Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

hàn mạc tử – nhà thơ có số phận kỳ lạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.95 KB, 11 trang )

HÀN MẠC TỬ – NHÀ THƠ CÓ SỐ PHẬN KỲ L
Hàn Mạc Tử là một nhà thơ có cuộc đời và số phận hết sức lạ kỳ. Trong hơn nữa
thế kỷ qua, rất nhiều cuốn sách bài baó viết về con người này nhưng dường như
vẫn còn nhiều điều không thể nói hết
I – DUYÊN KỲ NGỘ VỚI NHÀ YÊU NƯỚC VĨ ĐẠI
Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh vào giờ Thìn này 22/09/1912
tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Lúc còn nhỏ, chàng đã được người anh
đầu là một người rất giỏi thơ Đường Luật động viên, hướng dẫn làm thơ, nhờ thế
chàng có thể sáng tác thành thạo thơ Đường từ rất sớm. Chính những bài thơ này
đã dẫn dắt chàng gặp gỡ nhà yêu nớc vó đại Phan Bội Châu. Và cuộc gặp gỡ đònh
mệnh đó là thay đổi cả cuộc đời chàng về sau.
y là vào năm 1925 , Phan Bội Châu bò thực dân Pháp bắt ở Trung Quốc và
đưa về Việt Nam xét xử. Nhưng dưới áp lực đấu tranh đòi ân xá của các tầng lớp
nhân dân trong nước cũng như dư luận quốc tế, chúng phải đưa nhà yêu nước về
giam lỏng ở Huế. Từ đó Phan Bội Châu trở thành ông già Bến Ngự, sớm lấy văn
thơ làm vui. Để giao lưu tâm tình với bạn hữu và những người đồng chí hướng,
Phan Bội Châu mở ra Mộng Du Thi Xã, kêu gọi mọi người gửi thơ văn đến xùng
hoạ. Lời kêu gọi của nhà yêu nước được hưởng ứng sôi nổi. Thơ từ các nơi gởi về
cho Mộng Du Thi Xã rất nhiều. Và trong số các bài thơ gởi đến, Phan Bội Châu
đặc biệt tâm đắc với ba bài thơ của Hàn Mạc Tử. Chàng đã gởi đến ba bài thơ
Đường Luật có tên là Thức Khuya, Chùa Hoang và Gái Chùa. Đó là vào những
năm 1931.
Những bài thơ của chàng đã xoáy đúng tâm trạng nhà yêu nước. Phan Bội
Châu đã hoạ lại ba bài thơ độc đáo này và cho đăng tất cả trên báo Tràng An,
một tờ báo có nhiều bạn đọc xuất bản ở Huế với lời đề dẫn : “Từ khi về nước đến
nay, được nghe nhiều về thơ Quốc m, song chưa gặp được bài nào hay đến thế.
Hồng Nam Nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười to một tiếng, ấy
là thỏa hồn thơ”.
Việc xướng họa thơ văn với nhà yêu nước Phan Bội Châu đã làm cho Hàn
Mạc Tử, khi đó lấy bút hiệu Phong Trần, nổi tiếng ngay lập tức. Làng văn xôn xao
trước sự xuất hiện đầy ấn tượng của một thi só mới. Đặc biệt hơn nữa, tác giả còn


được Phan Bội Châu tôn xưng là tiên sinh. Tiếp sau đó, Hàn Mạc Tử ra Huế để
tìm thăm Phan Bội Châu. Đây là một việc làm hết sức nguy hiểm, vì thực dân
Pháp sẽ chú ý đến tất cả những ai có mối quan hệ mật thiết với nhà yêu nước này.
Sau cuộc gặp gỡ, Hàn Mạc Tử thường xuyên liên hệ thư từ với Phan Bội Châu,
chàng còn gửi thơ của những người bạn khách ra cho ông. Mật thám Pháp sau một
thời gian theo dõi, cuối cùng đã gạt danh sách những người được bảo trợ sang
Pháp du học. Tiếp đó, Sogny – Chánh Sở Mật Thám Huế gửi công văn vào Quy
Nhơn yêu cầu điều tra về chàng. Chánh Sở Mật Thám Quy Nhơn là Veran gọi
chàng lên tra hỏi nhiều lần làm cho gia đình hết sức lo lắng. Người anh chàng phải
thư ra Huế nhờ thượng thư Nguyễn Hữu Bài, một người quen thân với gia đình
chàng xưa nay, can thiệp với chính quyền thì chuyện mới êm.
Không được đi du học, cuộc đời Hàn Mạc Tử rẽ sang một ngả khác. Từ đây,
chàng bắt đầu bước chân vào con đường viết báo. Tờ gian này, tình hình kinh tế
no’i chung ất khó khăn. Nạn thất nghiệp tràn lan. Chàng làm thêm công việc biên
chép các tờ trích lục cũ cho Sở Đạc Điền Quy Nhơn. Nhưng công việc này chỉ đem
đến cho chàng một khoảng tiền đủ để mua báo, giấy viết và tem gửi bài. Rồi xảy
ra cơn bão lớn năm 1934 làm sập căn nhà của chàng đang ở. Nợ nần ập đến. Hàn
Mạc Tử quyết đònh rời Quy Nhơn, vào Sài Gòn lập nghiệp bằng con đường làm
báo chuyên nghiệp.
II – NHÀ BÁO ĐƯC NHIỀU CHÍNH KHÁCH NỂ TRỌNG
Tháng 7 năm 1934 từ Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử khăn gói lên đường vào Sài
Gòn để làm báo theo lời thúc giục, rủ rê của mấy người bạn thân. Sau một thời
gian lang thang chờ việc ở Sài Gòn, chàng được phụ trách trang văn chương cho tờ
báo Trong Khuê Phòng.
Chàng vừa sáng tác, vừa biên tập bài vở, vừa kim luôn việc sửa bản in, vì thế
thu nhập cũng khá. Nhưng chàng luôn cảm thấy ấy nấy khi bài báo mang tên
Trong Khuê Phòng mà nói chuyện văn chương thì có vẻ không ổn. Tuy thế, do chủ
báo đối xử qúa tử tế nên chàng cũng lấy làm vui. Nhưng có một lần, những người
bạn của chàng viết bài gây sự với ai đó, bò công kích lại. Trên một tờ báo Sài Gòn
trong mục “câu chuyện tầm phào” có bài viết mỉa mai “những trang nam tử lập

