Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn chỉ đạo tổ chức thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh các môn khoa học xã hội nhân văn ở trường trung học phổ thông.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.4 KB, 27 trang )

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC THỰC HIỆN
ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Kiểm tra đánh giá (KTĐG) học tập của học sinh là một khâu rất
quan trọng trong quá trình dạy học, nhằm xác định kết quả học tập của
học sinh và giảng dạy của giáo viên. từ đó định hướng và thúc đẩy giáo
viên đổi mới phương pháp dạy học, thúc đẩy học sinh đổi mới phương
pháp học tập. Thông qua KTĐG để tạo điều kiện cho giáo viên nắm
được tình hình học tập, trình độ học lực của học sinh trong lớp, từ đó
có biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém và bồi dưỡng học sinh giỏi.
Trước nhu cầu bức thiết phải đổi mới phương pháp dạy học hiện
nay, Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT Thanh Hóa đã tổ chức các cuộc Hội
thảo về "Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập các môn khoa học
xã hội nhân văn ở các trường phổ thông" để chuyển biến mạnh theo
hướng: phát triển tính tích cực, trí thông minh sáng tạo của học sinh,
khuyến khích học sinh vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào
những tình huống thực tế. Nói chung là việc KTĐG phải thoát khỏi
phương pháp dạy và học thụ động để từng bước chuyển sang dạy và
học tích cực, chủ động, sáng tạo.
Thực tế, lâu nay đối với các môn khoa học xã hội nhân văn
1
(KHXHNV) ở các trường THPT có hiện tượng thiên về KTĐG mức
độ học thuộc lòng, kiểm tra trí nhớ một cách đơn thuần. Người ra đề
thường dùng lại ở mức độ KTĐG kiến thức lý thuyết, khả năng ghi
nhớ, ít đặt ra yêu cầu KTĐG mức độ thông hiểu và kỹ năng vận dụng
tri thức. Đề kiểm tra thường đòi hỏi học sinh phải nhớ nhiều sự kiện,
con số, nhưng không hiểu được mục đích ghi nhớ ngoài mục đích ứng


phó với kiểm tra, thi cử. Cách KTĐG đó gây nên tình trạng học tủ,
học vẹt, ghi nhớ máy móc nhưng không nắm vững bản chất, thiếu kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Tình trạng đó là hệ quả của lối
dạy học cũ truyền thụ một chiều từ giáo viên đến học sinh và kèm theo
đó khi kiểm tra học sinh thường thiên về yêu cầu tái hiện kiến thức,
xem nhẹ kiểm tra mức độ thông hiểu và kỹ năng vận dụng kiến thức,
ít đòi hỏi học sinh phân tích, suy luận, khái quát.
Kiểm tra đánh giá mới chỉ tập trung vào việc giáo viên đánh giá
học sinh, ít tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá mình và đánh giá
lẫn nhau. Việc đánh giá còn mang nặng tính chủ quan do chưa xác
định rõ mục tiêu KTĐG nên kết quả đánh giá của mỗi giáo viên,
thường khác biệt nhau. Một bộ phận giáo viên còn chưa thấy hết vai
trò của KTĐG, do vậy trong kiểm tra bài cũ, 15 phút, 45 phút, việc ra
đề kiểm tra nhiều khi còn qua loa, nhiều giáo viên ra đề kiểm tra với
mục đích làm sao để chấm dễ, chấm nhanh nên kết quả đánh giá chưa
khách quan. Phần lớn giáo viên chưa quan tâm đến quy trình soạn đề
kiểm tra nên các bài kiểm tra còn mang tính chủ quan của người dạy.
Những năm gần đây, xu thế áp dụng hình thức kiểm tra trắc
nghiệm phát triển khá mạnh trong các trường học, môn học. Hình thức
2
kiểm tra này được giáo viên và học sinh hưởng ứng và áp dụng khá tích
cực. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập, chưa
cân đối giữa hình thức tự luận với trắc nghiệm, có biểu hiện đơn điệu
thiên về câu hỏi đúng - sai, hoặc lạm dụng hình thức trắc nghiệm làm
giảm hiệu quả KTĐG.
Với những lý do trên đây, là một cán bộ quản lý có tham gia
giảng dạy môn Lịch Sử, tôi có nhiều suy nghĩ, trăn trở nên quyết định
chọn đề tài "Kinh nghiệm chỉ đạo và tổ chức thực hiện đổi mói kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với các môn khoa học
xã hội nhân văn ở trường THPT", nhằm góp phần nâng cao chất

