Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn một vài kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng gdqp - an cho học sinh trường thpt mỹ hào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.59 KB, 25 trang )

sở giáo dục & đào tạo HNG YấN
trờng thpt M HO
sáng kiến kinh nghiệm
Đề Tài:
Mt vi kinh nghim v gii phỏp nõng cao cht lng GDQP - AN
cho hc sinh trngTHPT M Ho
Môn: Quc phũng an ninh
Tác giả: Ngụ Vn Nam
Chức vụ: Giáo viên Quc phũng an ninh
Đơn vị công tác: Trờng THPT Mỹ Hào
Năm học 2013 2014
NHNG T VIT TT:
QPAN QUỐC PHÒNG AN NINH
XHCN XÁ HỘI CHỦ NGHĨA
THPT TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
QĐND QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VĐV VẬN ĐỘNG VIÊN
GV GIÁO VIÊN
CHQS CHỈ HUY QUÂN SỰ
GDQP-AN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG AN NINH
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục quốc phòng – an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân,
nhằm thống nhất nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người mới
XHCN có sự phát triển toàn diện. Việc GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ hết sức
quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc gia, góp phần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ
những kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta và kỹ năng
quân sự để sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang khi cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ quan
trọng, cấp bách trong chiến lược đào tạo con người mới XHCN, nhằm giáo dục cho
thế hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng lòng yêu nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ
luật, tinh thần tập thể, tư duy và kiến thức quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân


tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một trong những nội dung giáo dục toàn diện
trong nhà trường, góp phần hình thành nhân cách con người mới XHCN. Mặt khác,
GDQP-AN còn trang bị kiến thức, ý thức xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Mặt khác, đối với giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh, công việc giảng dạy
phải gắn liền với nghiên cứu khoa học. Đây là con đường ngắn nhất để không ngừng
tích luỹ kiến thức, nâng cao trình độ, gọt sắc tư duy, góp phần tìm ra những hình thức,
biện pháp thích hợp để truyền đạt tri thức tới người học.
Sau nhiều năm giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng – an ninh theo phương
pháp mới, bản thân tôi nhận thấy trong một tiết dạy giáo viên phải chuyển tải nhiều
kiến thức đồng thời phân chia thời gian học lý thuyết cũng như thực hành phải hợp lý
khoa học mới giải quyết được hết trọng tâm nội dung bài dạy. Mặt khác không để học
sinh học phần lí thuyết cũng như thực hành một cách thờ ơ, xem thường và cũng tránh
sự nhàm chán trong tập luyện đó là yếu tố chủ quan, đòi hỏi giáo viên phải vận dụng
phát huy tốt việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Mặt khác, đối với giáo viên giáo
dục quốc phòng-an ninh , công việc giảng dạy phải gắn liền với nghiên cứu khoa học.
Đây là con đường ngắn nhất để không ngừng tích luỹ kiến thức, nâng cao trình độ, gọt
sắc tư duy, góp phần tìm ra những hình thức, biện pháp thích hợp truyền đạt tri thức
tới người học. Cần lưu ý rằng, để phục vụ đắc lực cho việc nâng cao chất lượng giảng
dạy, hướng nghiên cứu của các giáo viên giáo dục quốc phòng-an ninh nên tập trung
trực tiếp vào nội dung kiến thức môn học hay những yếu tố tham gia vào quá trình dạy
và học như: Đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới nội dung chương trình học tập
Đổi mới mạnh mẽ sâu rộng phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra,
đánh giá: Giáo viên cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hoá
hơn nữa quá trình học tập của học sinh, phải tạo ra được cơ chế buộc học sinh phải
tham khảo tài liệu, chủ động nắm bắt nội dung môn học, nhằm hiểu sâu hơn nữa kiến
thức. Đồng thời, cần cải tiến phương pháp học tập của học sinh, bởi hoạt động của
giáo viên trên lớp đã bao hàm hoạt động của học sinh; cũng như vậy, hoạt động học
của học sinh luôn chứa đựng vai trò giảng dạy của giáo viên. Để dự báo năng lực học
tập, tự giáo dục của học sinh, năng lực giảng dạy của giáo viên, từ đó điều chỉnh, cải

tiến phương pháp học tập của học sinh, phương pháp giảng dạy của thầy. Có như vậy,
chúng ta mới thực sự biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Qua đó tôi
mạnh dạn viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một vài kinh nghiệm và giải pháp
nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh cho học sinh trường
THPT Mỹ Hào.”. Riêng bản thân tôi, do khả năng và năng lực còn nhiều hạn chế, đòi
hỏi cần phải nỗ lực nhiều. Một lần nữa, với lí do trên nên tôi chọn đề tài này, nhưng
trong quá trình nghiên cứu, viết lách, tất sẽ không tránh khỏi những thiếu xót, bởi đây
là một đề tài rất mới mẻ đối với bản thân. Rất mong bạn bè, đồng nghiệp… góp ý, tạo
điều kiện để tôi hoàn thành đề tài sáng kiến & kinh nghiệm năm học 2013-2014 và
nếu thành công, đó sẽ là cơ sở để tôi có thể tiếp tục nghiên cứu ở những bài, chương
rộng hơn sau này.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Để tiến hành giải quyết các nhiệm vụ của đề tài có hiệu quả tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu tham khảo .
Thông qua phương pháp phân tích và tổng hợp các tài liệu có liên quan như:
sách giáo khoa GDQP – AN, tài liệu tham khảo, tài liệu đổi mới phương pháp dạy
học và một số trò chơi phù hợp với quân sự.
2.2. Phương pháp phỏng vấn:
Thông qua phỏng vấn các thầy cô giáo và các đồng nghiệp có nhiều kinh
nghiệm trong và ngoài trường để lấy tư liệu phục vụ nghiên cứu .
2.3. Phương pháp quan sát sư phạm.
Tôi tiến hành quan sát các giờ tập luyện chính khóa, ngoài thao trường của các
đồng nghiệp trong và ngoài trường. Từ đó, đi đến việc giải quyết các nhiệm vụ của
đề tài một cách chính xác và đúng hướng.
2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong nghiên
cứu. Trong đề tài này chúng tôi dùng phương pháp thực nghiệm sư phạm để ứng
dụng các bài tập trò chơi đã được lựa chọn nhằm hoàn thành tốt một bài dạy để đảm
bảo được những vấn đề đã đặt ra.

3. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU.
3.1. Thời gian.
Để nghiên cứu đề tài này tôi nghiên cứu từ tháng 30/8/2013 đến tháng 4/2014
và chia thành nhiều giai đoạn.
Giai đoạn 1: Từ 30/8/2013 đến 10/09/2013.
- Chọn đề tài .
- Xây dựng đề cương .
Giai đoạn 2: Từ 10/09/2013 đến 25/3/2014
- Giải quyết nhiệm vụ đề tài
- Xử lý số liệu và hoàn thiện đề tài.
Giai đoạn 3: Đến 04/2014.
Báo cáo trước Hội nghị ban chuyên môn
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh trường THPT Mỹ Hào.
3.3. Địa điểm nghiên cứu:
Trường THPT Mỹ Hào.
II.NỘI DUNG
I. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về Tăng cường
sự lãnh đạo của đảng đối với công tác GDQP-AN trong tình hình mới; Chỉ thị số
417/CT-TTg ngày 31/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ vế việc tăng cường chỉ đạo,
thực hiện công tác GDQP-AN năm 2010 và những năm tiếp theo; Nghị định
116/2007-NĐ-CP về GDQP-AN cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác làm cơ
sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ GDQP-AN trong các trường THPT.
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực khả năng, tính
năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên
hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Chương trình

giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày
5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo cũng đã nêu : “Phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc
điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương
pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Năm học 2013-2014 Trường THPT Mỹ Hào tiếp tục chỉ đạo triển khai thực
hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung trọng tâm: Nói không với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích; nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc cho
học sinh ngồi nhầm lớp. Gắn kết với việc triển khai tổ chức thực hiện Chỉ thị số 06-
CT/TW ngày 07/6/2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Để đạt được mục tiêu đề ra là đảm bảo chất lượng giáo
dục ổn định và phát triển vững chắc. Ngay từ đầu năm học Trường THPT Mỹ Hào đã
chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền đến toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh và các
bậc phụ huynh hiểu rỏ mục đích, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện.
Hiện nay, nền giáo dục nước ta đang ở vào giai đoạn, mà việc đổi mới phương
pháp giảng dạy, đang là một vấn đề cấp bách được đặt ra. Phải khuyến khích tự học
phải vận dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng
lực tư duy sáng tạo. Để thực hiện tốt chủ trương này thì cần phải đào tạo khả năng tự
học cho học sinh.
Nói đến giáo dục quốc phòng – an ninh. Trường THPT Mỹ Hào là một trong
những đơn vị trong huyện có điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện sân
bãi đáp ứng số lượng tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh cho gần 1500 học sinh.
Tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh chính khóa đã truyền thụ cho các em học sinh
những tri thức cơ bản của nền Giáo dục quốc phòng toàn dân, những hiểu biết về tổ
chức QĐND Việt Nam, về nhà trường quân đội, về lịch sử QĐND Việt Nam, truyền
thống đấu tranh dựng nước - giữ nước của dân tộc và Luật biên giới Quốc gia. Đó là
những kiến thức rất bổ ích, thiết thực với học sinh phổ thông trước ngưỡng cửa cuộc
đời. Học sinh còn được làm quen với tác phong quân đội qua các bài học về điều lệnh,

đội ngũ, các tư thế vận động cơ bản trong chiến đấu, băng bó, cứu thương làm quen
với các phương tiện chiến đấu như ném lựu đạn, cách bắn súng tiểu liên AK Qua
học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh đã giáo dục cho học sinh lòng yêu nước -
tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hoà bình
của kẻ thù.Toàn bộ chương trình học tập của từng khối được xây dựng theo chương
trình hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đảm bảo dạy đủ môn, đủ tiết, đúng phân phối
chương trình. Vì vậy các tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh học sinh tham gia
học đầy đủ tích cực sôi nổi và hào hứng.
Giáo dục quốc phòng – an ninh trong trường THPT là môn học chính khóa, là
bộ môn khoa học tổng hợp có phạm vi vô cùng rộng lớn và khá phức tạp, nên không
thể đơn giản, sơ sài mà nó phải được coi là một hệ thống chương trình và phải được
quán triệt trong tất cả các môn học trong mọi hoạt động của học sinh, ở mọi lúc, mọi
nơi, có vậy mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng hiện tại và tương
lai.
2.2 THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
2.2.1 Thuận lợi :
- So với khu vực, trường Trung học phổ thông Mỹ Hào là một trường có bề dày
về kết quả đào tạo học sinh và là trường đạt chuẩn quốc gia, nên vấn đề chuyên môn
giảng dạy luôn được các cấp lãnh đạo quan tâm sâu sát. Trường có một đội ngũ sư
phạm đều đạt chuẩn và trên chuẩn về kiến thức, có chuyên môn vững, nhiệt tình, tận
tụy với công tác quản lý và giảng dạy.
- Hội đồng sư phạm nhà trường về tuổi đời công tác được dàn trải qua nhiều thế
hệ, và luôn có sự đoàn kết gắn bó mật thiết với nhau.
- Đối với môn Giáo dục quốc phòng – An ninh. Nhà trường cùng các cấp lãnh
đạo luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi. Đội ngũ giáo viên giáo dục quốc
phòng – an ninh đều được đào tạo vững về chuyên môn, nhiệt tình và tâm huyết với
môn học.
- Điều kiện sân bãi, phòng học, dụng cụ trang thiết bị cần thiết cho môn học Giáo
dục quốc phòng – an ninh tương đối đầy đủ.
- Nề nếp, kỷ cương của nhà trường đối với học sinh chặt chẽ qua từng cấp, từng