nghiệp ở phòng the”, ý nói nhóm làm báo Trong Khuê Phòng số nhờ vào việc
khai thác “ thông tin khuê phòng”, với nhiều câu mỉa mai rất dung tục khiến
chàng bò sốc, không đến toà soạn nữa. Chủ bút phải cử người đến nhà trọ của
chàng lấy bài và an ủi mãi chàng mới trở lại làm việc.
Sài Gòn ít lâu chàng trở nên nổi tiếng. Nhiều chính khách kính nể và đến
làm quen khi biết chàng từng có mối liên hệ với Phan Bội Châu và bò mật thám
pháp theo dõi. Từ đó chàng quan tâm đến những thông tin chính trò. Chàng đi’nh
làm một nhà chính trò chăng ? từ những xướng họa với nhà yêu nước Phan Bội
Châu, bỏ qua cả cơ hội quan trọng là sang Pháp du học đến chỗ giao du với các cá
nhân vật chính trò không đơn thuần là những việc làm ngẫu hứng của một chàng
thanh niên trẻ tuổi. Nhà báo De Lachevrotière, một nghò viên pháp lai da màu rất
thích tìm chàng nói chuyện. Qua De Lachevrotière, chàng quen nhiều nhóm chính
trò khác nhau. Một số nhóm còn bày tỏ thái độ chống Pháp. Tuy nhiên, lâu dần
chàng cảm thấy chán nản khi nhận ra những nhóm chính trò này dù hô hào cách
mạng nhưng họ chỉ là những con bài của Pháp mà thôi.
Đầu năm 1935, chàng về Huế, trong một đêm buồn lang thang trên bến sông
Hương chàng đã làm bài thơ đêm khuya tự tình với sông Hương để tặng Phan Bội
Châu với nhiều tâm sự ray rứt :
“Bây giờ chỉ có đôi ta
Bao nhiêu tâm sự Hằng Nga biết rồi
Thû nước non đến hồi non nước
Sông Hương đành xuôi ngược đông tây
Soi lòng chỉ có đám mây
Đám mây phú qúy những ngày lao đao
Sao mặt sông xanh xao ra dáng
Sao tình sông lai láng không ngăn”
Bài thơ được đăng trên báo Công Luận số ra ngày 2 – 3 – 1935. nhiều câu chữ
bộc lộ rất rõ ý hướng của chàng :
“ Mặc ai khanh tướng công hầu
Không thèm chung đỉnh, lưng bàu gió trăng

Sao trời đất đãi đằng ra thế
Sao mưa nguồn chớp bể luôn đêm”
“nhà ai khiêu vũ năm canh
Hơi men sực nứt dưới thành đô xưa
Sao tức tối trôi bừa đi mãi
Chẳng buồn nghe cô gái thở than
Thuyền em đậu bến Hương giang
Chờ người quân tử lỡ làng tình duyên”
Đêm Khuya Tự Tình Với Sông Hương mang hơi hướng Trên Dòng Hương
Giang của tố hữu. “ hay! Sóng chảy dạt dào / Chiếc thuyền vô đònh dạt dào bến
sông”. Hơi thơ tuy uỷ mò hơn nhưng tình thơ cũng là thế. Hàn Mạc Tử nhìn thế sự
bằng con mắt cuả một người muốn làm một cái gì để vỡ tung sự đè nén.
Ngoài việc phụ trách trang văn chương cho tờ Trong Khuê Phòng, Hàn Mạc
Tử còn viết cho khá nhiều baó nên kiếm được nhiều tiền nhuận bút. Ngoài báo
tiếng Việt, chàng còn viết cho một số báo tiếng pháp như Impartial, Opinion, La
Lutte… tuy nhiên chàng vẫn luôn thiếu trước hụt sau. Lãnh nhuận bút được bao
nhiêu cũng bò bạn “mượn đỡ” mà không bao giờ có chuyện trả lại. Thậm chí quần
áo cũng để cho bạn bè dùng chung. Mỗi lần từ Sài Gòn về đến Quy Nhơn chàng
chỉ còn chiếc vali trống rỗng. Người em kế của chàng tên Nguyễn Bá Tín kể, có
lần vaò Sài Gòn thăm anh, chẳng những anh ấy không cho tiền về xe mà còn xin
tiền của em mình để tiêu nữa.
Hàn Mạc Tử là một người sống rất vì bạn. Thời kỳ ở Quy Nhơn chưa vào Sài
Gòn làm báo, ngôi nhà của chàng là nơi bạn bè tụ tập đến để chơi đùa, nói
chuyện văn chương, chuyện trên trời dưới đất. Nhiều người ăn tại nhà chàng nhiều
hơn ăn ở nhà mình. Tuy nhiên có một điều đặt biệt, chơi hết lòng vì bạn nhưng
không giờ theo bạn chơi bời buông thả. Chàng nhất quyết không dính vào những
thứ như gái, thuốc phiện. Hoàng Trọng Miên, một người bạn làm báo thân thiết
với chàng tiết lộ : “có cám dỗ anh Trí vào nếp sống buông thả nhưng tâm hồn anh
trinh trắng qúa, ngay cả đất Sài Gòn ăn chơi tội lỗi này cũng không cám dỗ anh sa
ngã được”.

