Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

skkn đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia ở trường thpt chuyên hưng yên giai đoạn 2011-201

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.16 KB, 63 trang )

Nguyễn Ngọc Luân - THPT Chuyên HY: Đổi mới phương pháp giảng
dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc
gia ở trường THPT Chuyên Hưng Yên giai đoạn 2011-201
Nội dung Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
5. Đóng góp của đề tài
6. Kết cấu của đề tài
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỔI
MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
1. Cơ sở lí luận chung
2. Cơ sở thực tiễn của đổi mới phương pháp giảng dạy
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VIỆC ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG THPT
CHUYÊN HƯNG YÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY
2.1. Vài nét về trương THPT Chuyên Hưng Yên
2.2. Thực trạng chất lượng và hiệu quả của phương pháp giảng
dạy ở trường THPT Chuyên Hưng yên từ năm 1997 đến 2010
2.3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI
MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY NHẰM NÂNG CAO
2
3
3
4
5
5
6


16
19
23
30
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH
GIỎI QUỐC GIA Ở TRƯỜNG THPT CHUYÊN HƯNG
YÊN GIAI ĐOẠN 2011-2015
3.1. Phương hướng chung
3.2. Những giải pháp cụ thể
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
36
43
57
60
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt nam là một quốc gia ở khu vực Đông Nam Á - đang thực hiện sự
nghiệp đổi mới và hội nhập, mở rộng giao lưu quốc tế và quá trình công
nghiệp háo, hiện đại hóa đất nước. Vấn đề nguồn nhân lực đã và đang trở
thành vấn đề cốt yếu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, góp phần làm động
lực thúc đẩy kinh tế - xã hội. Giáo dục phổ thông - đặc biệt là giáo dục mũi
nhọn là một lĩnh vực có vai trò quan trọng trong mắt xích hệ thống giáo dục
quốc dân ở Việt Nam. Bởi đây chinh là nguồn nhân lực đảm bảo vai trò, sư
smạng của đất nước trong tương lai. Hiện nay - đổi mới giáo dục đàn diễn ra
trên phạm vi toàn cầu trong đó có Việt nam. Do tác động của xu thế toàn cầu
hóa đã tạo nên những thay đổi sâu sắc từ quan niệm về chất lượng giáo dục,
mục tiêu giáo dục, đến cách thức tổ chức và hệ thống giáo dục. Nhà trường
từ chỗ hoạt động đơn điệu là dạy và học chuyển sang giao lưu, đối thoại, tiếp
nhận thông tin, gắn liền với nghiên cứu khoa học và công nghệ ứng dụng.

Nhà giáo từ chỗ chỉ truyền đạt kiến thức chuyển sang cung cấp cho người
học phương pháp thu nhận thông tin một cách có hệ thống , có tư duy, phân
tích và tổng hợp. Học sinh từ chỗ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, trở
thành trung tâm thu nhận kiến thức, chủ động trong việc tiếp thu kiến thức,
từ chỗ chỉ biết học kiến thức mà thầy cô giáo trang bị chuyển sang chủ động
tìm tòi, nghiên cứu kiến thức, chọn lựa kiến thức sao cho phù hợp. Do vậy
mà nhà trường phải đổi mới giáo dục về nhiều mặt đặc biệt là về phương
pháp giảng dạy sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường và học
sinh của nhà trường.
Là sinh viên của khoa Vật lí trường Đại học sư phạm hà nội khóa
1979 - 1983 tôi tốt nghiệp loại giỏi - thủ khoa Vật lí năm 1983 - được điều
động về giảng dạy tại trường THPT Yên Mĩ (tháng 1 năm 1984). Năm 1997,
tỉnh Hưng Yên được tái lập trở lại - trường THPT Chuyên Hưng Yên được
thành lập và tôi là người được Sở Giáo dục - Đào tạo Hưng Yên điều động
về công tác tại trường từ những ngày đầu tiên. Tháng 11 năm 1997, tôi được
Ủy ban nhân dan tỉnh Hưng Yên đề bạt giữ chức vụ Phó hiệu trưởng nhà
trường, được nhà trường giao phụ trách mảng chuyên môn từ đó đến nay.
Trong quá trình chỉ đạo và thực hiện công tác chuyên môn của nhà trường,
hơn nữa bản thân tôi lại là giáo viên đứng lớp, từng giảng dạy các lớp
Chuyên Vật lí và bồi dưỡng các Đội tuyển quốc gia của tỉnh Hưng Yên 12
năm qua tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp giảng dạy trong giai đoạn
hiện nay là cần thiết đối với các nhà trường nói chung và trường THPT
Chuyên Hưng Yên nói riêng. Đặc biệt đổi mới phương pháp giảng dạy, đưa
công nghệ thông tin, đưa trang thiết bị hiện đại vào giảng dạy và nghiên cứu
ở trường THPT Chuyên Hưng Yên lúc này là quan trọng và cấp bách hơn
bao giừo hết. Vì vậy tôi chọn “Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia ở
trường THPT Chuyên Hưng Yên giai đoạn 2011-2015” làm đề tài sáng
kiến kinh nghiệm của mình.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài

Trên cở sở nghiên cứu lí luận về đổi mới phương pháp giảng dạy ở
trường THPT và nghiên cứu thực trạng phương pháp giảng dạy ở trường
THPT Chuyên Hưng Yên từ năm 1997 đến 2010, đề tài đề xuất những giải
pháp khả thi phải thực hiện nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng
học sinh giỏi Quốc gia ở trường THPT Chuyên Hưng Yên giai đoạn 2011-
2015.
Nhiệm vụ đặt ra khi nghiên cứu đề tài đó là:
* Xác định cơ sở lí luận của đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường
THPT nói chung và trường THPT Chuyên Hưng Yên nói riêng
* Tìm hiểu thực trạng của chất lượng đội ngũ giáo viên trường THPT
Chuyên Hưng Yên từ năm 1997- 2010
* Thực trạng của phương pháp giảng dạy ở nhà trường và học tập của
học sinh nhà trường từ năm 1997- 2010
* Đề xuất một số giải pháp có thể đạt được nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Chuyên Hưng Yên giai đoạn 2011-
2015
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ của đè tài đặt ra, trong quá
trình thực hiện đè tài, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau
đây:
+) Phương pháp nghiên cứu điển hình
Các điển hình ở đây chính là các đồng chí giáo viên giỏi, giáo viên có
kinh nghiệm, có tay nghề, nhiều năm giảng dạy và bồi dưỡng các đội tuyển
Quốc gia ở trường THPT Chuyên Hưng Yên. Đặc biệt là ý kiến phản hồi của
1 số các em học sinh giỏi, có giải cao trong các kì thi chọn học sinh giỏi từ
năm 1997- 2010 mà bản thân tôi và đồng nghiệp bồi dưỡng, các em còn
đang theo học ở trường hoặc đã trưởng thành.
+) Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
* Nghiên cứu văn bản, nghị quyết của Tỉnh ủy Hưng Yên, của Sở giáo
dục và đào tạo Hưng Yên về đổi mới phương pháp giảng dạy