khâu nên đa phần các em chăm ngoan và có ý thức học tập tốt.
2.2.2 Khó khăn :
- Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng – An ninh hoàn toàn là giáo viên được
đào tạo từ chuyên ngành giáo dục thể chất. Đối với lĩnh vực Quốc phòng – An ninh,
tuy được đào qua lớp giáo viên giáo dục Quốc phòng và được tập huấn về chuyên
môn thường xuyên hàng năm, nhưng do đây là một lĩnh vực khá mới mẻ và thời gian
được lĩnh hội về chuyên môn có hạn nên ít nhiều đã gặp phải khó khăn trong giảng
dạy.
- Đối với học sinh : Do khách quan các em được sinh ra và lớn lên trong thời
bình và do yêu cầu về lượng kiến thức của các môn học, giờ học cộng thêm áp lực từ
phía không ít phụ huynh nên đã tác động ít nhiều đến suy nghĩ và việc xác định nhiệm
vụ học tập đối với bộ môn này. Và thật tai hại đối với một phận nhỏ học sinh còn ngộ
nhận và coi đây là môn học phụ dẫn đến ý thức học tập môn Giáo dục quốc phòng –
an ninh chưa cao.
- Tức thời tình trạng học sinh chưa trang bị đầy đủ sách giáo khoa về môn giáo
dục quốc phòng – an ninh cũng làm cho việc giảng dạy theo phương pháp mới còn bị
hạn chế nhất định.
- Dụng cụ, trang thiết bị cho môn học tương đối đầy đủ từ nguồn được Sở giáo
dục – đào tạo cấp và một số tự trang bị nhưng vẫn còn thiếu : Tranh ảnh giảng dạy còn
hạn chế ở một số nội dung. Đặc biệt là thiếu dụng cụ “kính ngắm”. Để đạt được kết
quả tốt qua nội dung ngắm bắn giáo viên đã gặp khó khăn thực sự, nếu chỉ trang bị
cho các em học sinh về lý thuyết bắn, tư thế bắn, các yếu lĩnh của động tác bắn luyện
tập rồi đưa vào máy bắn tập, thì hiệu quả thực sự chưa cao trong khi luyện tập, bắn
vào các mục tiêu mà không có kính ngắm để giáo viên theo dõi, hướng dẫn, sửa sai cụ
thể. Mà kính ngắm thì lại không tìm mua được ngoài thị trường.
2.3 CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
2.3.1. Một vài kinh nghiệm nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh:
2.3.1.1. Tuyển chọn VĐV thi đấu Hội thao GDQP-AN:
Biện pháp thực hiện:
Về thời gian hội thao thực hiện 2 năm/1lần, cấp trường tổ chức hằng năm theo

hướng dẫn năm học về GDQP-AN, sau khi đã có kết quả hội thao cấp trường thì Tổ
trưởng chuyên môn bắt đầu lập kế hoạch, phân công giáo viên chịu trách nhiệm từng
môn thi:
Môn điều lệnh quan trọng nhất là chọn cho được một học sinh làm chỉ huy phải
có dáng dấp quân đội, tiếng hô to, rỏ, mạnh dạn và dứt khoát, tốt nhất là chọn học sinh
có giọng người miền Bắc. Sau đó phân công trực tiếp cho em làm Tiểu đội trưởng của
một tiểu đội trong lớp, giáo viên nào hướng dẫn lớp đó sẽ bồi dưỡng trực tiếp cho em
đó. Song song thì các giáo viên còn lại cũng tự tìm kiếm một tiểu đội trưởng và huấn
luyện cho em đó, rồi cuối cùng chọn ra một tiểu đội trưởng tham gia Hội thao.
Các môn còn lại sẽ chọn theo thành tích đạt được trong hội thao, số lượng chọn
thì gấp đôi để sau khi tập luyện sẽ chọn VĐV chính thức được hoàn hảo hơn. Sau đó
sẽ biên chế về các lớp, rồi giáo viên được phân công sẽ có kế hoạch tập luyện ở những
giờ ngoại khóa (theo quy định kế hoạch tập luyện hội thao ).
2.3.1.2. Tuyển chọn học sinh bắn đạnt:
Biện pháp thực hiện:
Theo kế hoạch của tổ bộ môn thì trong quá trình giảng dạy bài kĩ thuật bắn súng
tiểu liên AK tại lớp các giáo viên phải chọn cho mình một số học sinh có kết quả học
tập tốt sau đó sàn lọc lại một lần nữa. Hiện nay tại các nhà trường đều có bộ phận Y tế
trường học cho nên việc khám sức khỏe cho các em cũng rất dễ dàng và đỡ phần tốn
kém. Việc khám sức khỏe tập trung chú ý vào huyết áp và tim mạch của các em.
Những học sinh nào có vấn đề về huyết áp và tim mạch thì dứt khoác bị loại. Sau đó
tiếp tục có kế hoạch tập luyện, nội dung tập luyện bao gồm: ngắm chụm, ngắm trúng
chụm, ngằm bia chỉ đỏ, bắn trên máy bắn tập MPT03.
Thông qua máy bắn tập MPT03 sẽ chọn ra được những học sinh có độ ngắm
chụm rất tốt. Sau quá trình tập luyện theo đúng chế độ và trước khi đi bắn một ngày
Tổ bộ môn sẽ phân công giáo viên triển khai toàn bộ sơ đồ bắn, giáo dục về tâm lý khi
bắn nhất là học sinh mới lần đầu bắn (yếu tố này rất quan trọng) rồi sau đó thực hành
bắn giống như khi bắn đạn thật nhưng trên máy bắn tập MPT03. Điều quan trọng nhất
là khi nghe tiếng súng lần đầu tiên phải giáo dục cho các em thật kỉ lưởng, phải bình
tỉnh, tự tin không cẩu thả, không giật mình. Nắm vững nguyên tắc khi sử dụng súng,