lượng dạy và học ở các trường phổ thông hiện nay.
2. Mục đích của đề tài SKKN
Trên cơ sở nhìn thẳng vào thực trạng của tình hình dạy học, thi
cử, kiểm tra đánh giá học sinh hiện nay còn nhiều bất cập. Xác định rõ
nguyên nhân, từ đó đưa ra những biện pháp cụ thể nhằm đổi mới cách
kiển tra đánh giá kết quả học tập của học sinh để thúc đẩy đổi mới
phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy-học đối
với các môn KHXHNV ở trường THPT.
Qua đề tài SKKN này, là một cán bộ quản lý trường học tôi cũng
muốn đóng góp những kinh nghiệm của mình trong việc chỉ đạo điều
hành các hoạt động chuyên môn, trong đó có việc KTĐG kết quả học
tập của học sinh. Nếu đề tài được ứng dụng rộng rãi trong đồng
nghiệp, là tôi đã góp một phần vào việc đổi mới KTĐG, thúc đẩy đổi
mới PPDH mà toàn ngành giáo dục hiện nay đang quan tâm thực hiện.
II. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
1. Cơ sở lý luận của để tài SKKN
Để chỉ đạo về đổi mới KTĐG tạo điều kiện thúc đẩy đổi mới
PPDH ở các môn KHXH-NV, từ năm học 2009-2010 Vụ GDTrH
thuộc Bộ GD&ĐT đã định hướng như sau:
" KTĐG phải bảo đảm khách quan, chính xác, công bằng và
hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá kết quả học tập, phân biệt được
đúng sai, tìm ra nguyên nhân để tự khắc phục, rèn luyện kỹ năng tư
duy độc lập, khả năng tự học;
Khi thực hiện KTĐG, phải đảm bảo sự cân đối giữa kiểm tra
kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ đối với học sinh. Kết hợp hợp
lý hình thức tự luận với trắc nghiệm; vận dụng các kiểu câu hỏi trắc
nghiệm phù hợp (đúng - sai, điền khuyết, trả lời ngắn, ghép đôi, nhiều
lựa chọn, ) với nhiều phiên bản.
Thực hiện đúng quy định của Quy chế đánh giá, xếp loại học

sinh, tiến hành đủ số lần kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì,
kiểm tra học kì cả lí thuyết và thực hành, vận dụng linh hoạt các hình
thức đánh giá qua các bước lên lớp;
Kết hợp giữa đánh giá trong với đánh giá ngoài (lấy ý kiến của
đồng nghiệp, kiểm tra từ bên ngoài để khách quan hoá việc đánh
giá ).
Quán triệt đặc trưng của các nhóm môn học để tăng hiệu quả các
môn KHXH-NV, tránh học theo kiểu thuần túy lý thuyết, coi nhẹ việc
rèn luyện thói quen và kỹ năng vận dụng tri thức vào thực tiễn. Định
hướng đổi mới chung là: Khắc phục tình trạng thiên về kiểm tra ghi
nhớ kiến thức, tăng cường kiểm tra mức độ thông hiểu và kỹ năng vận
4
dụng tổng hợp tri thức để giải quyết một vấn đề; tăng cường ra đề
"mở" nhằm đòi hỏi vận dụng tổng hợp kiến thức, kỹ năng với yêu cầu
biểu đạt chính kiến khi trình bày".
Bước vào năm học 2012-2013, tại Công văn hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ năm học 2012-2013 Sở GD&ĐT Thanh Hóa cũng đã chỉ rõ:
"Tập trung chỉ đạo, tạo được sự chuyển biến cơ bản về đổi mới kiểm
tra đánh giá, đổi mới phương pháp dạy học, dạy học phân hoá trên cơ
sở chuẩn kiến thức, kỹ năng của Chương trình giáo dục phổ thông.
Chỉ đạo mô hình trường trung học đổi mới đồng bộ phương pháp dạy
học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục".
Những định hướng trên đây của Vụ GDTrH thuộc Bộ GD&ĐT và
Sở GD&ĐT Thanh Hóa là đúng đắn, phù hợp với tình hình, thực trạng
hiện nay.
2. Cơ sở thực tiễn: Thực trạng việc kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh hiện nay.
Thực trạng về KTĐG tại trường THPT Thiệu Hóa trong những năm
trước khi chưa thực hiện đề tài SKKN.
Ưu điểm: Đa số cán bộ giáo viên đã có những nhận thức đúng

