có sức mạnh phi thường nên
xem thường mọi người và còn xem thường cả thần thánh. Một
hôm nghe làng bên có một vò La Hán đang thuyết pháp, dân

chúng nói rằng La Hán là người cao lớn vô cùng nên anh chàng
mới đến nơi xem sao, thấy vò La Hán ngồi trong ngôi nhà nhỏ,
Reahu bật cười nói rằng “Tôi nghe ông cao lớn lắm, nay mới thấy
ông ngồi trong ngôi nhà nhỏ như thế này thì cao lớn thế nào
đựơc”. Vò La Hán cười bảo “Nếu ngươi muốn biết ta cao lớn như
thế nào thì hãy bước vào đây”. Reahu vừa bước tới cửa, bổng
nhiên ngôi nhà trở nên to lớn dò thường và vò La Hán cũng trở nên
rất lớn. Reahu ngạc nhiên hỏi “Ông to lớn như thế, nhưng không
biết có ai lớn hơn không”. Vò La Hán nói có đức Phật Cù Đàm.
Reahu nghe nói nổi tính hiếu kỳ muốn xem ra sao nên mới xin La
Hán dẫn đi xem. Vò La Hán thuận tình cho Reahu bám vào tay áo
bay về Tây Phương. Phật Cù Đàm thấy vậy nói rằng : “Đã là
người tu hành còn để cho con chí con rận bám vào áo làm chi”.
Reahu nghe nói bổng dưng xấu hổ bèn buông tay áo rơi trở lại
trần gian.
Trang 22
Trên đường về Reahu thấy có suối nước trong liền cuối xuống uống,
chẳng may bò máy trời chém đứt làm hai khúc, khúc thân rơi
xuống đất, khúc đầu bay lên trời, nhưng Reahu không chết bay
đến đâu gây thảm họa đến đó, y thường dùng chiếc mồm khổng lồ
của mình để thổi ra bão tố và thường hóa thành những luồng trốt
mạnh để cuốn người đi, người Khmer giải thích hiện tượng đó là
“Ông cụt đi”. Reahu nhớ lại năm xưa hai người anh bạc đãi mình
nên phát sinh lòng thù hận mới bay lên đỉnh núi Somêru để chờ
mặt trời, mặt trăng đi qua để trả thù. Vì vậy cứ mỗi lần có hiện
tượng nhật thực, nguyệt thực thì người Khmer giải thích lúc đó
mặt trời và mặt trăng đang bò Reahu nuốt vào bụng, nhiều người
còn tin rằng nếu Reahu nuốt mặt trăng từ Đông sang Tây thì
thường xảy ra nạn đói kém, nếu trái lại Reahu nhả mặt trăng từ
Tây sang Đông thì năm đó sẽ trúng mùa, một số phụ nữ khi có

thai còn cầu xin Reahu phù hộ cho sinh đẻ được mau mắn và dễ
dàng.
Truyện này phản ánh sự nhận thức của con người thời cổ về các hiện
tượng tự nhiên như giông bão, gió trốt, thủy triều lên xuống, nhật
thực, nguyệt thực , tất cả đều do một năng lực huyền bí gây nên.
Ngoài ra, còn rất nhiều truyện thần thoại khác, mỗi truyện đều
mang một ý nghóa đặc biệt và phản ảnh một đôi phần về các sinh
hoạt và tín ngướng cổ xưa.
3.2. Loại văn vần (kâmnap) :
Trong văn học dân gian Khmer, loại văn vần cũng không kém phần
phong phú hơn loại văn xuôi, có thể nói còn hấp dẫn hơn bởi tính
trữ tình của nó. Gọi chung là thơ ca dân gian nhưng trong đó bao
gồm rất nhiều loại của nhiều thời kỳ lòch sử khác nhau, có cả : ca
hát (châm riêng), hò (Bâm to bât), tục ngữ ca dao (Sphoeaset), dân
ca (Bât chrieng) và các bài thơ ngụ ngôn, trào phúng, châm biếm
Trang 23
Cuộc sống của người Khmer Nam bộ rất gần gũi với thiên nhiên, họ
rất thích ca hát để biểu đạt tình cảm, trong mọi sinh hoạt đình
đám, hội hè, liên hoan, họp mặt đều có ca hát, ca hát là một món
ăn tinh thần rất quen thuộc và quan trọng đối với người Khmer.
Thường thì múa và hát ít khi tách rời, điệu múa làm tăng thêm ý
nghóa cho lời ca và lời ca càng làm tăng thêm nghệ thuật cho điệu
múa. Các nam nữ vừa múa vừa hát đối đáp với nhau qua các bài
ayai. Trong những ngày mùa có những bài ca phục vụ lao động
(châm riêng pôtahkam) người nông dân vừa hát vừa làm việc để
quên đi nổi mệt nhọc trên đồng ruộng. Cũng có những bài ca trữ
tình (châm riêng brâchea brei) các thanh niên nam nữ rất ưa thích
và có cả những bài độc tấu, độc diễn, vừa ca vừa sử dụng đàn dây
(châm riêng chapei).
Người Khmer Nam bộ còn có những điệu hò rất lý thú, đây cũng là