đạn:
- Nắm chắc tính năng của súng
- Quan sát phát hiện mục tiêu nhanh, ước lượng cự ly đúng, xác định điểm
ngắm chính xác, giữ súng đúng, bóp cò êm, đều. Lựa chọn thời cơ kết thúc
phát bắn phù hợp.
- Tích cực học tập, ôn luyện, rèn luyện sức khỏe, tâm lý để phục vụ tốt cho
bài bắn. Chấp hành nghiêm qui tăc bảo đảm an toàn trong quá trình luyện
tập và thực hành bắn.
Hiệu quả:
Xếp
loại
Năm học
GIỎI KHÁ ĐẠT KHÔNG ĐẠT
2011-2012 26% 20% 13% 41%
2012-2013 24% 22% 23% 31%
2013-2014 29% 13% 40% 18%
2.3.1.3. Dụng cụ sân bãi:
Biện pháp thực hiện:
Về sân bãi thì hằng năm nhà trường có kế hoạch tu bổ, đổ bồi thêm đất cát vào,
không để động vũn khi mưa to, đảm bảo sân bãi đúng qui cách. Trang bị thêm súng
tập, sách giáo khoa, tranh ảnh.
Cụ thể:
Đặt súng tập bằng gỗ, sơn đen theo kích cỡ của khẩu súng tiểu liên AK. Thay vì
mỗi lớp phải trang bị ống nhựa và dây đeo để làm súng tập cho từng thành viên trong
lớp, chi phí này cho mỗi học sinh hết khoảng 6.000đồng (sáu ngàn đồng) và cho cả
lớp mất khoảng 250.000đồng (Hai trăm năm mươi ngàn đồng chẵn). Với khoảng tiền
trên, mỗi lớp sẽ trang bị được 05 khẩu súng gỗ. Đối với từng trường Trung học phổ
thông Long Thành tổng số lớp của 2 khối 12 và 11 là 26 lớp. Như vậy số lượng súng
tập bằng gỗ là 130 khẩu đủ để đáp ứng cho 03 lớp học trùng giờ có sử dụng đến súng
tập.

2.3.1.4. Kết hợp Ban Giám Hiệu Nhà trường tổ chức học tập pháp luật, mít
tinh…:
Biện pháp thực hiện:
Để đổi mới hình thức, phương pháp GDQP-AN cho học sinh, nhân các ngày lễ
lớn của đất nước, địa phương, Tổ trưởng chuyên môn đề nghị Ban giám hiệu nhà
trường tổ chức Giáo dục pháp luật, cho học sinh tham gia mít tin, giao lưu văn hóa,
văn nghệ, thể dục, thể thao; thi tìm hiểu ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam;
ngày thành lập Công An nhân dân, ngày thành lập Tỉnh, thi về phòng chống ma túy,
HIV… Qua đó đã nâng cao nhận thức, hiểu biết về đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật Nhà nước, truyền thống của quê hương, đất nước, nâng cao nhận
thức về quốc phòng, an ninh cho học sinh.
2.3.1.5. Học theo phương pháp thảo luận nhóm: Học nhóm là một hình thức
học hợp tác nâng cao chất lượng của học sinh – các học sinh giao lưu với nhau và
có được những kết quả học tập tiến bộ về nhiều mặt.
Biện pháp thực hiện:
Theo cách này, học sinh được tạo cơ hội tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày
quan điểm, và thực hiện học hợp tác. Để có thể phát huy được những lợi ích của việc
học nhóm, giáo viên phải cung cấp nền tảng cho học sinh. Do đó, giáo viên phải khơi
gợi hứng thú học sinh bằng cách chọn những chủ đề thảo luận tương ứng với trình độ
của học sinh, hoặc đặt câu hỏi/ đưa ra vấn đề dẫn dắt học sinh đạt đến mức độ tư duy
sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, quá trình cộng tác cũng phải được sắp xếp để đảm bảo tất
cả các thành viên trong nhóm tham gia một cách tích cực.
Chia lớp thành 4 nhóm, 10-11 thành viên/nhóm theo những tiêu chí như sau:
Mỗi nhóm đều có những cán sự lớp "cứng”, là những thủ lĩnh nhóm đầu tiên. Chia các
nhóm đồng đều theo tỷ lệ học lực: có bạn khá, có bạn chưa khá. Chia nhóm đồng đều
theo tỷ lệ rèn luyện, tương tự học lực. Tỷ lệ nam nữ tương đương với tỷ lệ nam nữ của
lớp 50:50. Xây dựng quy định cho nhóm. Với cách chia nhóm như thế này, các nhóm
đồng đều nhau nên dễ dàng hơn trong quản lý, đặc biệt, có một số cán sự lớp ở mỗi
nhóm là hạt nhân để phát triển nhóm. Tuy vậy, theo đánh giá khách quan của các
Thầy, Cô giáo, kỹ năng làm việc nhóm của học sinh hầu như là không có. Tuy có