* Đọc các tài liệu quản lí giáo dục đào tạo, các công trình nghiên cứu
về vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy,
+) Nhóm nghiên cứu thực tiễn
* Tiến hành dự giờ, thăm lớp, tìm hiểu phương pháp dạy học truyền
thống của giáo viên trong trường
* Sử dụng phương pháp điều tra, thăm dò ý kiến của lãnh đạo giáo
viên và học sinh nhà trường
* Phân tích dữ liệu thu nhận được dựa vào kết quả thăm dò, biểu
bảng, thống kê, biểu đồ….
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Về thời gian: Khảo sát đánh giá tình hình giảng dạy, kết quả của
trường THPT Chuyên Hưng Yên từ năm 1997- 2010
* Về không gian: Trường THPT Chuyên Hưng Yên - thuộc Sở giáo
Dục & Đào tạo Hưng Yên- số 1- Đường Chu Văn An- Phường An Tảo -
Thành phố Hưng Yên.
* Đối tượng nghiên cứu: Ban giám hiệu, các thầy cô giáo thuộc Hội
đồng giáo dục nhà trường, 28 lớp Chuyên thuộc 3 khối lớp 10, 11, 12 của
trường THPT Chuyên Hưng Yên.
* Các em học sinh thuộc các đội tuyển Quốc gia môn Vật lí đã đạt giải
ở các năm học trước hiện đang công tác, học tập tại các trường Đại học trong
cả nước.
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu trước hết phục vụ cho công tác chỉ đạo chuyên môn
của bản thân tôi về hoạt động chuyên môn của nhà trường những năm 2011-
2015 nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi
của tỉnh Hưng Yên, phấn đầu có nhiều học sinh của nhà trường tham dự thi
Olympic Quốc tế và nhiều học sinh đạt giải trong các kì thi chọn học sinh
giỏi Quốc gia những năm tiếp theo.
Bên cạnh đó đề tài là tài liệu tham khảo cho các đồng chí đồng nghiệp
là cán bộ quản lí tại trường THPT Chuyên đã , đang và sẽ thực hiện nhiệm

vụ quản lí hoạt động chuyên môn của nhà trường.
Đề tài là tài liệu học tập cho các đồng chí giáo viên trẻ, qua đề tài các
đồng chí thấy được nội dung của việc đổi mới phương pháp giảng dạy hiện
nay, từ đó lựa chọn áp dụng vào việc giảng dạy của bản thân.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài này được kết cấu gồm 3
chương
Chương I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đổi mới phương pháp giảng
dạy ở trường THPT
Chương II. Thực trạng việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường
THPT Chuyên tỉnh Hưng Yên giai đoạn 1997- 2010
Chương III. Phương pháp và giải pháp đổi mới phương pháp giảng
dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia
ở trường THPT Chuyên Hưng Yên giai đoạn 2011- 2015
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
GIẢNG DẠY
I. Cơ sở lí luận chung
1.1. Quan niệm về đổi mới phương pháp giảng dạy
1.1.1. Quan niệm của Đảng cộng sản Việt nam về giáo dục
Giáo dục và đào tạo được Đảng cộng sản Việt nam xác định :“ là
quốc sách hàng đầu” và “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho cho phát triển”.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt nam tại Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: Phát triển giáo dục và đào
tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại háo đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người -
yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Trong những năm qua, nền giáo dục cách mạng nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng tự hào, góp phần quan trọng, quyết định trong việc
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Hệ thống giáo dục

quốc dân từ mầm non đến Đại học và trên Đại học với hơn 21 triệu người đi
học (chiếm 27,8% tổng số dân trong cả nước). Sự nghiệp giáo dục Việt nam
đã góp phần phát huy nhân tố con người – nguồn nội lực quan trọng đưa
nước ta bước vào thế kỉ 21- thế kỉ của hội nhập, của nền kinh tế tri thức, của
xu hướng toàn cầu hóa… cùng với việc phổ cập tiểu học, Trung học cơ sở
và tiến tới phổ cập trung học phổ thông là việc phấn đấu để chúng ta trở
thành xã hội học tập và nghiên cứu, nhằm theo kịp sự phát triển của khoa
học công nghệ của các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, nền giáo dục Việt
nam còn những bất cập cần phải khắc phục, văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX cho thấy: Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp so với
nhu cầu, mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học, sách
giáo khoa, thi cử, cơ cấu đào tạo và trình độ, năng lực quản lí còn nhiều
thiếu sót. Trong giáo dục và đào tạo còn có những tiêu cực đáng lo ngại .
Để phát huy những thành tựu đã đạ được và khắc phục có hiệu quả
các tồn tại, yếu kém, đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX -Đảng cộng sản Việt nam đã chỉ ra hướng giaỉ quyết
cho Giáo dục và đào tạo là: tiếp tục quán triệt quan điểm Giáo dục là quốc
sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản toàn diện trong phát triển giáo
dục. Triển khai thực hiện có hiệu quả luật giáo dục, tăng cường quản lí nhà
nước, đặc biệt là hệ thống thanh tra giáo dục, thiết lập kỉ cương, đẩy lùi các
hiện tượng tiêu cực trong giáo dục và đào tạo.
1.1.2. Quan niệm của Đảng – nhà nước Việt nam về đổi mới phương
pháp giảng dạy
Nghị quyết 40/2000 – khóa X của Quốc hội nước cộng hào xã hội chủ
nghĩa việt nam nêu rõ: Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông là xây dựng nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo
khoa phổ thông mới, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ
trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt nam, tiếp

cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước trong khu vực và trên thế giới.
Những định hướng đổi mới phương pháp giảng dạy ở các môn học ở
bậc Trung học phổ thông được đề cập trong các nghị quyết TW 4 khóa VII
(tháng 1 năm 1993), nghị quyết TW 2 khóa VIII (tháng 12 năm 1996), trong
Luật giáo dục (tháng 12 năm 1998) và trong các chỉ thị, quyết định của Bộ
giáo dục và đào tạo. Theo nghị quyết này, tinh thần cơ bản của việc đổi mới
phườn pháp giảng dạy là : Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo
của học sinh. Bồi dưỡng phương pháp tự học, tự rèn luyện, kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn và tạo hứng thú học tập cho học sinh. Điểm cốt lõi
của việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường THPT là tạo cho học sinh
thói quen học tập chủ động, chống lại lề thói học tập thụ động trước đây.
Chỉ thị số 14/2002 của thủ tướng chính phủ đã đề ra 4 nguyên tắc đổi
mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy như sau:
* Quán triệt mục tiêu, yêu cầu rõ nội dung và phương pháp giáo dục
các bậc học theo luật giáo dục
* Đảm bảo tính kế thừa và phát triển của chương trình giáo dục, phù
hợp với thực tiễn và truyền thồng Việt nam, tiếp thu những thành tựu giáo
dục tiên tiến trên thế giới.
* Thực hiện chuẩn hóa, hiện địa hóa và xã hội hóa, đảm bảo thống
nhất về chuẩn kiến thức và kĩ năng, tăng cường tính liên thông với giáo dục
nghề nghiệp và giáo dục sau trung học, đồng thời có phương án áp dụng
chương trình, sách giáo khoa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của các địa
bàn khác nhau, chọn lọc đưa ra chương trình giảng dạy những thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại, phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh,
hết sức coi trọng tính thực tiễn, học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
* Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả việc đổi mới chương trình và
phương pháp dạy và phương pháp học với việc đổi mới cơ bản và phương
pháp đánh giá, thi cử, đổi mới đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Đổi
mới cả công tác quản lí giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất của nhà trường