III – THỰC HƯ QUANH CHUYỆN TÌNH MỘNG CẦM
Hàn Mạc Tử quen Mộng Cầm trong thời gian phụ trách trang văn chương cho
tờ Trong Khuê Phòng. Mộng Cầm là cháu gọi Bích Khuê bằng cậu, vì “lây nhiễm
tinh thần thơ văn” của ông cậu trẻ tuổi nên cũng tập tành làm thơ gởi báo. Hàn
Mạc Tử đã nhận được một số bài thơ như thế của Mộng Cầm gởi đến và làm quen
với Mộng Cầm.
Hai mươi năm sau ngày Hàn Mạc Tử mất, vào năm 1961, nhà thơ Nguyễn Vỹ,
chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí phổ thông có toà soạn tại Sài Gòn đã cử ông Châu
Mộng Kỳ tìm gặp Mộng Cầm để thực hiện bài phỏng vấn về mối tình Hàn Mạc
Tử – Mộng Cầm. Nhờ mối quan hệ đặc biệt, ông Châu Mộng Kỳ là thầy con riêng
của chồng Mộng Cầm, nên bài phỏng vấn mới thực hiện được. Trước đó nhiều
nhà báo đã bò từ chối. Trong bài trả lời phỏng vấn nói trên đăng ở tạp chí phổ
thông số 63, ra ngày 15 tháng 8 năm 1961, Mộng Cầm đã phủ nhận hoàn toàn
chuyện tình cảm mình và Hàn Mạc Tử : “một dòp thứ bảy đi chơi lầu ng Hoàng,
anh thổ lộ mối tình với tôi. Tôi có trả lời anh : chắc là không thể đi đến chỗ trăm
năm được, tôi nói trước để anh đừng hy vọng. Anh hỏi lý do. Tôi viện lẽ tôn giáo
khác nhau, nhưng thật ra vì biết Hàn Mạc Tử mang chứng bệnh hiểm nghèo,
không thể sống lâu được, ý tôi muốn một người chồng mạnh khỏe, tráng kiện…tuy
vậy chúng tôi vẫn giao thiệp thân mật một hai năm như thế. Trong thời gian này,
có nhiều lần, Hàn Mạc Tử năn nỉ tôi dẫn về Quãng Ngãi thăm nhà và trong nhiều
bức thư anh đề cập đến vấn đề hôn nhân. Tôi vẫn trả lời, nhưng luôn luôn ng
biện để từ chối : em thiết nghó chúng ta sống như thế này thanh cao hơn, tôn giáo
bất đồng, chữ hiếu bắt buột em phải nghe lời thân mẫu em”.
Bài phỏng vấn này đăng lên, Nguyễn Vỹ cho biết Mộng Cầm đã đọc và không
có điều chi thắc mắc và ông kết luận “ đã giải đáp dứt khoát một nghi vấn thường
bò nhiều người xuyên tạc”. Tuy nhiên với đọc giả, bài phỏng vấn của Mộng Cầm
đã gây sốc. Bởi mối tình Hàn Mạc Tử – Mộng Cầm đã được người đời nâng lên
thành huyền thoại. Ngay cả Ngọc Sương dì ruột của Mộng Cầm cũng phản đối.
Rồi Quách Tấn, người ủng hộ việc Mộng Cầm đi lấy chồng khi hay tin Hàn Mạc
Tử bò bệnh nan y cũng giận dữ trước lời phát biểu này. Quách Tấn viết : “cuộc

