Tải bản đầy đủ (.ppt) (45 trang)

Lịch sử Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 45 trang )


NHẬP MÔN KHU VỰC HỌC
LỊCH SỬ ĐÔNG NAM Á X - XIX

Chương I
Sơ lược về Đông Nam Á từ tiền sử
đến trước chủ nghĩa thực dân
1.2. Lịch sử Đông Nam Á từ tiền sử đến
trước chủ nghĩa thực dân
1.2.1.Từ thời nguyên thủy đến xã hội có
giai cấp và nhà nước
1.2.2.Giai đoạn xác lập và phát triển thịnh
đạt của các vương quốc dân tộc
1.2.3.Giai đoạn suy thoái của các quốc
gia phong kiến Đông Nam Á

1.2.2.Giai đoạn xác lập và phát triển thịnh
đạt của các vương quốc dân tộc (X –
XV)
Anh (chị) hãy phân kỳ lịch sử
Đông Nam Á X – XV
và giải thích lý do phân kỳ như vậy?

1.2.2.Giai đoạn xác lập và phát triển thịnh
đạt của các vương quốc dân tộc (X –
XV)
Chia làm hai giai đoạn nhỏ:
+ X - XIII: Các quốc gia phong kiến Đông
Nam Á bước đầu xác lập và phát triển
+ XIII - XV: Các quốc gia phong kiến Đông
Nam Á phát triển thịnh đạt



1.2.2.1. Đông Nam Á X – XIII
- Sự hình thành và phát triển của các quốc gia
phong kiến Đông Nam Á:
+ Thế kỷ X, Việt Nam bước vào giai đoạn xây
dựng chế độ phong kiến độc lập tự chủ và nền
văn minh Đại Việt.
+ Champa dưới triều đại Vijaya phát triển
thịnh đạt với sự giàu có của nền kinh tế và sự
tăng cường quyền lực của vương quyền.
+ Từ thế kỉ IX, Cam-pu-chia bắt đầu bước vào
thời kỳ Ăng-co (Angkor) huy hoàng, đặc biệt
dưới thời Giay-a-vác-man (Jayavarman) VII
(1181-1201).

Dựa vào đâu, các anh (chị)
biết được Lịch sử Campuchia
thời kỳ Angkor ?

+ Khai quật khảo cổ, phục dựng lại và điều tra.
+ Các bản chạm khắc trên bia và trên đá ở các
đền ghi chép lại những chiến công chính trị và
tôn giáo của các triều hoàng đế.
+ Các bức phù điêu trên các bức tường của
các đền đài miêu tả các cuộc hành quân, cuộc
sống ở trong cung, các cảnh chợ búa và các
cảnh sinh hoạt thường ngày của dân chúng.
+ Các ghi chép còn lưu lại được của các sứ
thần, nhà buôn và những người lữ hành Trung
Hoa xưa.


Một bức phù điêu tại Angkor Thom miêu tả chiến tranh
giữa Khmer và Champa.

Chu Đạt Quan đã miêu tả trong sách “Chân Lạp phong thổ
ký” về cuộc sống ở Angkor vào năm 1926 như sau:
Cửa thành do binh lính canh gác, trừ chó và tội phạm ra, bất
kỳ ai cũng được ra vào tự do. Các vương công quý tộc đều ở
trong những ngôi nhà tròn lớp ngói, tất cả đều hướng về mặt
trời mọc, còn nô bộc thì bận bịu với công việc ở tầng dưới.
Quốc vương ở ngôi bậc tôn quý, ông ta mặc quần áo bằng
đoạn lộng lẫy xa hoa, trên đầu đội mũ vàng, có lúc đội mũ
hoa có đeo hoa nhài hoặc các loài hoa khác tết thành, trên
người có đeo các đồ quý, chân châu, vòng tay, đá quý, nhẫn
vàng…. Khi các sứ thần hoặc bách tính muốn nhìn thấy quốc
vương, thì mỗi ngày hai lần ngồi chờ trên đất. Trong tiếng
nhạc rộn rã một chiếc xe màu vàng đưa quốc vương đến, lúc
này có tiếng tù và vang lên, tất cả các quan lại chắp tay cúi
đầu, đợi khi quốc vương ngồi yên trên vật báu truyền thế của
quốc gia một tấm da sư tử, tiếng tù và dừng. Mọi người mới
ngẩng đầu chiêm ngưỡng vẻ uy nghi của quốc vương, và tấu
trình các báo cáo.

Nêu những hiểu biết của anh (chị)
về Vua Jayavarman VII?

Vua Jayavarman VII (1181-1201) là
một trong những vị vua xuất sắc và
nổi tiếng nhất của thời kỳ văn minh
Angkor. Năm 1181, ông đã đánh đuổi

quân Champa khỏi đất Campuchia.
Sau đó, Jayavarman VII lên ngôi, lấy
Phật giáo làm quốc đạo. Jayavarman
VII đã xây dựng rất nhiều công trình
bao gồm Bayon nổi tiếng với tượng
mặt người khổng lồ, kinh đô Angkor
Thom và hàng trăm đền đài khác.
Ông đã cho xây dựng 120 bệnh viện,
mở rộng hệ thống đường giao thông
và lập 121 nhà nghỉ chân có bếp lửa
cho lữ khách trên khắp lãnh thổ.

Anh (chị) có nhận xét gì về lãnh thổ
Campuchia thời Angkor?




Anh (chị) hiểu như thế nào
về câu nói “Đông Nam Á
dưới bóng Angkor”?