đắn về việc đổi mới kiểm tra đánh giá và đổi mới phương pháp dạy
học là rất cần thiết trong tình hình hiện nay. Ban giám hiệu đã chỉ đạo
triển khai và thực hiện việc đổi mới kiểm tra đánh giá và đổi mới
phương pháp dạy học đến đội ngũ giáo viên trong trường. Việc thực
hiện cuộc vận động “Hai không”, và “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” được cán bộ giáo viên, học sinh nhà trường hưởng
ứng và có chuyển biến tích cực trong kiểm tra, thi cử.
5
Hạn chế: Công tác quản lý chỉ đạo của Ban giám hiệu có lúc
chưa thật chặt chẽ. Nhiều giáo viên vẫn làm theo phương pháp truyền
thống lâu nay. Việc kiểm tra, cho điểm, đánh giá học tập của học sinh
đều do giáo viên bộ môn tự ra đề kiểm tra, tự cho điểm và lấy kết quả.
Có giáo viên kiểm tra tuỳ hứng không theo quy định của phân phối
chương trình. Tổ chuyên môn chưa thành lập được ngân hàng đề thi,
đề kiểm tra. Chưa vận dụng tốt công nghệ thông tin vào việc KTĐG
kết quả học tập của học sinh.
Phương pháp dạy học của giáo viên chưa phát huy được vai trò
chủ động, tích cực của học sinh. Thầy là nguồn kiến thức duy nhất, vì
vậy, việc kiểm tra đánh giá vẫn chủ yếu theo phương pháp cũ. Khi
kiểm tra đánh giá, giáo viên mới chỉ chú ý đến mặt nắm kiến thức, coi
nhẹ việc hiểu nội dung. Phương pháp kiểm tra ôm đồm, ít phát huy tư
duy sáng tạo của học sinh. Cách đánh giá kết quả học tập của học sinh
thiếu cơ sở thực tế và khoa học. Kiểm tra đánh giá như vậy dẫn đến
tình trạng học sinh học đối phó, học vẹt. Mặt khác, hiện nay một số
giáo viên trong trường vẫn còn chạy theo thành tích, vì thế, việc kiểm
tra đánh giá chưa phản ánh đúng chất lượng dạy-học. Những năm gần
đây, xu thế áp dụng hình thức kiểm tra trắc nghiệm phát triển khá mạnh
trong các trường học. Hình thức kiểm tra này được giáo viên và học
sinh trong trường hưởng ứng và áp dụng khá tích cực. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập, chưa cân đối giữa hình

thức tự luận với trắc nghiệm theo đặc thù bộ môn,
Qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy một thực trạng cần được khắc
phục ở khâu này đó là: Rất ít tổ chuyên môn đưa ra kế hoạch kiểm tra
đánh giá từ đầu năm học, chỉ kiểm tra cho đủ con điểm quy định. Giáo
6
viên dạy ở lớp nào tự ra đề kiểm tra ở lớp đó, dẫn đến mỗi lớp ra đề
khác nhau, có sự chênh lệch nhau về mức độ khó dễ và giáo viên
chấm điểm cũng không đồng nhất….Điều này vô tình đã tạo ra sự
không công bằng trong đánh giá chất lượng học sinh và ảnh hưởng
đến quá trình đổi mới dạy học mà chúng ta đang hướng đến.
Về học sinh hiện nay có xu hướng chung là không thích học các
môn khoa học XHNV nhất là Lich Sử, Địa Lý, GDCD …Cả trường
hơn 1500 học sinh nhưng không có em nào đăng ký học ban KHXH-
NV.
Thực trạng lâu nay về cách nhận xét đánh giá trong học bạ của
học sinh bậc THPT: Học bạ là nơi để lưu lại kết quả học tập, rèn
luyện, tu dưỡng của học sinh trong 3 năm học, và cũng là nơi giáo
viên bộ môn, giáo viện chủ nhiệm nhận xét đánh giá về kết quả của
học sinh. Nhưng những nội dung do Bộ GD&ĐT quy định trong đó đã
mấy chục năm nay cơ bản là không có thay đổi, các mục quy định
chưa phản ánh được toàn diện về học sinh. Trong khi đó giáo viên bộ
môn không có chỗ để nhận xét đánh giá học sinh về năng lực bộ môn,
giáo viên chủ nhiệm thì nhận xét đánh giá chung chung, qua loa đại
khái như: Học lực - trung bình; hạnh kiểm - tốt
Thực trạng này đặt ra một vấn đề cấp thiết là phải tập trung vào
việc đổi mới KTĐG để thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, tạo ra
sự công bằng minh bạch, toàn diện trong KTĐG, nhằm tạo hứng thú
niềm tin cho học sinh trong việc học tập các môn KHXHN và cuối
cùng là nâng cao chất lượng dạy học các môn này.
3. Các giải pháp đã thực hiện đề tài SKKN