một điểm đặc biệt trong các dân tộc ít người ở Việt Nam, có lẽ do
người Khmer sống tập trung khá đông đúc ở các vùng sông nước,
với nhiều sinh hoạt tập thể ở ruộng đồng và xuất phát từ những
nhòp điệu lao động lâu ngày đã tạo thành những điệu hò độc đáo.
Trong các sinh hoạt vui chơi ở các lễ hội người Khmer đã sử dụng
các điệu hò kéo dây, hò kéo co để cổ vũ các vận động viên nam
nữ; trong các sinh hoạt lao động nơi dòng sông bến nước lại có các
điệu hò đua thuyền, hò chèo ghe, hò hái sen Nội dung của các
điệu hò đa số phản ánh những sinh hoạt thực tế của người Khmer
ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng cũng có một số các điệu
hò do cuộc sống cộng cư nhiều năm nhiều tháng và trong quá
trình giao lưu văn hóa giữa các tôïc người ở Nam bộ nên đã bò ảnh
hưởng ít nhiều đến các điệu hò đi cấy, hò giả gạo, hò chèo ghe
của người Kinh.
Trang 24
Riêng về dân ca Khmer cũng có rất nhiều thể loại : Về lao động có
hát quăng chài (chriêng bâng sâm nanh), hát chặt gỗ (chriêng kab
chhơ), hát bửa củi (chriêng puhôs), hát giã gạo (chtiêng bôk srân),
hát cấy lúa (chriêng stungrrâuv), hát nuôi tằm (chriêng chinh
chưm neang), hát quay tơ (chriêng rôveays sânt), hát dệt chiếu
(chriêng tbânth kânteteet), hát dệt vải (chriêng đâm banh), hát thợ
mộc (chriêng cheng chhơ), hát thợ gốm (chriêng smâun chhăng)
Về phong tục lễ hội thì có rất nhiều bài hát. Chỉ riêng lễ cưới đã
có đến hàng trăm bài, nào là hát đến nhà gái, hát mở rào, hát
buộc chỉ, hát quét chsssiếu, hát cắt hoa cau Ngoài ra, trong mỗi
sinh hoạt của người Khmer trong một cuộc sống đời thường đều
có sự hiện diện của dân ca. nếu được sưu tập đầy đủ thì sẽ làm
phong phú và khởi sắc thêm kho tàng dân ca Nam bộ.
4/- CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT :
Nghệ thuật là món ăn tinh thần rất cần thiết trong cuộc sống của con

người, nghệ thuật là tiếng nói riêng là biểu hiện bản sắc văn hóa
của từng tộc người trên thế giới, mỗi dân tộc đều có những loại
hình nghệ thuật đặc thù đã phản ánh những phong tục tập quán
của từng đòa phương. Người Khmer là một tộc người vốn có cuộc
sống tinh thần rất phong phú, từ đó sản sinh nhiều loại hình nghệ
thuật rất độc đáo như nghệ thuật múa, âm nhạc, sân khấu, kiến
trúc ; từng loại hình nghệ thuật đã phản ảnh được những góc độ
nhất đònh về tâm tư, tình cảm, phong tục tập quán của người
Khmer trong nhiều thế kỷ qua.
4.1. Âm nhạc :
Trang 25

×