Trên lưu vực sông I-ra-oa-đi
(Irawadi), từ thế kỉ IX người Miến
lập nên vương quốc Pa-gan. Vua
Anoratha (1044 - 1077) là một
trong những vị vua nổi tiếng trong
lịch sử Myanmar. Năm 1057, vua
Anoratha đem quân chinh phục
Pegu, Thaton cùng nhiều quốc gia

khác, thống nhất lãnh thổ, mở ra
thời kỳ phát triển của vương quốc
Pagan hùng mạnh. Vua Anoratha
đã phát triển Phật giáo Tiểu thừa
ở Pagan, xây dựng nhiều chùa,
tháp khắp đất nước. Phật giáo
vương triều Pagan đã trở thành
trung tâm văn hóa Phật giáo lúc
bấy giờ.

Erlangga (991 - 1049), vua
Mataram (1019 - 1049), là người
đặt nền móng cho sự thống nhất
đất nước, phát triển kinh tế và
văn hoá dân tộc. Erlangga thống
nhất hai đảo Java và Sumatra,
đồng thời lập quan hệ hòa hiếu
với Sri Vijaya. Dưới thời
Erlangga, bộ luật cổ Java được
xây dựng và một số phóng tác
theo sử thi Ấn Độ cũng đã ra đời.
Nhiều tôn giáo và tín ngưỡng
khác nhau được truyền bá, tuy
nhà vua tự coi là hoá thân của
Visnu (Vishnu). Việc buôn bán
được mở rộng, đến cả Ấn Độ và
lục địa Đông Nam Á.

Srivijaya (VIII – XIII) có phạm vi thống trị khắp đảo Sumatra,
bán đảo Malaya. Nằm trên một địa bàn trù phú và làm chủ

được eo biển Sunda, Srivijaya có điều kiện để phát triển
nhanh chóng và trở thành một quốc gia hùng mạnh, một trung
tâm kinh tế quan trọng khu vực Đông Nam Á.

- Về sự giàu có về sản vật, và quan hệ buôn bán rộng rãi với
nước ngoài của Srivijaya, các tài liệu đương thời cho biết:
+ Tống thư viết " vương quốc này có tới 15 nước chư hầu,
người dân không nộp thuế thì bị hình phạt; trong nước chưa
có tiền mà dùng vàng bạc để trao đổi mua bán. Sumatra nổi
tiếng là có nhiều vàng,bạc và đồ gia vị, nên nó còn được gọi
là đảo vàng (Suvarnadvipa) "
+ Một thương nhân người Ba Tư viết năm 916: " những
vùng lãnh thổ của nó sản xuất ra long não, dầu tẩy lô hội,
đinh hương, gỗ trầm hương, nhục đậu khấu, bạch đậu khấu,
cây tiêu thuốc và nhiều thứ khác nữa "
+ Một thương nhân người Ả Rập tên Mas'udi viết vào năm
955 đã chỉ rõ " việc bảo vệ địa vị đặc quyền đặc lợi như
Srivijaya đòi hỏi phải luôn dùng đến vũ lực để nắm độc quyền
thương mại rộng lớn và cần phải khuất phục hoặc vô hiệu
hóa các đối thủ "

1.2.2.2. Đông Nam Á XIII – XVI
- Thế kỉ XIII, các vương quốc phong kiến
Đông Nam Á bị quân Nguyên liên tiếp mở
các cuộc tấn công, quân Nguyên ba lần
tấn công Đại Việt, năm lần đánh vào Mi-
an-ma, đánh xuống Cham-pa, Cam-pu-
chia và Giava.

Đại Việt

Champa
Miến Điện
Ja va
Campuchia
Nhà Nguyên

Sông Me kong
- Năm 1238, một bộ phận
người Thái đã lập nên vương
quốc Sukhothai (hiện ở miền
Bắc Thái Lan).
- Một nhánh khác sống quần
tụ ở hạ lưu sông Mê Nam,
lập vương quốc Lopburi mà
thư tịch cổ Trung Hoa gọi là
nước La Hộc.
- Năm 1292, bộ lạc người
Thái ở Chiềng Ray đã tấn
công để xâm chiếm Vương
quốc Haripungiaya của người
Môn, lập ra Vương quốc Lan
Na với kinh đô ở Chiêng Mai
(“kinh đô mới”).

Năm 1347, vương quốc
Ayuthaya được thành lập.
Năm 1349, Ayuthaya đem
quân uy hiếp và bắt
Sukhothai thần phục.
Ayuthaya là giai đoạn phát

triển thịnh vượng nhất của
chế độ phong kiến Thái.
Gần biển, nằm trên đường
giao thương giữa Ấn Độ và
Trung Hoa và giữa một
đồng bằng phì nhiêu nên
Ayuthaya phát triển mạnh
về nông nghiệp và thương
mại. Ảnh hưởng của
Ayuathaya đã từng bao
trùm cả Angkor, Miến Điện.

Một bộ phận người Thái đến
trung lưu sông Mê Công hòa
nhập với cư dân bản địa lập
nên vương quốc Lan Xang
(1353). Vua Phà-ngừm đã
thống nhất các Tiểu vương
quốc thành Vương quốc Lạn-
xạng (Triệu voi) bao gồm diện
tích hiện nay và vùng I-xản
(18 tỉnh Đông Bắc Thái Lan)
cùng một phần tỉnh Stung-
treng (Đông Bắc Campuchia).
Vua Phà-ngừm đã xây dựng
chế độ phong kiến tập trung,
đây là thời kỳ rực rỡ nhất của
lịch sử phong kiến Lào.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×