7
Để thực hiện đề tài SKKN trên tôi đã thực hiện và đổi mới chỉ
đạo KTĐG bằng các biện pháp như sau:
3.1 Đổi mới công tác chỉ đạo kiểm tra đánh giá học sinh: Trước
hết tôi cùng BGH đã nhận thức sâu sắc các văn bản hướng dẫn của Bộ
và Sở GD&ĐT về đổi mới KTĐG để thúc đẩy đổi mới PPDH. Đã chỉ
đạo các tổ chuyên môn tang cường ứng dụng công nghệ thông tin vào
đổi mới PPDH và KTĐG. Lồng ghép với kế hoạch tổ chức thực hiện
cuộc vận động "Hai không" và phong trào thi đua "Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực" ở đơn vị.
Từ năm học 2009-2010, tôi đã chỉ đạo tổ chức hội thảo "Đổi mới
kiểm tra đánh giá học sinh, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học"
theo nội dung: Thực hiện kiểm tra, đánh giá học sinh đảm bảo tính
chính xác, công bằng và khách quan. Việc kiểm tra, đánh giá phải bám
sát mục tiêu chung của giáo dục, mục tiêu của môn học được thể hiện
cụ thể bằng chuẩn kiến thức và kĩ năng của các đơn vị kiến thức. (Tài
liệu chuẩn kiến thức của các môn đã được pôtô, phát cho từng giáo
viên). Thực hiện nghiêm túc các chuyên đề đổi mới kiểm tra, đánh giá
theo hướng dẫn của Bộ, của Sở GD&ĐT Thanh Hóa.
Tôi cùng Ban giám hiệu đã chỉ đạo: tất cả các đề thi, đề kiểm tra
và đáp án từ 1 tiết trở lên đều được các giáo viên trong tổ nhóm
chuyên môn tham gia xây dựng, thảo luận và thẩm định kỷ càng. Tổ
trưởng lưu giữ đề và đáp án kiểm tra 1 tiết. Đề kiểm tra học kỳ (Kể cả
các môn không thi chung) được lưu tại ngân hàng đề của trường do
Phó Hiệu trưởng phụ trách. Các tổ, nhóm chuyên môn lập đề cương
ôn thi học kỳ, thi thử tốt nghiệp và hướng dẫn học sinh ôn tập trước kỳ
8
thi 2 tuần.
Sau mỗi kỳ thi do nhà trường tổ chức, các tổ nhóm chuyên môn
họp để nhận xét đánh giá về đề thi, đáp án biểu điểm, rút kinh nghiệm