tình duyên giữa Hàn Mạc Tử và Mộng Cầm, tối biết rõ lắm. Nhưng tôi chỉ nói
những gì có thể nói đực, nói những gì có thể giúp cho bạn đọc hiểu thêm tâm hồn
Tử, văn chương Tử mà thôi”. Quách Tấn đã từng bênh vực Mộng Cầm đi lấy
chồng làm cho nhà thơ Bích Khuê giận ông mấy ngày. Nhưng ông vô cùng tức
giận khi Mộng Cầm phủ nhận mối tình với Hàn Mạc Tử. Mộng Cầm đã nói thật
hay nói dối? Vì sao nàng lại phủ nhận mối tình này? thật ra, trong thời gian quen
biết với Mộng Cầm, căn bệnh phong của chàng chưa bộc phát. Ngay cả chàng
cũng không hề “cảm thấy”, làm sao Mộng Cầm có thể “nhận ra”. Rất dễ thâ’y
rằng đó là những lời nói dối của một người con gái muốn quên đi quá khứ để bảo
vệ hạnh phúc hiện tại. Một lý do rất thường tình và đáng thông cảm. Mối tình Hàn
Mạc Tử đã được rất nhiều ngưởi gần gũi xác nhận. Trần Thanh Mại, một người
bạn của chàng đã công bố những chi tiết của mốt tình này trong cuốn sách Hàn
Mạc Tử xuất bản năm 1942. “ấy là chuyện của đôi trai tài gái sắc yêu nhau, câu
chuyện muôn đòi ấy mà! Người con trai là Hàn Mạc Tử, người con gái, ta cứ theo
nhà thi só mà gọi là Mộng Cầm đi, mặc cái tên thực của họ. Hai bên đã thề
nguyền cùng nhau những lời mà ta hiểu là tha thiết đằm thắm lắm. Thường thường
thì họ hay gặp nhau ở hai tỉnh : Quy Nhơn và Phan Thiết. Họ đưa nhau đi chơi bờ
bể, họ đi viếng các danh lam thắng cảnh, nhất là lầu ng Hoàng. Rồi họ xa nhau.
Họ nhớ nhau và tặng ảnh cho nhau. Họ coi như một cặp vợ chồng chưa cưới”.
Hàn Mạc Tử sáng tác nhiều bài thơ đầy nước mắt về mối tình này. Trong bài
muôn năm sầu thảm, chàng đã kêu tên nàng một cách thảm thiết : “Nghệ hỡi
Nghệ muôn năm sầu thảm / Nhớ thương còn một nắm xương thôi”. Bài Phan Thiết
Phan Thiết, nhắc tới những kỷ niệm xưa về lầu ng Hoàng, nơi chàng và Mộng
Cầm dạo chơi thû nào :
“ Ta lang thang tìm tới chốn lầu Trăng
Lầu ng Hoàng, người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết
i trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết
Mà tan thương còn lại mảnh trăng rơi”
IV – HOÀNG CÚC – NÀNG THƠ BÍ ẨN

Hoàng Cúc là người liên quan đến bài thơ tình đẹp nhất trong kho tàng thơ ca
Việt Nam : bài thơ Thôn Vỹ. Nàng tên thật là Hoàng Thò Kim Cúc, sinh ngày
5/12/1913, kém Hàn Mạc Tử 1 tuổi. Cũng như Hàn Mạc Tử, nàng phải theo vào
Quy Nhơn sinh sống vì cha nàng là công chức, làm việc tại Quy Nhơn. Năm 1933,
Tử vào làm cho Sở Đạc Điền Quy Nhơn và quen Hoàng Tùng Ngâm – em thúc bá
của Hoàng Cúc. Hoàng Tùng Ngâm sống trong ngôi nhà nhỏ cạnh nhà Hoàng
Cúc, anh em bè bạn thường tụ tập để chơi đùa, bình phẩm văn thơ. Hoàng Cúc khi
đó cũng đang tập tành viết báo làm thơ với bút hiệu Hoàng Hoa nữ só nên cũng
quen biết Hàn Mặc Tử.
Với bản tính đa tình, Hàn Mặc Tử đã đem lòng say mê Hoàng Cúc. Chàng đã
làm một số bài thơ tặng nàng như bài Vònh Hoa Cúc, Trồng Hoa Cúc… một số bài
đã đến tay Hoàng Cúc qua Hoàng Tùng Ngâm. Hoàng Cúc biết rõ tình cảm của
chàng.
Rồi Hàn Mac Tử vào Sài Gòn làm báo. Sau một thời gian, chàng về lại Quy
Nhơn. Lúc này gia đình chàng đã dời đến cách nhà Hoàng Cúc chỉ vài căn. Tình
xưa dậy sóng trở lại. Giờ đây, chàng ít nhiều bạo dạn hơn trước. Hàn Mặc Tử sáng
tác bài Hồn Cúc : “Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường / Không dám sờ tay sợ lắm
hương / Xiêm áo đêm nay tề chỉnh qúa / Muốn ôm hồn cúc ở trong sương”.
Năm 1936, Hoàng Cúc theo gia đình về Huế sinh sống. Sau đó, nàng bắt đầu ăn
chay trường trở thành cư só, sống cuộc đời lặng lẽ bí ẩn. Cũng trong năm đó, Hàn
Mặc Tử in tập thơ Gái Quê, là tập thơ mới đầu tiên kể từ khi chàng bỏ làm thơ
Đường Luật. Chàng mang theo một số tập Gái Quê ra Huế. Và chàng đã gặp lại
Hoàng Cúc trong một dòp hội chợ nhưng không dám tặng thơ cho nàng. Chàng
cũng tìm đến Vỹ Dạ – nơi ở của Hoàng Cúc – nhưng chỉ đứng ngoài cổng một lúc
rồi bước đi.
Nhiều năm sau đó, giữa hai người không có liên lạc gì với nhau. Một hôm Hoàng
Cúc nghe tin chàng bò bệnh phong, nàng liền gửi thư cho chàng. Và chàng đã cảm
động sáng tác bài Đây Thôn Vỹ Dạ gửi tặng nàng.
Chuyện tình Hoàng Cúc – Hàn Mặc Tử cũng có những điều gây tranh cãi như
trường hợp Mộng Cầm. Bởi Hoàng Cúc đã có lần công khai phủ nhận chuyện