theo hướng chuẩn hóa, đảm bảo trang thiết bị dạy học hiện đại.
Trong giáo dục và đào tạo thì nhà trường là quan trọng , là đơn vị nhỏ
nhất thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước của Bộ và Sở về
giáo dục. Nhà trường là nơi thực thi nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, nơi mà
kiến thức của thày được trang bị cho trò thông qua hoạt động dạy và học còn
học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức thông qua hoạt động học và kiểm tra.
Nhà trường là nới thực hiện phương pháp giảng dạy được Bộ giáo dục và
đào tạo ban hành. Có thể nói, mọi hoạt động của nhà trường đều nhằm hoàn
thành một mục tiêu nào đó của giáo dục đào tạo đặt ra. Nếu nhà trường có
một phương pháp giảng dạy tốt thì học trò của nhà trường sẽ tích cực, hăng
say và miệt mài học tập và kết quả giáo dục của nhà trường sẽ đảm bảo.
Ngược lại, nếu phương pháp giảng dạy của nhà trường không tốt sẽ không
thu hút được học sinh theo học, học trò tiếp thu kiến thức khó khăn hơn và
dẫn đến kết quả học tập của học sinh đó thấp. Phương pháp giảng dạy của
mỗi thầy cô giáo trong nhà trường sẽ quyết định thành quả của nàh trường
đó trong hệ thống giáo dục, từ đó mà quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của nhà trường.
Trong đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường THPT hiện nay,
chúng ta không phủ định vai trò của các phương pháp dạy học truyền thống
nhưng yêu cầu phải sử dụng phương pháp đó theo tinh thần đổi mới; Tức là
phải luôn luôn tìm cách để học sinh có thể tiếp thu kiến thức và kĩ năng một
cách chủ động, tạo ra sự động não thật sựu của học sinh trong giờ học.
Thí dụ, trong mỗi giờ học, người giáo viên vẫn có thể áp dụng phương
pháp giảng dạy minh họa (phương pháp truyền thống) để dạy một vấn đề,
nhưng trước khi giảng, nhất thiết phải cho học sinh nắm được mục đích mà
ta đang muốn đạt đến trong giừo học. Tránh thuyết giảng tràn lan để rồi
minh họa một cách hình thức, hời hợt. Chúng ta cần chú ý rằng việc nghe
giảng kéo dài sẽ gây ra tình trạng ức chế ở học sinh, làm giảm khả năng tập
trung suy nghĩ của các em và ảnh hưởng không tốt đến quá trình tiếp thu bài
học. Giáo viên phải biết ngừng, biết ngắt đúng lúc từng đoạn của bài giảng

của mình để đặt câu hỏi thu thập thông tin phản hồi từ phía học sinh xem
học sinh có thực sự tiếp thu bài giảng của mình hay không? Nếu có những
câu hỏi gây tranh cãi thì điều đó sẽ kích thích rất mạnh tư duy lí luận của
học sinh. Người giáo viên, trước khi minh họa một vấn đề cần cho học sinh
nắm rõ nội dung cần minh họa, cách thức tiến hành minh họa, cần yêu cầu
học sinh mô tả lại hiện tượng quan sát được, lập luận để rút ra kết luận
khẳng định lý thuyết đã được nghe giảng ở trên.
Để đổi mới phương pháp giảng dạy, cần đổi mới dẫn dần từng công
việc, từng bước lên lớp để tiến tới đổi mới toàn bộ phương pháp dạy học của
1 tiết học. Trước hết người giáo viên cần làm quen với việc dạy học theo
tinh thần hướng dẫn học sinh tự học chiếm lính kiến thức, sau đó là để học
sinh làm quen với cách học theo tinh thần đổi mới, không ỷ lại hay trông
chờ, mà bản thân mỗi học sinh phải tự lực phấn đấu, kết hợp với sự hỗ trợ
của giáo viên và bạn bè để nắm được kiến thức và kĩ năng mới. Việc đổi mới
phương pháp giảng dạy của thầy, cô giáo kéo theo được sự đổi mới phương
pháp học của học sinh.
Những bước lên lớp cần được nghiên cứu đổi mới có thể là: bước đặt
vấn đề; giao nhiệm vụ học tập cho học sinh; bước tìm tòi nghiên cứu để giải
quyết vấn đề; bước rút ra kết luận và hợp thức hóa kết luận trước cả lớp;
Cuối cùng là bước kiểm tra đánh giá kết quả tiếp thu bài của hcọ sinh.
Chiến lược quan trọng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy là dạy
học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh. Theo chiến lược này, học
sinh không còn ở tư thế thụ động tiếp thu kiến thức, nhắc lại nguyên văn lời
thầy cô hay điều được viết trong sách giáo khoa như một chú vẹt. Các em
phải nắm được mục tiêu bài học, chủ động tìm hiểu kiến thức trong SGK,
quan sát, quan sát hiện tượng rút ra kết luận, tranh luận với bạn bè, thậm chí
tranh luận cả với thầy cô giáo từ đó đề xuất ý kiến của mình đối với giáo
viên. Học sinh phải thông qua hoạt động học để tự cải tạo chính mình; chiếm
lĩnh kiến thức mới; khắc phục những giểu biết sai lầm, phát triển những
năng lực, trí tuệ, rèn luyện kĩ năng chân tay, trau dồi với ngôn ngữ, thể