được thầy cô giáo phổ biến nhưng không rõ ràng và đầy đủ vì còn hạn chế nhiều về
thời gian và trình độ. Đây là một "khâu” quan trọng nếu muốn làm tốt sự thay đổi
trong dạy và học. Nó cung cấp những kiến thức cơ bản về kỹ năng làm việc, giao tiếp
trong nhóm, là những viên gạch nền tảng đầu tiên để xây dựng nên thành công của
thảo luận nhóm.
Thủ lĩnh nhóm sẽ phải biết năng lực, thế mạnh của các thành viên. Nhận một đề
tài, phân chia theo cách: - Ai viết đề cương? Làm bảng phân công công việc. Hầu hết
là nhóm trưởng - Ai tìm tài liệu?- Ai xử lý tài liệu?- Ai viết bài?- Ai phản biện lại
bài viết, tài liệu của nhóm?- Ai chuẩn bị câu hỏi, phản biện nhóm khác- Ai thư ký?
Chính sách thưởng phạt trong thảo luận. Thưởng cho những học sinh tham gia
sôi nổi, nhiệt tình bằng cách đặt câu hỏi hay. Thông thường, câu hỏi được đưa lên cho
nhóm trình bày và được chuyển cho giáo viên, giáo viên xem xét, chọn câu hỏi hay,
chuyển cho nhóm thảo luận trả lời. Người hỏi tranh luận trực tiếp với người trả lời.
Sau khi nghe câu trả lời, người đặt câu hỏi phải phản biện được, đúng ở đâu, sai ở đâu,
góp ý gì cho câu trả lời hoàn thiện. Như thế yêu cầu người hỏi phải nắm vững câu hỏi,
tham gia với tinh thần đóng góp, xây dựng tốt. Đây là một mô hình tốt, rất đáng học
tập, thu hút được học sinh.
2.3.1.6. Kinh nghiệm về việc đổi mới phương pháp giảng dạy truyền thống
chuyển sang dạy bằng giáo án điện tử là cả một quá trình đổi mới tư duy:
Biện pháp thực hiện:
- Cần phải thống nhất về nhận thức và tư duy của đội ngũ giáo viên. Đây là vấn
đề tưởng chừng đơn giản nhưng khi thực hiện thì có một số ý kiến cho rằng, soạn giáo
án điện tử chỉ là chuyển giáo trình văn bản được sao từ file word sang các slide rồi
đem chiếu lên cho học sinh xem. Đây là một quan niệm nhầm lẫn mà chúng ta cần
loại bỏ. Vì để soạn được một giáo án điện tử đem lại hiệu quả cao cho người học thì
người thầy phải bỏ ra rất nhiều công sức và tâm huyết. Tôi muốn nhấn mạnh là vất vả
hơn nhiều khi dạy bằng phương pháp truyền thống.
Việc chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thống sang giảng dạy bằng giáo
án điện tử tôi mới bắt đầu thực hiện và giáo viên gần như tự mày mò, tìm hiểu từ thiết
kế giáo án cho đến cách trình bày… chưa có một chuẩn thống nhất, vì vậy còn những

khiếm khuyết và dẫn đến có những ý kiến, thậm chí cả phản đối dạy bằng giáo án điện
tử. Tôi nghĩ rằng đổi mới ở lĩnh vực nào cũng vậy thôi, bước đầu sẽ có những khó
khăn, nhưng chúng ta mạnh dạn làm, điều chỉnh dần dần và với các ý kiến đóng góp
có tính xây dựng thì sẽ có kết quả tốt.
2.3.1.7. Kinh nghiệm về chuẩn bị và giảng dạy bằng giáo án điện tử:
Biện pháp thực hiện:
- Về thiết kế bài giảng:
Bài giảng điện tử cần được thiết kế sao cho có nội dung và hình thức trực quan,
sinh động và lôi cuốn; vì vậy, phải lồng ghép thêm các tư liệu hình ảnh, các đoạn
phim ngắn hay âm thanh có liên quan đến nội dung bài giảng; yếu tố thẩm mỹ cũng
cần được coi trọng trong việc thiết kế bài giảng điện tử sao cho có màu sắc, hình thức
đẹp nhưng không rối mắt do tạo quá nhiều hiệu ứng (chuyển trang, chạy chữ…) làm
cho học sinh mất tập trung vào nội dung chính của bài giảng và mất thời gian vô ích.
Các công đoạn thường theo một qui trình sau:
Sau khi soạn nội dung (phần chữ cho các slide) cho bài giảng, chỉnh sửa và thu
gọn cho phù hợp với nội dung các tiết học trong giáo án điện tử. Theo kinh nghiệm
của tôi sẽ đưa lên slide những thông tin lẽ ra viết lên bảng (khi dạy bằng phương pháp
truyền thống), chủ yếu là các đề mục và một số nội dung tóm tắc hay các trích dẫn…
tuyệt đối không bê nguyên bài soạn vào slide. Và vì vậy, cũng xin nói thêm là sử dụng
giáo án điện tử nhưng vẫn phải có bài soạn…
Công việc đầu tiên khi thiết kế slide cho bài giảng điện tử là phải chọn màu
nền, phông chữ, kiểu chữ và cỡ chữ cho bài giảng. Đây là khâu khá quan trọng, làm
tốt khâu này sẽ giúp học sinh dù ngồi cuối lớp vẫn theo dõi được slide đồng thời chữ
không quá lớn, chiếm quá nhiều “đất” của mỗi slide; màu nền, màu chữ cũng cần hài
hòa sao cho đảm bảo độ tương phản nhưng không quá lòe loẹt hay ảm đạm gây phản
cảm. Do chưa có một chuẩn chung, do đó tôi phải thiết kế thử và giảng thử nhiều lần
trên lớp, lấy ý kiến giáo viên trong tổ và của học sinh để chọn được một phương án
phù hợp nhất. Nên cố gắng mô hình hóa nội dung bài giảng thành các sơ đồ, mô hình,
đồ thị để chuyển các slide. Công việc này chiếm mất nhiều thời gian, công sức của
giáo viên, nhưng bù lại việc truyền tải bài giảng đến học sinh sẽ rất trực quan, sinh