nàng có tình cảm với Hàn Mặc Tử. Đó là vào năm 1969, nhà thơ Quách Tấn, một
người bạn thân thiết của Hàn Mặc Tử đã viết một hồi ký lấy tên là đôi nét về Hàn
Mạc Tử đăng trên tạp chí văn, trong đó có phần nói đến mối quan hệ giữa Hoàng
Cúc và Hàn Mặc Tử. Quách Tấn cho rằng hai người hai người không thành duyên
nợ là do thân sinh của Hoàng Cúc chê Hàn Mặc Tử không xứng. Hoàng Cúc đã
đọc được hồi ký này và ngày 15/03/1971, nàng gửi thư cho Quách Tấn để “nói lại
cho rõ”. Hoàng Cúc đã phản bác một số chi tiết nhỏ mà Quách Tấn nêu ra và cuối
cùng nói về mối quan hệ của mình với Hàn Mặc Tử : “ Hồi ấy tuy Tử ở gần nhà
tôi, song tử và tôi cách xa nhau như hai ngọn núi. Tử thì kín đáo và bẽn lẽn như
con gái còn tôi thì bí mật và xa lạ như cung trăng! Tuy thế tử vẫn tìm cách để gặp,
nhưng ẫn chưa toại nguyện…”
Thế nhưng Quách Tấn kiên quyết bảo vệ lập trường của mình trong các chi tiết
thể hiện việc Hàn Mạc Tử và Hoàng Cúc có yêu nhau : “ còn về những chi tiết
trong cuộc tình duyên của Tử – Cúc, thì nhất đònh ký ức tôi không phản tôi, vì
không có gì phức tạp khó nhớ. Việc Tử nhờ người đến dạm là việc có thật. Người
ấy là nhà thầu khoáng Bùi Xuân Lang ở Quy Nhơn, vừa thân với Tử vừa quen với
cụ Hoàng Phùng”.
Hiểu như thế naò về chuyện này? Theo chu’ng tôi, Hoàng Cúc ngày ấy là một
thiếu nữ trẻ trung yêu đời, lại ít nhiều có tâm hồn văn chương thì việc đáp lại
những tình cảm của một người như Hàn Mặc Tử là có thể xảy ra. Nhưng sau này
cũng như Mộng Cầm, nàng đã cố gắng chôn chặt những điều thầm kín riêng tư
vào cõi lòng. Là một người xá lánh cuộc đời để tìm cõi thiền, thì những chuyện
tình cảm dù có cũng không thể phơi bày cho công chúng biết. Cho nên việc hoàng
cúc phủ nhận chuyện có đáp lại với Hàn Mặc Tử là điều dễ hiểu. Nguyễn Bá Tín
cho biết tại nhà riêng của Hoàng Cúc, khi đã quy y, nàng vẫn dành riêng một căn
phòng ngày đêm hương hoa tụng niệm, tưởng nhớ mối tình bất diệt của anh mà
cũng là tình đầu của chò”.
Mối tình Hàn Mạc Tử – Hoàng Cúc như là khói sương bảng lảng. Nàng thực sự
như một nàng thơ hơn là một người tình để chàng có thêm thi hứng mà thôi.
V – ĐÂY THÔN VỸ DẠ – BÀI THƠ NHIỀU ẨN SỐ

Năm 1936, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn trở về Quy Nhơn. Lúc này thân phụ
Hoàng Cúc về hưu nên gia đình phải dọn về Huế. Cũng trong năm đó, chàng bắt
đầu phát hiện những dấu hiệu của căn bệnh phong, nhưng chàng vẫn chưaq quan
tâm đến nó. Một thời gian rất lâu, căn bệnh mới phát mạnh.
Năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng
chuẩn bò một số tiền đònh gửi cho Hàn Mạc Tử uống thuốc nhưng không dám gửi.
Nàng bèn gửi cho Tử một bức ảnh chụp cảnh nàng ặc áo lụa dài trắng đứng dưới
vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Tử rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây
Thôn Vỹ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc.
Chi tiết trên theo Nguyễn Bá Tín. Còn theo nhiều tác giả khác thì Hoàng Cúc
không gửi ảnh mình mà gửi một tấm bưu ảnh có mây nước, có chiếc đò ngang với
cô gái chèo đò, có khóm tre, có cả ánh trăng hoặc là ánh nắng chiếu xuống. Một
thời gian sau, nàng nhận được thư của Tử. Kèm theo bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ gửi
tặng, Hàn Mặc Tử viết : “ Túc hạ ! có nhận được bức ảnh bến Vỹ Dạ lúc hừng
đông hay là một bến trăng? Và mấy hàng chữ của túc hạ gửi thăm, muôn vàng
cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người năm xưa, thế là phúc phận lắm rồi. Mong ơn
trên xuống độ cho túc hạ thật đầy và mong rằng một møa xuân naò đấy sẽ gặp lại
được túc hạ cho phỉ dạ. Thăm túc hạ bình an vui vẻ”
Đây Thôn Vỹ Dạ là bài thơ nhẹ nhàng nhất của Hàn Mặc Tử trong tập thơ Điên.
Bởi lúc này chàng đang trong thời kỳ bệnh tật, đau đớn điên cuồng cả thể xác lẫn
tâm hồn. Thơ của chàng luôn luôn là những gào thét uất hận, nghẹn ngào. Bài thơ
này, Nguyễn Bá Tín cho biết nguyên cái tưa ban đầu của nó nó Đây Thôn Vỹ
Dạ. Nhưng về sau đã được biên tập lại, bỏ đi chữ ở. Trong bài thơ, hình ảnh hàng
cau được nhiều người khen ngợi, nhưng lại đem đến thắc mắc cho chính người
được tặng thơ là Hoàng Cúc. Nàng đã kgông hiểu vì sao Hàn Mặc Tử lại viết câu
thơ “Sao anh không về chơi Thôn Vỹ / Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Thôn
Vỹ Dạ, nằm bên kia Đập Đá, cư dân ở đây phần lớn thuộc tầng lớp thượng lưu. Kế
Thôn Vỹ Dạ là thôn Nam Phổ, một thôn bình dân, sống bằng nghề trồng cau.
“Mua vôi chợ Quán chợ Cầu. Mua cau Nam Phổ mua Trầu chợ Dinh”. Cau Nam
Phổ nổi tiếng khắp cả nước. Hằng năm đến mùa cau, già trẻ gái trai trong làng