nghiệm những quan điểm đạo đức và thái độ ứng xử của mình. Một số công
việc mà lâu nay người giáo viên vẫn thực hiện thì nay chuyển giao cho học
sinh nhưng giáo viên phải tìm cách kiểm tra cho được kết quả hoạt động của
học sinh.
Đối với những bộ môn khoa học thực nghiệm như Vật lí; Hóa học;
Sinh học; Tin học…. thì người giáo viên cần chú ý rằng thực hành là một
trong những biện pháp quan trọng để thu lượm thông tin từ thực tế. Thông
qua thực hành ta xây dựng được những biểu tượng cụ thể về sự vật, hiện
tượng mà không có một lời lẽ nào có thể mô tả đủ được. Trong thực hành,
không những các kĩ năng như quan sát, thực hành lắp ráp thí nghiệm: đo
dạc, đọc số liệu trên máy đo, vẽ đồ thị… được rèn luyện mà cả óc suy đoán,
tư duy lí luận cũng phát triển rất mạnh. Muốn vậy, người giáo viên không
thể cho học sinh thực hành theo cách chỉ đâu làm đấy một cách máy móc
mô tả đơn giản một hiện tượng xẩy ra đã rõ ràng mà cần cho học sinh nắm
được mục đích thực hành, xây dựng phương án thực hành, tiến hành thí
nghiệm, xử lí kết quả thí nghiệm để rút ra kết luận.
Một nội dung nữa của đổi mới phương pháp dạy học là coi việc rèn
luyện các kĩ năng quan trọng ngang bằng với việc truyền thụ kiến thức.
Trong đố chúng ta đặc biệt chú ý đến các kĩ năng của một tiến trình khoa
học. Đó là các kĩ năng thu lượm thông tin cần thiết, các kĩ năng xử lí thông
tin để rút ra được kết luận bổ ích và các kĩ năng truyền đạt thông tin khoa
học cho cộng đồng.
Các kĩ năng thu lượm thông tin trong hoạt động học tập của học sinh
bao gồm: kĩ năng đọc sách, đọc biểu, tóm tắt đề bài. Sử dụng thu viện, kĩ
năng quan sát, lấy số liệu từ thí nghiệm, lấy số liệu thống kê từ thực tế, kĩ
năng khai thác mạng internet……
Kĩ năng xử lí thông tin trong học tập của học sinh bao gồm: kĩ năng
xây dựng bảng, biểu đồ, vẽ đồ thị, rút ra kết luận bằng suy luận qui nạp, suy
luận diễn dịch, suy luận tương tự, khái quát hóa và tổng quát hóa và kĩ năng
truyền đạt thông tin bao gồm: thảo luận khoa học, báo cáo viết, trình bày

bảng, trình bày triển lãm….
Trong việc đổi mới phương pháp dạy học không thể tính đến việc bồi
dưỡng khả năng tự học cho học sinh. Đó là vì, trước hết, dù là học trên lớp
hay tự học ở nhà, mỗi học sinh phải thực sự động não để tiếp thu những điều
cần học. Không ai có thể học thay ai được, cho nên, ngay trong tiết lên lớp
giáo viên phải huấn luyện cho học sinh cách mắc bắt nội dung chính của mỗi
phần tài liệu hay trong SGK, đường lối suy nghĩ và hành động để giải quyết
một vấn đề… nghĩa là phải dạy cho học sinh cách tự học. Sau nữa là vì
chúng ta gặp phải một mâu thuẫn rất lớn giữa một bên là những yêu cầu về
thời gian cần thiết để thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy và một
bên là sự eo hẹp của thời gian dành cho mỗi môn học. Để giải quyết được
vấn đề này, người giáo viên phải khôn khéo kết hợp giữa nội dung dạy học
trên lớp với nội dung dành cho học sinh tự học ở nhà - khi đó họ tìm được
thời gian thích hợp cho phương pháp dạy học mới. Có lẽ, giáo viên không
cần dạy từ A-Z của tất cả các kiến thức có trong SGK của mỗi bài học dành
cho một tiết, mà nên dành một phần một nội dung nào đó cho học sinh tự
tìm hiểu, rồi sau đó sẽ kiểm tra kết quả sự tự học của các em.
Nội dung cuối cùng của đổi mới phương pháp dạy học – đó là đổi mới
cách định giá. Về nội dung của đổi mới cách đánh giá cần thiên về đánh giá
sự hiểu biết và khả năng vận dụng của học sinh hơn là sự tái hiện thuộc lòng
SGK. Tăng cường những nội dung thực tế của bài kiểm tra , loại bỏ những
bài toán phức tạp, phi thực tế. Về hình thức, cần phối hợách kiểm tra bằng
trắc nghiệm khách quan với cách kiểm tra bằng các câu hỏi tự luận. Cần
nghiên cứu một số biện pháp để học sinh tự đánh giá, kết hợp với sự đánh
giá của nhóm hoặc của lớp trong 1 số công việc nhằm tạo tiềm lực cho học
sinh trong các hoạt động thực tế sau này.
1.2. Nội dung của đổi mới phương pháp giảng dạy
1.2.1. Đổi mới cách soạn giáo án
* Trong soạn giáo án, giáo viên phải lượng hóa cho được các mục tiêu
của bài học. Lượng hóa mục tiêu có nghĩa là nêu ra những thể hiện cụ thể ở

học sinh mà căn cứ vào đó giáo viên có thể đánh giá được, liệu học sinh đã
đạt được mục tiêu đề ra hay chưa? Ví dụ, nếu yêu cầu học sinh phát biểu
định nghĩa một khái niệm Vật lí thì điều đó có nghĩa là ta chỉ cần học sinh
nhận biết và tái hiện đơn giản kiến thức đó. Nếu yêu cầu học sinh nêu được
1 thí dụ về một ứng dụng của một định luật Vật lí thì không những học sinh
phải thông hiểu nội dung định luật mà còn phải biết định luật đó có ứng
dụng như thế nào trong thực tế đời sống.
Thông thường, mục tiêu được lượng hóa bằng những động từ mô tả các hoạt
động của học sinh để từ đó các em bộc lộ việc nắm bắt mục tiêu.
* Phải chia bài học thành một số nội dung riêng biệt mà ta gọi là đơn
vị kiến thức sau đó giáo viên phải cân nhắc, lựa chọn xem nội dung nào nên
dạy trên lớp trong thời gian 45 phút, nội dung nào giao cho học sinh tìm hiểu
ở nhà.
* Hoạch định các hoạt động của học sinh và các hoat động tương ứng
của giáo viên trong từng tiết học. Những tình huống, những hoạt động chủ
yếu của học sinh và giáo viên trong 1 tiết học thường là những hoạt động sau
đây:
Hoạt động của học sinh Hoạt động của giáo viên
* Tiếp nhận nhiệm vụ học tập * Tạo tính huống học tập, trao nhiệm
vụ học tập
* Thu lượm thông tin
+) Nghe giáo viên giảng bài
+) Đọc và tìm hiểu một vấn đề trong
SGK
+) Tìm hiểu 1 bảng số liệu trong
SGK
+) Quan sát hiện tượng
+) Làm thí nghiệm (nếu có) và ghi
nhận kết quả thí nghiệm
* Tổ chức và hướng dẫn hoạt động

cho học sinh
+) Tóm tắt nội dung cần tìm hiểu
+) Giảng sơ lược những chỗ cần thiết
+) Giới thiệu và hướng dẫn cách làm
thí nghiệm lấy kết quả
+) Biểu diễn thí nghiệm (nếu có) cho
học sinh quan sát
+) Cầm chịch và chủ động về thời
gian
* Xử lý thông tin
+) Rút ra nhận xét hay kết luận từ
những điều tìm hiểu được
+) Lập bảng, vẽ đồ thị, nhận xét về
tính qui luật của hiện tượng
+) Trả lời các câu hỏi của giáo viên
+) Thảo luận, tranh luận với bạn bè
trong nhóm, trong lớp
* Tổ chức cho học sinh xử lý thông
tin
+) Yêu cầu học sinh nhận xét, kết
luận
+) Đánh giá nhận xét, kết luận của
học sinh
+) Hướng dẫn học sinh cách lập
bảng, biểu, vẽ đồ thị, rút ra kết luận
từ đồ thị
+) Tổ chức trao đổi trong nhóm, lớp
+) Tổ chức hợp thức hóa kết luận
+) Cầm chịch về thời gian
* Ghi chép những kết luận cuối cùng