trong công tác ra đề, chấm thi, phân tích xử lý kết quả để tìm nguyên
nhân và giải pháp nâng cao chất lượng học tập ở giai đoạn tiếp theo.
Một trong những khâu rất quan trọng của người cán bộ quản lý là
kiểm tra, nhắc nhở, đôn đốc thường xuyên đến các tổ chuyên môn và
đội ngũ giáo viên. Tôi cùng BGH thường xuyên kiểm tra việc thực
hiện quy chế chuyên môn và việc kiểm tra đánh giá học sinh của giáo
viên bằng nhiều hình thức như: Kiểm tra đột xuất và định kỳ việc ghi
điểm kiểm tra miệng trong sổ đầu bài, cập nhật điểm hàng tháng vào
sổ điểm lớn, kiểm tra túi đựng bài kiểm tra của học sinh để đánh giá
việc thực hiện quy chế chuyên môn của các tổ và từng giáo viên. Nếu
giáo viên nào làm chưa tốt, không đúng quy chế sẽ bị nhắc nhở, phê
bình ngay. Với cách làm này nề nếp chuyên môn của giáo viên từng
bước chuyển biến tích cực.
3.2 Đổi mới việc ra đề thi, đề kiểm tra thường xuyên và định kỳ
Xây dựng Ngân hàng đề thi, đề kiểm tra: Thay mặt Ban Giám
hiệu tôi đã chỉ đạo các tổ chuyên môn xây dựng ngân hàng đề thi, đề
kiểm tra và đáp án chấm điểm cho từng môn, từng khối lớp. Tất cả
giáo viên dạy bộ môn đều tham gia ra đề theo những yêu cầu chung
của chuẩn kiến thức của từng bài, từng môn học. Tổ chuyên môn tổ
chức thẩm định, đánh giá đề công khai, chọn lọc, chỉnh sữa các câu
hỏi để đưa vào Ngân hàng đè thi. Giao cho tổ trưởng chuyên môn chịu
trách nhiệm về chất lượng của các đề thi, đề kiểm tra.
Kinh nghiệm xây dựng đề thi tập trung, đề kiểm tra 1 tiết trở lên:
9
Xây dựng ma trận khi ra một đề thi, đề kiểm tra. Vì thông qua
việc thiết lập ma trận, giáo viên sẽ có cái nhìn tổng thể về những nội
dung kiến thức cần kiểm tra, về các mức độ cần đạt được đồng thời
chủ động kết hợp các hình thức kiểm tra (tự luận, trắc nghiệm). Trong
thực tế, nhiều giáo viên chưa quen, thậm chí chưa biết cách thiết lập
ma trận nên thường bỏ qua khâu này dẫn đến việc thiết kế một đề

kiểm tra chưa thật khoa học.
Khi ra đề phải đảm bảo độ tin cậy, tính toàn diện trong đề. Muốn
thực hiện được mục tiêu này, phải giảm các yếu tố ngẫu nhiên, may
rủi đến mức tối thiểu. Diễn đạt đề bài rõ ràng để mọi học sinh có thể
hiểu đúng tránh những câu hỏi rườm rà, tối nghĩa. Ra nhiều câu hỏi,
bao quát đến mức tối đa các vấn đề cần kiểm tra, vừa có phần nhận
biết, vừa có phần thông hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá.
Tuy nhiên phải căn cứ vào tính chất của kì thi hay kiểm tra mà lựa
chọn các mức độ trên cho phù hợp. Đối với những bài kiểm tra thông
thường (15 phút, 45 phút, học kì ) cho học sinh đại trà thì chỉ nên
dừng ở 3 mức độ đầu là nhận biết, thông hiểu, vận dụng. Còn đối với
bài thi đại học, thi học sinh giỏi thì phải đảm bảo cả 6 mức độ: Nhận
biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá (lưu ý là
trong một đề kiểm tra, đôi khi các mức độ này không tách bạch một
cách tuyệt đối mà thường đan xen,có lúc đi liền với nhau).
- Đầu tư nhiều cả về công sức, trí tuệ cho việc biên soạn một đề kiểm
tra. Đối với các môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân nên
chú ý đến việc ra các dạng đề mở. Chú trọng đến các câu hỏi buộc học
sinh phải suy nghĩ, trả lời theo ý kiến cá nhân của mình. Điều này
được áp dụng cả cho câu hỏi tự luận và câu hỏi trắc nghiệm.
10
Đối với môn Lịch sử, một trong những nguyên nhân để học sinh
không muốn học, sợ học môn Lịch sử vì phải học thuộc bài, mà
chương trình môn Lịch sử thì quá nhiều kiến thức và sự kiện. Do vậy
khi ra đề kiểm tra, đề thi nên hạn chế các câu hỏi thuộc bài, mà trên
cơ sở những kiến thức học sinh được nghe giảng trên lớp, được đọc
sách tài liệu và nghe nhìn, để trình bày các nội dung có liên quan đến
bài học.Ví dụ khi kiểm tra về nội dung Cách mạng tháng Tám 1945 ở
Việt Nam, tôi không ra các câu hỏi trình bày lại diễn biến của cuộc
cách mạng như thế nào mà có thể hỏi: Em có những ấn tượng như thế