đều có thể trèo cau, hái cau để bán. Các cô gái Nam Phổ nổi tiếng trèo cau giỏi.
Vì thế có câu “con gái Nam Phổ ở lổ trèo cau”. Những cô gái khuê các vùng Vỹ
Dạ rất sợ bò xếp vào diện câu ví đó. Và vì thế ít ai chòu trồng cau ở Vỹ Dạ. Như
vậy, thì vì sao Hàn Mạc Tử lại lấy hình ảnh cây cau như một biểu tượng cho Thôn
Vỹ Dạ?
Bài thơ cũng tạo rất nhiều sự khó hiểu đối với độc giả trong các chi tiết khác.
Chẳng hạn mấy câu thơ “Mơ khách đường xa, khách đường xa. o em trắng quá
nhìn klhông ra” và “ đây sương khói mờ nhân ảnh. Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Có nhiều ý kiến lý giải khác nhau, trong đó thậm chí có người cho rằng khổ thơ
này chỉ những nàng nữ sông Hương như trên báo giáo viên nhân dân số tháng 1
năm 1990. theo ý kiến một số người, hình ảnh aó trắng nhìn không ra” là do
Hoàng Cúc mặc chiếc áo dài màu trắng mà tấm hình qúa cũ nên Hàn Mặc Tử
thấy không rõ. Còn “sương khói mờ nhân ảnh” thì Nguyễn Bá Tín cho rằng có thể
là Hàn Mặc Tử muốn nói đời sống khói nhang cõi thiền của Hoàng Cúc.
Ngày tháng ra đời của bài thơ cũng gây bàn cãi. Trên tuổi trẻ chủ nhật số ra
ngày 7/01/1990, tác giả Đaò Quốc Toàn viết : “bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ chỉ có
thể được viết trong khoảng 1936 – 1937 chứ không thể viết vaò năm 1939 được,
bỡi vì bài thơ này được Hàn Mặc Tử tập hợp lại ở tập đau thương trong thời gian
cuối năm 1937 đầu 1938. Tập thơ này gồm khoảng 50 bài thơ, lúc đầu lấy tên là
thơ Điên”.
Đây cũng là vấn đề khó làm sáng tỏ. Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ này trong
thời điểm naò? Nếu căn cứ vào trí nhớ của Hoàng Cúc thì bài thơ ra đời vøo năm
1939. trong thư gửi Quách Tấn vào ngày 15/10/1971, Hoàng Cúc viết : “vào
khoảng hè 1939, Ngâm viết thư về Huế cho biết Tử mắc bệnh nan y và khuyên tôi
nên viết thư thăm Tử, để an ủi một tâm hồn vô cùng đau khổ. Thay vì viết thư
thăm, tôi gửi bức ảnh bằng cái carte – visite. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc
đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre có cả ánh trăng hay ánh mặt trời
chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe Tử mà không
ký tên, rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây
Thôn Vỹ Dạ…”