động, giúp học sinh hưng phấn hơn khi tiếp thu bài giảng và do đó hiệu quả tiếp thu
bài giảng sẽ cao hơn.
Việc thiết kế kết cấu bài giảng cũng như sự tiện lợi khi giảng cũng cần được
chú trọng. Tôi chọn giải pháp để tất cả các chương trình cùng một tệp Powerpoint và
sử dụng tính năng Huperlink của Powerpoint để liên kết giữa các chương trong bài
giảng và giửa các nội dung bài giảng với các tư liệu được sử dụng. Ví dụ: khi giáo
viên đang giảng ở trang danh mục các chương, có thể chuyển ngay đến chương bất kỳ
của bài giảng bằng cách nhắp chuột lên đầu mục chương đó trong danh sách. Hay có
thể sử dụng các nút chức năng để chuyển đến phần tư liệu và quay về vị trí bài giảng
ban đầu… Tóm lại, giáo viên có thể chuyển đến một vị trí tùy ý trong bài giảng chỉ
bằng một vài lần nhắp chuột mà không phải lần tìm mất thời gian.
Các tư liệu sưu tầm được phải chọn lọc, phân loại, cắt ghép sao cho phù hợp với
mỗi tiết, mỗi chương trình bài giảng. Thời lượng của tư liệu, nhất là phim tư liệu nên
vừa đủ minh họa cho phần bài giảng tránh kéo dài không cần thiết làm loãng thông tin
và ảnh hưởng đến thời gian của tiết học. Các phim tư liệu có thời lượng dài, bổ ích
cho môn học được thu xếp cho học sinh xem vào một vài tiết học riêng. Yêu cầu học
sinh thu hoạch, liên hệ với bài giảng.
- Giáo viên trên lớp với giáo án điện tử:
Với việc dạy học bằng giáo án điện tử giáo viên sẽ hạn chế tối đa việc viết
bảng, thời gian, sức lực giáo viên tập trung cho bài giảng có sức lôi cuốn học sinh
hơn.Tuy nhiên, giáo án điên tử chỉ là sự trợ giúp, còn chất lượng bài giảng tốt hay
không phụ thuộc vào các yếu tố: Sự truyền đạt tri thức, trình độ của giáo viên và thái
độ của người học.
Trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn GDQP-AN
sẽ có rất nhiều phát kiến mới, giáo án điện tử bước đầu mang đến cho giáo viên và
người học những kết quả thiết thực.
2.3.1.8. Vai trò của đội ngũ cán sự môn học:
Biện pháp thực hiện:
Chúng ta biết rằng không thể có ngay số em học sinh có năng lực làm cán sự
lớp. Muốn giúp những học sinh này trở nên những cán sự lớp biết cách điều hành tổ

chức đòi hỏi người GV phải có một số kỹ năng cần thiêt:
- Lựa chọn: có thể qua sự tín nhiệm của tập thể lớp nhưng cũng cần có sự quan
sát từng em học sinh. Có em có năng lực học tập tốt nhưng lại không có khả năng điều
hành lớp. Cũng có thể chọn những học sinh có sức học khá, ngoan về hạnh kiểm biết
diễn đạt mạch lạc một vấn đề hơn những học sinh khác trong cùng lớp.
- Thiết kế công việc: người GV phải biết những công việc cần thiết trong kế
hoạch năm học, trong tháng và trong tuần để thiết kế cho tập thể lớp tham gia mà
trong đó đội ngũ Cán sự lớp theo dõi, điều hành dưới sự giám sát chặt chẽ của GV
- Bồi dưỡng: thường xuyên trao đổi và hướng dẫn cho các em theo từng nhiệm
vụ mà chúng ta đã phân công, không nên giao khoán cho các em mà có sự trợ giúp;
cũng không tham gia quá sâu để các em độc lập hoạt động và GV sẽ tư vấn cho các
em, giúp các em giải quyết các tình huống khó khăn.
- Kiểm tra, đánh giá: GV phải thật sự nhiệt tình và tâm huyết trong công tác,
thường xuyên theo dõi, động viên đội ngũ Cán sự lớp. Tuyên dương các em làm tốt,
uốn nắn những lệch lạc của các em nhưng không làm cho các em mất uy tín trong tập
thể lớp.
Xây dựng đôi ngũ Cán sự lớp là việc làm không dễ nhưng chúng ta phải làm vì
GV ở các trường Trung học phổ thông không có thời gian để xử lí tất cả mọi việc ở
lớp hơn nữa sẽ không có thông tin và cũng không giải quyết kịp thời được nếu đội ngũ
Cán sự lớp không được rèn luyện một cách chu đáo và có kế hoạch cụ thể.
- Việc sử dụng đội ngũ cán sự môn học là biện pháp đổi mới phương pháp
giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học, ý
thức kỷ luật, từ đó hình thành phẩm chất đạo đức tốt, tạo tiền đề cho các em phát triển
trí tuệ và thể chất một cách toàn diện.
Tóm lại để dạy tốt theo phương pháp mới giáo viên Giáo Dục Quốc Phòng –
An Ninh chúng ta cần phải chú trọng đào tạo bồi dưỡng nâng cao đội ngũ cán sự môn
học một cách chu đáo, phát huy khả năng tự học cho học sinh, bằng cách phải đưa ra
tiêu chí phấn đấu có tính cạnh tranh, thi đua từng nhóm vào trong nội dung chương
trình học tập. Như vậy thì thời lượng của nội dung bài dạy chỉ chiếm khoảng 1/3 thời
lượng toàn bộ nội dung buổi học. Mặt khác giáo viên có đủ thời gian để hướng dẫn