đã được hợp thức hóa
* Làm bài tập vận dụng và trả lời câu
hỏi dưới dạng trắc nghiệm
* Củng cố bài học
* Ra bài tập vận dụng
* Đưa ra hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm
Người giáo viên phải nghiên cứu xem đơn vị kiến thức nào nên dạy
theo nhóm nhỏ, đơn vị kiên sthức nào chỉ cần cho học sinh tìm hiểu ở nhà.
* Xác định các thiết bị thí nghiệm(với các bộ môn Lí; Hóa; Sinh), các
đồ dùng thiết bị khác như máy chiếu, bản trong, bản đồ đối với các bộ môn
khoa học khác.
1.2.2. Nghiên cứu việc sử dụng SGK trong giờ học
Theo tinh thần tạo ra sự chủ động, tích cực của học sinh trong việc
nắm bắt kiến thức và bồi dưỡng cho học sinh khả năng tự học, tự nghiên cứu
trong việc giảng giải và hướng dẫn của giáo viên với việc đọc SGK của học
sinh. Đây là nội dung mới so với phương pháp dạy học truyền thống. Ở
phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên chủ yếu là thuyết trình, học
sinh tiếp thu kiến thức và ghi chép một cách thụ động, thậm chí còn có hiện
tượng giáo viên đọc, học sinh chép trong một tiết hoc, làm cho không khí
lớp học trầm lắng, chủ yếu là lối đọc – chép, học sinh không chủ động và
tích cực xây dựng bài học. Để thực hiện nội dung đổi mới này, đòi hỏi người
giáo viên phải tạo ra được sự hứng khởi, tinh thần và không khí học tập ngay
từ bước giao nhiệm vụ học tập cho học sinh, làm cho các em chủ đông, hào
hứng và tích cực hơn trong mỗi nhiệm vụ được giao.
1.2.3. Nghiên cứu và sử dụng được các phương tiện dạy học
Như máy chiếu, bản trong, máy tính xách tay, băng điã CD , các phần
mềm dạy học, các thí nghiệm ảo, tranh và bản đồ, biểu đồ, các trích đoạn
phim minh họa…. Để tăng hiệu quả của việc truyền tải thông tin đến với
người học. Đây là nội dung rất dễ tạo nên không khí học tập hào hứng, hấp

dẫn trong học sinh. So với phương pháp giảng dạy cổ truyền thì đây là điều
mới. Trước kia người giáo viên nặng về mô tả, thuyết trình thì giừo đây họ
chỉ việc điều khiển máy chiếu, băng đĩa thì tất cả những điều cần mô tả sẽ
hiện ra, học sinh theo dõi, quan sát, thu hút sự tập trung của các em hơn.
Tăng hiệu quả hơn cho người học.
1.2.4. Giáo viên bố trí hợp lí thời gian cho học sinh thảo luận,
tranh luận khoa học
Tổ chức cho học sinh hợp thức hóa kiến thức hay chuẩn hóa kiến
thức. Đồng thời với việc đổi mới các bước lên lớp giáo viên cần nghiên cứu
thí nghiệm trong một số tiết học những phương pháp dạy học mới như
phương pháp dạy học nêu vấn đề - giải quyết vấn đề; phương pháp dạy học
được thiết kế trên cơ sở của các phương pháp nhận thức khoa học như
phương pháp giải quyết- thực nghiệm; phương pháp tương tự - mô hình;
phương pháp dạy học kiểu kiến tạo….
1.2.5. Đổi mới cách đánh giá học sinh theo các định hướng dưới
đây:
+) Soạn bài kiểm tra 15 phút; 45 phút theo hướng phối hợp câu hỏi
trắc nghiệm khách nghiệm và câu hỏi tự luận
+) Tiến tới soạn bài kiểm tra theo hướng trắc nghiệm 100% đối với
các bộ môn Vật lí; Hóa học; Sinh học… Các môn còn lại soạn theo hình
thức tự luận.
+) Ở bậc THPT ta chọn các câu hỏi trắc nghiệm với 4 phương án trả
lời. Chú ý cách soạn sao cho các phương án đúng hoàn toàn, còn các phương
án sai là sai hoàn toàn. Không nên có loại câu hỏi lựa chọn phát biểu đúng
nhất hay chính xác nhất. Không được có các phương án trả lời làm khó học
sinh. Khi soạn câu hỏi trắc nghiệm người giáo viên cần chú ý rằng các
phương án nhiễu cũng phải chính xác về mặt khoa học, không được làm méo
mó bộ môn khoa học mà mình giảng dạy.
+) Cho học sinh tập dượt và làm quen với phương pháp này bằng việc
cho kiểm tra ở nhóm, lớp , có thể đánh giá định tính trước khi đánh giá định

lượng
1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới phương
pháp giảng dạy
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay của Việt nam, vấn đề đào tạo nguồn
nhân lực trở thành vấn đề cốt lõi, quan trọng bậc nhất của sự nghiệp giáo dục
và đào tạo , góp phần tạo ra động lực phát triển kinh tế giữ vững anh ninh -
xã hội. Trong đó, giáo dục và bồi dưỡng nhân tài lại có vai trò quan trọng
đào tạo nguồn nhân lực. Tại Văn miếu - Quốc tử giám Hà nội có ghi: “ Hiền
tài là nguyên khí của Quốc gia, nguyên khí mạnh thì nước thịnh, nguyên khí
yếu thì nước suy ”. Điều này phần nào đã nói lên quan điểm và đường lối
giáo dục mũi nhọn ở Việt nam.
Hưng Yên là một tỉnh mới tái lập nền kinh tế Hưng Yên đang trên đà
phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng nhanh. Giáo dục Hưng Yên cũng bắt
kịp bước chuyển ấy, đã và đang có nhiều khởi sắc. Từ một tỉnh đứng thứ 60
trên 61 Tỉnh thành trong cả nước (cuối năm 1997)
Nay Hưng Yên vươn lên đứng ở nửa tốp đầu (thứ 25 / 61 tỉnh thành
cả nước). Về đường lối và quan điểm giáo dục – nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ 15 (tháng 4/ 2001) đã nêu rõ: “Phải tạo nền tảng cho công dân
phát triển toàn diện nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa…. Coi trọng cả qui mô, chất
lượng và hiệu quả ở mọi cấp học, ngành học” . Nghị quyết Hội nghị lần thứ
7 – Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên kháo 15 về chương trình phát
triển giáo dục – đào tạo giai đoạn 2001-2005 và định hướng đến 2011 đã nêu
mục tiêu cụ thể về phát triển giáo dục trong đó tập trug vào chiến lược con
người. Nghị quyết ghi rõ: “ Phải đưa giáo dục đào tạo trong đó có giáo dục
đào tạo mũi nhọn ngang tầm với các địa phương xung quanh và trong phạm
vi cả nước phấn đấu có nhiều học sinh giỏi của Tỉnh tham sự các kì thi
Olympic Quốc tế”
2. Cơ sở thực tiễn của đổi mới phương pháp giảng dạy
Trước hết ta hiểu đổi mới là thay thế cái cũ, cái truyền thống, các lạc