VI – MAI ĐÌNH – TÌNH THƠ HAY TÌNH YÊU ?
Mai Đình thực ra không phải là một nàng thơ, cũng không phải là người tình
của Hàn Mạc Tử…đúng nghóa, nàng là một người bạn văn chương của chàng. Nàng
gặp Hàn Mạc Tử khi chàng đã lâm trọng bệnh, xa lánh tất cả mọi người để về ẩn
mình trong một cái chòi tranh ở Gò Bồ, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 15 km.
Mai Đình xuất thân trong một gia đình khá giả, nhưng mang trong mình một
dòng máu lãng mạn, nàng theo tiếng gọi bốn phương cất bước ra đi. Nhờ có nghề
dạy nữ công gia chánh cho những gia đình giàu có nên Mai Đình kiếm kế sinh
nhai khá dễ dàng. Nàng đã đặt chân đến nhiều vùng đất xa xôi, có khi qua tận
Nam Vang. Năm 1937, Mai Đình đến Quy Nhơn. Trước đó nàng đã nghe danh
Hàn Mặc Tử từ lâu. Là một người có cá tính mạnh mẽ, nàng không câu nệ, tìm
cách giáp mặt chàng. Lần đầu tiên, Hàn Mặc Tử vì tự ti bệnh tật nên không chòu
tiếp. Nàng bèn vào Nha Trang, thông qua Quách Tấn để “tiếp cận” chàng. Trong
hồi ký của mình, Quách Tấn nhớ lại : “Gặp tôi, nàng không chút e lệ, ngồi nói
chuyện như người quen biết đãlâu. Phê bình bài thơ Gái Quê xong, nàng tỏ thật
nỗi lòng đối với Tử : “biết Tử mang bệnh ngoặt nghèo, lòng tôi hết sức thương
cảm. Tôi mong sao chia sớt được nỗi khổ đau của tử một đôi phần”. Rồi chàng
trách Mộng Cầm sao đành lòng bỏ Tử”.
Nàng gởi cho Quách Tấn bài thơ Biết Anh để tặng Hàn Mặc Tử với những câu thơ
thật mạnh dạn : “Còn anh em đã gặp anh đâu! / Chỉ cảm vần thơ có những câu /
u yếm say sưa đầy cả mộng / Xui lòng tư tưởng lúc thâu đêm”. Đây là một bài
thơ đầu tiên mở ra một tình bạn văn chương thú vò giữa hai người. Hàn Mặc Tử
nhận được thơ, liền hồi âm như Mai Đình đã đi khỏi Nha Trang. Chàng buồn rầu
sáng tác bài Lưu Luyến : “Chửa gặp nhau mà đã biệt ly / Hồn anh theo dõi bóng
em đi / Hồn anh sẽ nhập trong luồn gió / Lưu luyến bên em chẳng nói gì”.
Điều đặc biệt trong mối quan hệ Hàn Mặc Tử – Mai Đình là nàng đã hành xử
rất đúng với tinh thần văn chương : tứ hải giai huynh đệ. Theo tài liệu của Trần
Thanh Mại thì muà hè năm 1938, Mai Đình từ biệt Quy Nhơn để vào Sài Gòn thu
xếp công việc. Khi trở ra, Mai Đình đưa cho Hàn Mặc Tử một món tiền để lo
thuốc thang và nói ý đònh cùa mình : sẽ ở lại cái chòi tranh cùng với chàng. Hàn

Mặc Tử từ chối nhưng nàng cứ mặc kệ, cứ ở đấy đi chợ nấu ăn, sắc thuốc cho
chàng. Mai Đình không ngần ngại bệnh tật cũng như dư luận người đời.
Hàn Mặc Tử từ chỗ không muốn gặp mặt đến xúc động đến trước việc làm của
Mai Đình nên đã có nhiều câu thơ để tặng nàng : “Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn
/ Đêm muộn xuống gieo vào muôn sóng mắt / Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt /
Cả bài thơ êm nát lạ lùng thay!”.
Ngoài lo việc thuốc thang, cơm nước cho cgàng, thời gian còn lại nàng cùng chàng
ngâm thơ vònh cảnh. Hai tâm hồn thi só sống bềnh bồng với những vần thơ như thế
suốt một thời gian dài. Nhưng số tiền Mai Đình mang theo cũng đã hết. Nàng
khuyên chàng vào bệnh viện phong Quy Hoà để điều trò, nàng sẽ đi theo và ở
luôn trong đó để chăm sóc chàng. Nhưng Hàn Mặc Tử từ chối. Cuối cùng hai
người cũng từ giã nhau. Nàng lại cất bước giang hồ bốn phương. Lâu lâu, chành
lại nhận được cánh thư của nàng từ phương trời xa nào đó. Trong một lần ngồi
buồn, chàng đem những từ ngữ trong bức thư nàng gửi xếp lại thành bài thơ. Đó là
bài thơ Thao Thức với những câu thơ da diết : “Lạnh quá ánh trăng không sáng
mấy / Cho nên muôn dặm ở ngoài kia / Em đang mong mỏi, em đang nhớ / Bứt rứt
lòng em muốn trở về”.
Mối tình thơ kỳ lạ giữa Mai Đình và Hàn Mặc Tử cùng với việc Mai Đình
chăm sóc Hàn Mặc Tử được Trần Thanh Mại công bố vào năm 1942, một năm sau
ngày Hàn Mặc Tử ra đi mãi mãi. Nhưng câu chuyện trên đây không được gia đình
Hàn Mặc Tử công nhận và Quách Tấn thì cho rằng Trần Thanh Mại đã hoàn toàn
bòa đặt. Tuy nhiên những tài liệu của Trần Thanh Mại đã thuyết phục được không
ít người. Có người cho rằng, giữa nhà thơ Quách Tấn và nhà phê bình Trần Thanh
Mại xảy ra vụ kiện bản quyền thơ Hàn Mạc Tử, liên quan đến cuốn sách Hàn
Mặc Tử mà Trần Thanh Mại xuất bản năm 1942, xuất phát từ mâu thuẫn này mà
nhà thơ Quách Tấn đã nói như vậy chăng ?
VII – CĂN BỆNH PHONG VÀ NHỮNG CÂU CHUYỆN HOANG ĐƯỜNG
N guyên nhân khởi phát căn bệnh phong của Hàn Mặc Tử được nhiều sách báo
dẫn lại như sau : một hôm từ Sài Gòn ra Phan Thiết thăm Mộng Cầm, chàng được
Mộng Cầm dẫn đi dạo chơi Lầu ng Hoàng. Đến lúc chiều tối trở về, băng qua