nào về cuộc cách mạng tháng 8-1945 ở nước ta ? Hoặc khi kiểm tra
về nội dung cuộc Chiến tranh thế giớ thứ hai, không nên đưa ra loại
câu hỏi trình bày diễn biến của cuộc chiến tranh, giáo viên có thể ra
câu hỏi: Thông qua những hiểu biết về 2 cuộc chiến tranh thế giới, em
hãy phát biểu những suy nghĩ của mình về chiến tranh. Từ đó liên hệ
với xu thế mới trong quan hệ quốc tế hiện nay. Muốn trả lời được câu
hỏi này, học sinh phải nắm vững những kiến thức về 2 cuộc chiến
tranh, thấy được những hậu quả nặng nề, sự tàn khốc mà chiến tranh
đã gây ra cho nhân loại, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá, những
bài học cần thiết Càng có nhiều câu hỏi mang tính tư duy độc lập
việc đánh giá kết quả học tập của học sinh càng chính xác, mà học
sinh cũng không lo phải học thuộc bài Lịch sử nữa. Có như vậy mới
tạo được sự hứng thú học Sử cho học sinh.
Nên kết hợp cả 2 phương pháp kiểm tra trắc nghiệm và tự luận
trong các bài kiểm tra. Bởi vì mỗi phương pháp có những ưu điểm,
cũng như những hạn chế nhất định. Kiểm tra đánh giá bằng câu hỏi tự
luận có ưu thế là “đo” được độ sâu của kiến thức, rèn luyện cho học
11
sinh kĩ năng diễn đạt, lập luận, trình bày một vấn đề có sức thuyết
phục. Điều này rất cần cho cuộc sống sau này của các em. Nhưng hạn
chế của loại câu hỏi này là do số lượng câu hỏi ít nên khó đánh giá
được kiến thức của người học đối với toàn bộ chương trình. Chấm bài
lâu, kết quả đôi khi phụ thuộc vào người chấm. Dễ dẫn đến việc học tủ
và các tiêu cực trong kiểm tra đánh giá. Kiểm tra bằng câu hỏi trắc
nghiệm khách quan có ưu thế là đo được độ rộng của kiến thức, chấm
nhanh, đảm bảo tính khách quan , nhưng lại không đo được độ sâu
của kiến thức, không đánh giá được khả năng sáng tạo của học sinh.
Vì vậy, nếu kết hợp cả hai hình thức này sẽ đảm bảo được cả mặt ưu
điểm, khắc phục được hạn chế, đem lại hiệu quả cao trong dạy học
cũng như trong kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang

áp dụng tỉ lệ 30% cho câu hỏi trắc nghiệm và 70 % điểm cho câu hỏi
tự luận.
Đề thi tập trung: Tất cả các đề thi tập trung và đáp án (thi học
kỳ, thi khảo sát chất lượng, thi chọn học sinh giỏi…) đều do Ban giám
hiệu quản lý, mà trực tiếp là Hiệu phó phụ trách chuyên môn, phụ
trách chuyên môn bốc ngẫu nhiên trong ngân hàng đề cho từng môn
thi tập trung. Đề thi này phải được bảo quản tuyệt đối bí mật.
Đề kiểm tra 1 tiết: Tổ trưởng chuyên môn quản lý, tổ trưởng bôc
ngẫu nhiên và giao cho giáo viên dạy lớp đó lên lớp tiến hành kiểm
tra.
Đề kiểm tra 15 phút và câu hỏi kiểm tra miệng: Giáo viên bộ
môn dạy ở các khối lớp tự ra đề, tự kiểm tra.
Với các biện pháp chỉ đạo xây dựng đề thi, đề kiểm tra như
trên, đội ngũ giáo viên ở đơn vị đã thông thạo, không còn lúng túng
12
mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị đề và đáp án như trước đây. Từ
đó xuất hiện tâm lý tự tin, yên tâm, trong đội ngũ giáo viên và học
sinh.
3.3 Đổi mới việc tổ chức thi và kiểm tra đánh giá học sinh.
Kiểm tra miệng: Đây là điểm kiểm tra thường xuyên đối với học
sinh, rất dễ mang tính chất cảm tính nếu không có sự thống nhất giữa
các giáo viên trong tổ, trong trường thì tất yếu sẽ dẫn đến sự chênh
lệch lớn. Có giáo viên cho điểm kiểm tra miệng rất chặt, nhưng cũng
có giáo viên lại cho điểm rất rộng. Theo tôi để có sự thống nhất giữa
các giáo viên trong tổ với nhau ta cần đi theo quy trình sau:
Nếu học sinh học thuộc bài, trả lời được tất cả các câu hỏi dễ và
khó, chuẩn bị bài tốt (làm các bài tập về nhà) thì cho điểm tối đa, nên
biểu dương, khuyến khích những học sinh này ngay tại lớp để kích
động đến những học sinh khác. Nếu học sinh chỉ học thuộc bài mà
không chuẩn bị bài tập về nhà tốt thì chỉ cho tối đa đến 7 điểm. trường