hậu bằng cái mới tiên tiến hơn, hoàn thiện hơn và hiệu quả hơn.
Thực tế hiện nay cho thấy, khi mà cuộc cách mạng khoa học công
nghệ phát triển mạnh mẽ kéo theo những thay đổi lớn hơn trong nền kinh tế
- xã hội, khi mà thế giới bước vào thời đại toàn cầu hóa, tin học hóa và nền
kinh tế dần chuyển sang nền kinh tế trí thức thì ngành giáo dục và đào tạo
đứng truwóc những thách thức và vận hội mới. “Nhà trường phải đào tạo ra
những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo và có năng lực giải
quyết những vấn đề thực tế góp phần xây dựng đất nước giầu mạnh về kinh
tế, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”
Trước những năm 90, những đổi mới về mục tiêu chương trình, SGK
bậc THPT ở Việt Nam đã được tiến hành theo định hướng của cải cách giáo
dục. Trên thực tế, những đổi mới phương pháp giảng dạy. Song thực tế cho
thấy việc đổi mới phương pháp giảng dạy diễn ra chậm chạp, chưa đáp ứng
được yêu cầu ngày càng cao của công cuộc cải cách một cách đáng kể. Bức
tranh thực tế phổ biến của dạy học các môn học ở Việt nam hiện nay là.
+) Phổ biến trong cách dạy hiện nay là phương pháp truyền thống,
phương pháp thuyết trình, liệt kê kiến thức, thậm chí có nới có tình trạng
trình thày đọc, trò ghi, thầy nói nhiều mà không kiểm soát công việc của
người học trò.
+) Giáo viên không quan tâm đến việc tạo động cơ học tập, gây hứng
thú cho học sinh và không thực hiện các hình thức khen thưởng, động viên
học sinh
+) Học sinh học các bộ môn nói chung đều rơi vào tình trạng “ nhàm
chán”, không chịu học, thậm chí nhiều em không quan tâm đến nội dung bài
học, ít chịu trách nhiệm với bài học của mình.
+) Dạy chay còn phổ biến, đó là do còn thiếu các trang thiết bị và đồ
dùng thí nghiệm, do giáo viên còn ngại, không chịu soạn giáo án điện tử,
không làm thí nghiệm minh họa cho bài giảng, học không đi đôi với hành.
+) Học sinh tiếp thu bài một cách thụ động bởi các em quen nếp suy
nghĩ là học tập là cái thầy trang bị cho mình, thi cử có làm được bài hay

không là do người dạy, thành hay bại tùy thuộc vào những yếu tố ngoài sự
kiểm soát của mình, như thầy giỏi đến mức nào, nguồn tư liệu, trí thông
minh… Có thể nói cách dạy và học ở bức tranh trên không những không
phát huy được trí tuệ của học sinh mà còn tổn hại đến tư duy, trí lực của học
sinh làm cho học sinh mất đi khả năng tự học, tự đọc, ất đi niềm hứng khởi
khi học tập và nghiên cứu bộ môn và như vậy việc dạy và học sẽ trở thành
gánh nặng cho thầy và trò. Vì vậy tiếp tục đổi mới và đổi mới phương pháp
giảng dạy là vấn đề quan trọng nhất trong cải cách giáo dục hiện nay ở Việt
nam- đòi hỏi các trường THPT các nhà quản lý giáo dục Việt nam phải tiếp
tục quan tâm giải quyết.
Trường THPT Chuyên Hưng Yên là một trường trung học nằm trong
hệ thống giáo dục trung học của toàn quốc, trường dẫn đầu khối THPT trong
toàn tỉnh, nhiệm vụ của nhà trường là phát hiện đào tạo và bồi dưỡng học
sinh giỏi cấp tỉnh tham gia các kì thi Chọn học sinh Giỏi Quốc gia hằng
năm. Vấn đề luôn được đặt ra cho nhà trường là làm thế nào để số lượng và
chất lượng học sinh đạt giải Quốc gia hằng năm tăng lên và phấn đấu có học
sinh nhà trường tham dự thi Olympic Quốc tế. Để đạt được điều này, vấn đề
đổi mới và tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy ở nhà trường là vấn đề
quan trọng và cần thiết hơn bao giừo hết. Bởi có đổi mới phương pháp giảng
dạy mới thu hút được các em học sinh giỏi thi vào trường, khi đã vào trường
rồi các em mới say mê học tập, làm quen với nghiên cứu khoa học, tự đọc,
tự nghiên cứu, làm chủ việc lĩnh hội và tiếp thu kiến thức và các em sẽ đạt
kết quả cao trong các kì thi Quốc gia cũng như thi vào các trường Đại học và
Cao đẳng hằng năm. Có thể khẳng định, đổi mới phương pháp giảng dạy là
nhiệm vụ sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của nhà trường nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Ở
TRƯỜNG THPT CHUYÊN HƯNG YÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY
2.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của trường THPT Chuyên tỉnh

Hưng Yên.
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của nhà trường.
Sau hơn 28 năm sát nhập với Hải Dương thành Hải Hưng, ngày 1
tháng 1 năm 1997 tỉnh Hưng Yên chính thức được tái lập trở lại theo Quyết
định của Thủ tướng chính phủ được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua. Ngay từ ngày đầu tái lập,Đảng bộ và nhân dân
Hưng Yên đã bắt tay vào xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội và quốc phòng
an ninh.Mặc dù còn nhiều khó khăn của một tỉnh mới tái lập song Tỉnh
ủy,Ủy ban nhân dân và Hội đông nhân dân Tỉnh Hưng Yên đã quan tâm chú
ý đến sự nghiệp giáo dục đào tạo trong đó có giáo dục –đào tạo mũi
nhọn.Một trong những việc làm thể hiện sự quan tâm ấy là ra Quyết định
thành lập trường Phổ thông Năng khiếu Tỉnh (nay là trường THPT Chuyên
Tỉnh Hưng Yên).Và trường THPT Chuyên tỉnh Hưng Yên ra đời theo Quyết
định số 495 QĐ/UB của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên ký ngày 23 tháng
5 năm 1997 với nhiệm vụ : “phát hiện,khơi nguồn, đào tạo và bồi dưỡng
những học sinh giỏi của tỉnh Hưng Yên tham dự các kỳ thi chọn sinh học
giỏi Quốc gia, Quốc tế và thi vào các trường Đại học cao đẳng trong cả
nước”.
Ngày mới thành lập, trường chưa có địa điểm phải học nhờ mấy
phòng học của trường THPT Thị xã Hưng Yên và mấy gian nhà cấp bốn xây
vội trên một khuôn viên chật hẹp. Những ngày đầu với chúng tôi thật vô
cùng khó khăn,vất vả nhưng cũng rất vinh dự và tự hào. Đó là những kỷ
niệm đẹp, khắc sâu trong tâm khảm nỗi thày cô giáo chúng tôi và mỗi chúng
tôi không khỏi bồi hồi,xúc động khi nói về những ngày đầu thi vị ấy.
Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo,hai năm sau trường được xây
dựng trên một khuôn viên rộng 15.000 m
2
đất, trên đường Chu Văn An-
phường An Tảo Thành Phố Hưng Yên. Với 36 phòng học, một khu hiệu bộ
riêng biệt với đầy đủ các phòng chức năng.Trường được trang bị 2 phong