cánh đồng thì gặp trời mưa giông. Cả 2 chạy vào trú trong một căn chòi bên
đường. Mưa một lúc một lớn, trời tối đen như mực. Từ trong căn chòi, hai người
nhìn ra bên ngoài thấy có những qủa cầu lửa màu xanh dưới đất vùn vụt bay lên.
Những qủa cầu lửa chớp tắt liên tục. Đồng thời lại thấy tiếng rền vang ầm ầm như
ai lăng thùng sắt trên đường đá. Hai người rất hoảng sợ, ngồi ôm nhau rung rẩy
trong căn chòi. Một lúc trời quang mây tạnh, bước ra khỏi nơi cư trú mưa thì mới
biết mình đang ở cạnh một ngôi mộ ai mới chôn. Trở về Sài Gòn ít hôm, Tử thấy
ngứa nấy khó chòu trong người. Một thời gian thì thấy những vết đỏ như đồng xu ở
trên lưng, sau lang dần ra khắp người. Căn bệnh phong xuất hiện từ đó.
Những thông tin này đăng tải lên kèm với việc phê phán việc Mộng Cầm bỏ
Tử đi lấy chồng trong lúc tử bò căn bệnh quái ác hành hạ khiến Mộng Cầm hết sức
day dứt. Theo quan niệm dân gian trước đây, căn bệnh phong phát ra do người ta
nhiễm phải hơi dưới mộ mới bốc lên trong lúc mưa giông. Nhiều người tin đó là sự
thật nên càng trách Mộng Cầm nhiều hơn, rằng nàng đã gián tiếp đưa chàng đến
bệnh tật rồi lại vội vã bỏ ra đi.
Tuy nhiên ngay từ thời ấy, chứng minh căn bệnh phong do loại vi trùng có tên
gọi hansen gây ra. Chính khi Hàn Mặc Tử nhập viện phong Quy Hòa, bệnh viện
Quy Nhơn đã làm xét nghiệm cho chàng và tìm ra vi trùng hansen trong cơ thể
chàng.
Nhưng có một điều gây khó hiểu cho nhiều người là việc phát bệnh của Tử lại
có những chi tiết trùng hợp với quan niệm dân gian nói trên. Nguyễn Bá Tín cho
biết, chính Hàn Mặc Tử đã kể với bàmẹ về chuyện mắc mưa dông trong nghóa điạ
: “ Mẹ tôi linh cảm là có chuyện chẳng lành. Bà vặn hỏi mãi thì anh kể chuyện có
hôm cùng người bạn đi chơi Phan Thiết, gần tối băng qua cánh đồng, thì gặp phải
cơn mưa giông dữ dội…”. Ngay cả Mộng Cầm cũng thừa nhận chuyện như vậy.
Hãy đọc đoạn đối thoại giữa Châu Hải Kỳ và Mộng Cầm trên tạp chí phổ thông
số ra ngày 15/8/1961 :
- “ Như vậy xin lỗi bà, bà có đi lầu ng Hoàng và có
gặp mưa không?”
- “ Tôi nhận có đi chơi lầu ng Hoàng với Hàn Mạc

Tử, có gặp mưa, có ngồi ở nghóa đòa, nhưng không
phải vì đó mà Hàn Mặc Tử bò bệnh phong như anh
Quách Tấn đã viết. Nếu Hàn Mặc Tử bò phong sao
tôi không bò hề hấn gì cả? Hai người cùng ngồi một
chỗ núp mưa kia mà!”
Song song với câu chuyện trên, có một câu chuyện hoang đường khác cũng
liên quan đến bệnh phong, được truyền tụng trong dân gian thời ấy. Đó là sự trả
thù của những người chiến bại ở thành Đồ Bàn khi xưa. Sự báo thù chỉ nhắm vào
những thanh niên đẹp trai, học giỏi. Lời đồn này làm cho người dân thành phố
Quy Nhơn thời ấy luôn sống trong hồi hộp lo âu. Lâu lâu ở thành Quy Nhơn, thấy
vắng bóng một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai là mọi người hiểu anh ta là phát
bệnh phong, phải đi trốn. Lời đồn này đã có từ xa xưa, trở thành truyền thuyết qua
nhiều thế hệ. Người dân Bình Đònh, đặc biệt là Quy Nhơn, bao giờ cũng nớm nớp
lo sợ sự báo thù ghê gớm của một giống người Hời. Và thật thú vò, cũng chính
những truyền thuyết này là chất men sáng tạo cho những nhà thơ điên của thành
Quy Nhơn. Chế Lan Viên cùng với Yến Lan thường lang thang bên những tháp
Chàm đổ nát để tưởng nhớ về những người Hời huyền thoại đó. Trong bài thơ
Trên Đường Về Chế Lan Viên viết : “Đây những cảnh ngàn sâu cây lá ngọn/
Muôn ma hời sờ soạn dắt nhau đi” Hàn Mặc Tử cũng từng viết : “Mà vì đâu
những tháp Hời kiêu ngạo / Hằng muôn năm sống mãi dưới sương đêm”.
Điều đáng tiếc là Hàn Mặc Tử rất Tây học, nghiên cứu đủ thứ về văn minh
phương Tây, từ thi ca cho đến triết học, lại không chòu tin vào Tây y. Chàng cũng
bắt chước theo những người ít học khác khi biết mình bò mắc bệnh phong là tìm
một nơi hoang vu vắng vẻ để lẩn trốn chính quyền, lẩn trốn người quen rồi chạy
chữa bằng những thứ thuốc của các lang băm. Cho đến cuối cùng, khi đã kiệt quệ
sức lực thì mới chòu vào bệnh viện. Và vì thế nên mọi chuyện đã trở nên qúa
muộn màng.

×