sửa chữa động tác sai cho các học sinh yếu, kém. Tuy nhiên việc chọn lựa cán sự phải
tìm hiểu kỷ tham khảo ý kiến tập thể có tính nhiệm không, khả năng nắm bắt động tác,
vai trò quản lý
2.3.2. Một vài giải pháp nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh:
2.3.2.1.Giải pháp 1:
Làm chuyển biến nhận thức của đội ngũ giáo viên. Bởi lẽ, họ là người trực tiếp
giáo dục, quán triệt và giao nhiệm vụ cho học sinh. Chính sự chuyển biến trong nhận
thức về công tác GDQP-AN của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức của học
sinh.
Nội dung giáo dục quán triệt tập trung vào đường lối, quan điểm của Đảng; các văn
bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về công tác GDQP-AN trong giai đoạn mới
hiện nay, như: Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới,
Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về GDQP-AN, các văn
bản quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về GDQP-AN… và những yêu
cầu mà học sinh cần đạt được khi học tập tại nhà trường.
2.3.2.2. Giải pháp 2:
Thường xuyên làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất
lượng cho đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy, đây là yếu tố cơ bản để nâng cao chất
lượng môn học GDQP-AN.
2.3.2.3. Giải pháp 3:
Thường xuyên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy cho phù hợp với từng
đối tượng, tăng cường giáo dục truyền thống, lịch sử cho học sinh thông qua bảo tàng
cách mạng của trung ương, địa phương; thường xuyên cập nhật thông tin để truyền đạt
cho học sinh những tiêu chí mới về bảo vệ Tổ quốc.
2.3.2.4. Giải pháp 4:
Thường xuyên phối hợp giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với Bộ CHQS, Hội đồng
GDQP-AN tỉnh, giữa các nhà trường với cơ quan quân sự địa phương để tạo sự thống
nhất, đồng bộ trong công tác chỉ đạo và bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất, sách giáo
khoa, tranh ảnh, mô hình học cụ phục vụ cho môn học; thường xuyên làm tốt công tác

thanh tra, kiểm tra đánh giá kết quả môn học, hàng năm tổ chức hội thi, hội thao, thực
hiện tốt công tác sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương, khen thưởng
những tập thể, cá nhân có thành tích trong giảng dạy, học tập môn học GDQP-AN.
2.3.2.5. Giải pháp 5:
Thường xuyên quan tâm đầu tư ngân sách, đổi mới chế độ chính sách cho giáo
viên trực tiếp giảng dạy môn học GDQP-AN theo chế độ hiện hành, nhằm động viên
kịp thời, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho giáo viên trong thực hiện nhiệm vụ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
Qua thực tế những năm giảng dạy môn giáo dục quốc phòng – an ninh. Với sự cố
gắng nghiên cứu, trao dồi, học hỏi kinh nghiệm qua đồng nghiệp bản thân tôi đã đúc
kết được một số biện pháp cụ thể như trên và đã đưa vào áp dụng giảng dạy cho các
học sinh ba khối lớp 10, 11, 12 của trường Trung học phổ thông Mỹ Hào.
So sánh với thực tế và sau khi tiến hành áp dụng một số kinh nghiệm và các giải
pháp của sáng kiến kinh nghiệm đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau :
- Tiết học môn giáo dục quốc phòng – an ninh sinh động hơn.
- Học sinh phát huy được tính tự giác và tích cực hơn.
- Ý thức học tập, kỷ luật của học sinh được thể hiện ở mức độ cao hơn.
- Học sinh lĩnh hội được kiến thức nhanh và sâu rộng hơn.
* Kết quả đánh giá xếp loại cuối năm của môn giáo dục quốc phòng – an ninh
của từng năm học được nâng dần lên:
Xếp
loại
Năm học
GIỎI KHÁ ĐẠT KHÔNG ĐẠT
2011-2012 36% 48% 14% 2%
2012-2013 44% 47% 8% 1%
2013-2014 43% 46% 11% 0%
Thành tích qua các lần hội thao giáo dục quốc phòng cũng được nâng lên:
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Như chúng ta đã biết: Đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp cho học sinh tự