Lap dùng cho việc học ngoại ngữ, 2 phòng Tin học với 60 dàn máy vi tính, 2
phòng học đa năng với đầy đủ các trang thiệt bị hiện đại nhưmáy chiếu qua
đầu, đèn chiếu tivi….dùng cho dạy học bằng giáo án điện tử. Một thư viện
rộng rãi với hàng nghìn đầu sách phục vụ cho học tập, nghiên cứu của cán
bộ, giáo viên và học sinh. Ngoài ra nhà trường còn được trang bị ba phòng
học bộ môn với hệ thống đèn chiếu, giá thí nghiệm và các thiết bị phụ trợ đi
kèm… cho ba bộ môn đặc thù là Vật lí, Hóa học và Sinh học. Ba phòng học
này đảm bảo cho những bài giảng có thí nghiệm và phục vụ cho việc thực
hành của học sinh. Các phòng học cùng với hệ thống các phòng chức năng
đảm bảo đủ cho học sinh của cả 3 khối học một ca buổi sáng, buổi chiều
dành cho học phụ đạo, bồi dưỡng đặc biệt là bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc
gia.
Với sự quan tâm đặc biệt như vậy của các cấp lãnh đạo,sự chỉ đạo sát
sao,kịp thời có hiệu quả của Sở giáo dục và đào tạo Hưng Yên, những khó
khăn ban đầu của nhà trường dần được khắc phục. Hoạt động dạy và học của
nhà trường ngày càng đi vào nề nếp và ổn định. Chất lượng đào tạo của nhà
trường ngày càng được nâng lên. Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp của nhà
trường trong 12 năm qua là 100% trong đó tỷ lệ tốt nghiệp loại giỏi chiếm từ
40% đến 68%. Nhiều học sinh nhà trường được Bộ giáo dục và Đào tạo đặc
cách tốt nghiệp loại giỏi,được chọn vào vòng 2 dự thi chọn đội tuyển
Olimpic Quốc tế. Tỷ lệ học sinh nhà trường thi đỗ vào các trường Đại học
hàng năm đạt từ 89% đến 94,2%. Đặc biệt nhiều em đạt danh hiệu thủ khoa
với số điểm tối đa 30/30 điểm cho 3 môn thi như em Lưu Thị Minh Huệ -
học sinh lớp 12 chuyên Hóa khóa 2002-2005 (30 điểm), em Chu Thị Kim
Liên học sinh lớp 12 chuyên Toán khóa 2005-2008 đạt 30 điểm khi dự thi
vào Đại học Y- Thái Bình.
Kết quả thi học sinh giỏi Quốc gia của học sinh nhà trường 12 năm qua như
sau:
STT Năm học Số giải Môn có học sinh vào vòng 2
1 1997-1998 21 Toán học

2 1998-1999 32 0
3 1999-2000 26 0
4 2000-2001 20 Vật lí
5 2001-2002 23 0
6 2002-2003 27 Vật lí
7 2003-2004 32 Vật lí
8 2004-2005 34 Tin học
9 2005-2006 31 0
10 2006-2007 38 Tin học
11 2007-2008 33 Tin học-Sinh học
12 2008-2009 38 Hóa học
Đặc biệt năm học 2008-2009 một học sinh của nhà trường là em Lê
Thị Thu Hương học sinh lớp 12 chuyên Hóa của trường - là một trong 4 học
sinh của Việt Nam có mặt trong Đội tuyển dự thi Ôlimpic Quốc tế môn Hóa
học tai Vương quốc Anh. Đây là học sinh đầu tiên của nhà trường tham dự
thi Quốc tế.
2.1.2 Về đội ngũ cán bộ,giáo viên của nhà trường.
Ngay sau khi có quyết định thành lập trường của Ủy Ban nhân dân
Tỉnh Hưng Yên, Sở giáo dục và Đào tạo Hưng Yên đã ra Quyết định điều
động các đồng chí giáo viên giỏi cấp tỉnh, các đồng chí có kinh nghiệm
giảng dạy tại các trường THPT trong toàn tỉnh về công tác và giảng dạy tại
trường THPT Chuyên Hưng Yên. Lúc ban đầu nhà trường chỉ có 14 thày cô
giáo với 8 lớp học và 200 các em học sinh của cả 3 khối lớp10,11 và 12. Cơ
sở vật chất nhà trường lúc đó chưa có gì,thày và trò nhà trường phải đi học
nhờ tại trường THPT Thị xã Hưng Yên (nay là trường THPT Thành phố
Hưng Yên).
Lúc đầu Ban giám hiệu nhà trường gồm 3 đồng chí. Đồng chí hiệu
trưởng là thạc sỹ (môn Toán), một đồng chí phó hiệu trưởng phụ trách
chuyên môn (môn Vật lí) và đồng chí phó hiệu trưởng phụ trách cơ sở vật
chất (môn Tiếng Anh). Các tổ chuyên môn gồm có: Tổ Toán-Tin, Vật lí,