tìm tòi sáng tạo và chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả.
Ngoài những nội dung kiến thức nêu trên sẽ minh họa thêm cho học sinh thấy
rõ được ý nghĩa, mục đích một cách sâu sắc của một bài học GDQP-AN.
Qua quá trình giảng dạy, tôi vận dụng khai thác triệt để những kinh nghiệm vốn
có, kết quả cho thấy chất lượng bộ môn được nâng cao. Bên cạnh đó học sinh thấy yêu
thích học môn GDQP-AN và giờ dạy GDQP-AN thêm sinh động và hấp dẫn.
Trong quá trình giảng dạy tôi đúc rút ra kinh nghiệm thực tiễn như đã trình bày
ở trên, với đề tài này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong sự đóng
góp ý kiến của lãnh đạo, của quý thầy cô giáo, các đồng nghiệp cũng như sự chỉ đạo
về chuyên môn của trường để bản thân được học hỏi thêm, mỗi ngày phát huy tốt hơn
giờ dạy GDQP-AN ở trường Trung Học Phổ Thông.
* Bài học kinh nghiệm:
Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp giáo dục trong dạy
học là rất cần thiết, đặc biệt đối với môn GDQP-AN. Việc đổi mới phương pháp giáo
dục nếu tận dụng tốt trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao. Điều đó cho thấy đổi mới
phương pháp dạy học là một định hướng đúng đắn .
Việc đổi mới phương pháp giáo dục mà tôi đang trình bày giúp giáo viên gây
được hứng thú, suy ngẫm trong học sinh, hướng các em đến với nội dung của bài học.
Học sinh yêu thích bộ môn, hứng thú và tích cực học tập hơn, như vậy sẽ cho kết quả
cao hơn.
Biện pháp tuy có thể nói không mới gì lắm, nhưng với sự chủ động hướng dẫn
của giáo viên và sự tích cực của học sinh đã đem đến một kết quả khả quan hơn trong
quá trình học.
Dạy học nói chung và dạy học GDQP-AN nói riêng yêu cầu người giáo viên phải biết
linh hoạt sử dụng các phương pháp trong tiết dạy thì mới giúp cho học sinh khắc sâu
kiến thức một cách chủ động. Do đó yêu cầu người giáo viên phải có nghệ thuật sư
phạm và nắm được những nội dung cơ bản. Ngoài ra, để tạo hứng thú và lôi cuốn học
sinh đến với bộ môn GDQP-AN giáo viên cần phải có nhiệt huyết trong quá trình
giảng dạy, sưu tầm bổ sung tư liệu phục vụ cho việc dạy, tiếp tục học hỏi kinh nghiệm
và tìm cách truyền đạt để có được sự vững chắc trong kiến thức, sự lôi cuốn trong

phong cách nhằm lôi cuốn học sinh. Ngoài ra, hình thành cho học sinh tính độc lập,
sáng tạo và năng động để tiếp thu và lĩnh hội kiến thức trong quá trình học.
* Kiến nghị:
- Đối với tổ:
Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề GDQP-AN để học
sinh và giáo viên có thể thông qua đó thảo luận góp ý để có phương pháp dạy tốt hơn
bộ môn GDQP-AN. Đồng thời mỗi một thành viên trong tổ có thể có những sáng kiến
hoặc sáng tạo trong việc tự làm các đồ dùng trực quan dạy học phù hợp với đối tượng
học sinh của mình
- Đối với trường:
Cần tạo điều kiện về phòng ốc, đèn chiếu để phục vụ giảng dạy. Tăng cường
hơn nữa trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các tiết dạy GDQP-AN.
Cần mua các tư liệu GDQP-AN có liên quan trong chương trình học để giáo
viên và học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính hiệu quả của
bộ môn.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá giờ dạy GDQP-AN.
- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
Cần cung cấp thêm nữa các đồ dùng trực quan : như mô hình học cụ, tranh
ảnh các băng đĩa, phim tài liệu nhằm phục vụ nhu cầu dạy - học của giáo viên,
học sinh ở trường trung học phổ thông.
Tổ chức các đợt sinh hoạt cụm, sinh hoạt chuyên môn nhằm tìm các giải pháp
để nâng cao hiệu quả chất lượng bộ môn.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá giờ dạy GDQP-AN.
Mỹ Hào, tháng 4 năm 2014
Người thực hiện

Ngô Văn Nam
Phụ Lục
Nội dung Trang
Phần mở đầu

1/Những từ viết tắt 2
2/Đặt vấn đề 3
3/ Phương pháp nghiên cứu 5
4/ Tổ chức nghiên cứu 5
PHẦN NỘI DUNG
I/ Cơ sở lý luận 6
II/Thực trạng vấn đề 8
III/Các biện pháp tiến hành 10
Hiệu quả sáng kiến 19
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 20
Kiến nghị tổ 22
Kiến nghị trường 22
Kiến nghị Sở 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 12 (Sách giáo khoa)
2. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 11 (Sách giáo khoa)
3. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 10 (Sách giáo khoa)
4. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 12 (Sách giáo viên)
5. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 11 (Sách giáo viên)
6. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 10 (Sách giáo viên)
7. Cổng thông tin Giáo Dục Quốc Phòng (www.giaoducquocphong.org)
8. Thông tin trên mạng Internet.
9. Tài liệu Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh của cơ quan thường trực hội
đồng GDQP-AN trung ương.
10. Thông tin tư liệu.
11. Tạp chí Dân Quân Tự Vệ Giáo Dục Quốc Phòng.
12. Tạp chí Quốc Phòng Toàn Dân.
13. Tạp chí Nhà Trường Quân Đội
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG THPT MỸ HÀO
TỔNG ĐIỂM…………. XẾP LOẠI………………

T/M HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
CHỦ TỊCH – HIỆU TRƯỞNG

×