Hóa học, Sinh-Công nghệ, Văn-Địa, Sử-Thể Dục và Tổ Ngoại ngữ. Hầu hết
các đồng chí cán bộ, giáo viên nhà trường đều là những giáo viên giỏi, có
tuổi đời,tuổi nghề, nhiều đồng chí có kinh nghiệm trong bồi dưỡng học sinh
giỏi và luyện thi Đại học ở các khu vực trong tỉnh được điều động về trường.
Bên cạnh đó một điểm mạnh phải nói đến trong đội ngũ cán bộ, giáo viên
nhà trường đó là lòng nhiệt tình, tâm huyết,gắn bó với sự nghiệp đào tạo và
bồi dưỡng học sinh giỏi. Họ nhận thức được rằng đây là công việc khó
khăn,vất vả nhưng cũng rất vinh dự và vẻ vang. Sự đoàn kết nhất trí của đội
ngũ cán bộ , giáo viên, công nhân viên trong nhà trường thực sự là chất kết
dính giữa các tổ chức trong nhà trường và thực sự phát huy hiệu quả những
năm quá
Từ chỗ chỉ có 14 thầy cô giáo đến nay số cán bộ giáo viên nhà trường
đã lên đến 72, các đồng chí giáo viên mới về đều là các giáo viên có thành
tích ở các trường THPT trong tỉnh, có nhu cầu chuyển về thành phố đã qua
thẩm định của nhà trường. Đặc biệt , một số đồng chí giáo viên trẻ, trước kia
là học sinh của nhà trường, có giải Quốc gia, tốt nghiệp với bằng tốt ngiệp
Khá, Giỏi, được nhà trường tiếp nhận, được Sở Giáo Dục, Sở nội vụ ra
quyết định công tác tại trường. Nhiều đồng chí đã nhanh chóng vào cuộc,
làm quen với lớp Chuyên và bồi dưỡng đội tuyển Quốc gia và đã có kết quả
như đồng chí Tiết Tuấn Anh (tổ văn); Vũ Thị Thanh (tổ Địa); Hoàng
Hương Giang (Tổ Địa); Nguyễn Ngọc Mai (tổ Vật Lí); Nguyễn Văn Kiên
(tổ Hóa)…. Các đồng chí Giáo viên của nhà trường tham gia hội thi Giáo
viên giỏi cấp tỉnh hằng năm đều đạt thứ hạng cao đều đạt danh hiệu Giáo
viên giỏi như đ/c Ngô Thị Thúy (tổ Lí); đ/c Nguyễn Thu Hà (Hóa); Nguyễn
Thu Hường (NN); Đây thực sự là lớp giáo viên kế cận của lớp đàn anh đi
trước trong việc giảng dạy và bồi dưỡng các đội tuyển Quốc gia ở những
năm tiếp theo.
2.1.3. Về học sinh của nhà trường
Năm học 1997-1998, năm học đầu tiên của nhà trường học sinh không
phải thi tuyển mà Sở Giáo dục đào tạo Hưng Yên gọi tất cả các em học sinh

lớp 9, 10, 11 của năm học trước, đã tham dự thi học sinh giỏi cấp tỉnh và đạt
giải từ Khuyến khích trở lên về học tại trường. Với 200 học sinh thực sự có
chất lượng này, kết quả năm đầu tiên thực sự có chất lượng. Với 39 học sinh
đạt giải Quốc gia, trong đó 3 học sinh gọi tham dự chọn vòng 2 thi chọn đội
tuyển Olympic Quốc tế, tỉ lệ học sinh đỗ đại học năm đó là 100%.
Từ những năm trước, nhà trường không trực tiếp tham ra vào công tác
tuyển sinh, chủ yếu là Sở Giáo dục và Đào tạo Hưng Yên tuyển học sinh
cho nhà trường. Học sinh trong toàn tỉnh có lực học từ Khá trở lên, có trung
bình môn dự thi 8.0 (đối với các lớp tự nhiên) và 7.5 (đối với các lớp xã
hội) có nhu cầu dự thi đến trường đăng ký và làm hồ sơ. Nhà trường chỉ
tham gia khâu hồ sơ còn Sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo toàn bộ các khâu ra
đề, chọn đề, tổ chức coi thi và chấm thi. Như vậy có thể nói nhà trường
không tham gia và kiểm soát được khâu tuyển sinh nên còn có những học
sinh có sức học Trung bình thậm chí dưới Trung bình vào học tại trường
THPT Chuyên.
Số học sinh nhà trường ở thời điểm hiện nay là hơn 900 em gồm 3
khối 10,11 và 12 với các lớp chuyên: Toán-Tin, Vật lí, Hóa học, Sinh học,
Văn, Lịch sử, Địa lí và chuyên ngoại ngữ. Riêng khối lớp 10 năm học 2008-
2009 có thêm một lớp gọi là lớp 10 cận chuyên. Thực chất đây là lớp con em
hay là lớp ngoại giao của nhà trường và Sở Giáo dục-Đào tạo. Kết quả năm
học 2008-2009 cho thấy loại hình này không nên tồn tại trong trường
Chuyên bởi các em học sinh loại hình này có sức học yếu, ý thức lại không
tốt, mặc cảm khi mình học ở lớp “cận chuyên” nên các em không tự phấn
đấu vươn lên.
Đánh giá một cách tổng thể (loại trừ một số học sinh ở lớp 10 cận
chuyên) thì các em được tuyển chọn vào trường THPT Chuyên Hưng Yên
là những học sinh có sức học từ khá trở lên, có ý thức đạo đức tốt, chấp hành
mọi nội qui, qui định của nhà trường, có ý thức, động cơ và thái độ học tập
đúng đắn, có chí tiến thủ, có óc nghiên cứu, tìm tòi và sáng tạo, có trí thông
minh và tư duy khoa học tốt - nếu có được người thầy giỏi với một phương

pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng thì bài toán học sinh giỏi chắc chắn sẽ
có nghiệm và là nghiệm thực trong các kì thi chọn học sinh giỏi Quốc gia và
thi tuyển sinh vào Đại học hằng năm.
2.2. Thực trạng chất lượng và hiệu quả của phương pháp giảng
dạy ở trường THPT chuyên tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2010.
2.2.1. Những thành tích đạt được:
Hơn mười năm thành lập, đó là khoảng thời gian rất ngắn so với sự ra
đời và phát triển của một nhà trường nhưng đó cũng là khoảng thời gian đủ
đẻ khảng định những thành tựu mà thày và trò nhà trường đã đạt được.
Trước hết đó là việc dạy và học của nhà trường đã đi vào nề nếp và
ngày càng ổn định. Ban giám hiệu đã phân công mảng công việc cho từng
đồng chí trong đó đồng chí phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn kiêm
trưởng ban chuyên môn nhà trường.Tiết thứ 2 của sáng thứ hai hàng tuần
Ban chuyên môn họp giao ban dưới sự trù trì của đồng chí trưởng ban.Tại
buổi giao ban này các đồng chí tổ trưởng các tổ chuyên môn báo cáo tình
hình chuyên môn của tổ, sau đó ban chuiyên môn,ban giám hiệu nhận xét và
bổ sung những tồn tại của các tổ trong tuần, trên cơ sở đó các tổ rút kinh
nghiệm và đề ra biện pháp khắc phục, công việc của tuần tiếp theo. Kế
hoạch kiểm tra và ký giáo án được thực hiện 2 tuần một lần. Các đồng chí tổ
trưởng chuyên môn trực tiếp kiểm tra và ký giáo án của các thành viên trong
tổ, đồng chí trưởng Ban chuyên môn kiểm tra và ký giáo án của các tổ
trưởng chuyên môn còn đồng chí hiệu trưởng thì kiểm tra và ký giáo án của
các đồng chí phó hiệu trưởng. Kế hoạch thanh tra chuyên môn (thanh tra
toàn diện,thanh tra chuyên đề ) được Ban chuyên môn triển khai, thông báo

×