hợp không thuộc bài, và cũng không chuẩn bị bài về nhà thì tùy mức
độ cụ thể mà cho điểm.
Chú ý: những học sinh không thuộc bài cũ giáo viên không nên
quát mắng, vì như vậy sẽ làm thui chột động lực học tập của các em.
Tốt nhất là chỉ ghi nhớ và nhắc nhở sẽ cho học sinh đó có cơ hội kiểm
tra lại. Trong quá trình kiểm tra bài cũ nếu học sinh gọi lên không trả
lời được thì sẽ dành quyền cho học sinh ở dưới lớp xung phong lên trả
lời, nên ưu tiên cho học sinh đã có điểm kiểm tra miệng trước đó
nhưng có điểm thấp hoặc học sinh thuộc đối tượng yếu kém trước, sau
đó mới đến học sinh khá, giỏi. Học sinh xung phong lên bảng mỗi lần
13
trả lời tốt được cộng thêm 1 đến 2 điểm vào cột hệ số một tùy vào
mức độ khó dễ của câu hỏi hay bài tập.
Một tiết dạy phải kiểm tra ít nhất được 2 học sinh trở lên. Nếu
không thường xuyên kiểm tra miệng học sinh sẽ lười học. Trong 1 tiết
học tôi có thể kiểm tra được từ 3 đến 4 học sinh. Chẳng hạn: gọi 1 học
sinh lên bảng trả lời câu hỏi trực tiếp với thầy, 1 học sinh khác trả lời
câu hỏi bằng cách viết lên bảng, sau đó gọi 2 học sinh dưới lớp đứng
lên nhận xét trả lời của 2 bạn lên bảng, khi nhận xét đánh giá phải
nhận xét cả về nội dung kiến thức và cách diến đạt, để luyện tập cách
nói trước tập thể đông người cho học sinh, cho điểm công khai qua
việc trả lời và nhận xét của cả 4 em.
Để thực hiện tốt các khâu trên tôi phải chuẩn bị chu đáo như:
chuẩn bị trước các câu hỏi kiểm tra miệng và bài tập cho nhiều đối
tượng học sinh, dự kiến cả học sinh nào sẽ được kiểm tra trong tiết
học sắp tới; chuẩn bị lượng bài tập về nhà cụ thể .
Kiểm tra 15 phút:
Trong cuộc họp tổ đầu tiên của năm học nhóm chuyên môn
thống nhất với nhau về thời điểm kiểm tra, nội dung kiểm tra và đưa
vào kế hoạch chuyên môn để thực hiện. Thường thì bài kiểm tra này

được bố trí vào giữa chương hoặc một bài có kiến thức cơ bản cần
được khắc sâu. Trong các bài kiểm tra 15 phút nên báo trước cho các
em ở tiết học trước đó để có sự chuẩn bị chu đáo, nhóm giáo viên dạy
cùng khối hội ý về nội dung kiểm tra để có sự công bằng giữa các lớp.
Đề kiểm tra phải có tính phân hóa để phù hợp với nhiều đối tượng học
sinh trong khối lớp đó, cụ thể như: 6 điểm dành cho học sinh trung
bình, yếu, 2 điểm dành cho học sinh khá và 2 điểm dành cho học sinh
14
giỏi. Đề kiểm tra 15 phút sử dụng 70% số điểm cho tự luận, 30% điểm
dành cho câu hỏi trắc nghiệm. Việc chấm trả bài kiểm tra 15 phút:
giáo viên dạy lớp nào tự kiểm tra và chấm trả bài theo lớp đó.
Kiểm tra 1 tiết quy định trong phân phối chương trình.
Việc tổ chức tốt các bài kiểm tra 1 tiết là hết sức quan trọng, đây
là khâu quyết định để đánh giá chính xác kết quả học, sự lĩnh hội kiến
thức của các em. Vì vậy, trong mỗi bài kiểm tra 1 tiết tôi chỉ đạo các
tổ, nhóm chuyên môn và giáo viên thực hiện những công việc sau:
Ra đề: Đây là bài kiểm tra mà điểm mang hệ số 2 nên học sinh
rất quan tâm về điểm số. Do vậy nếu đề kiểm tra không vừa sức thì
các em bị điểm kém sẽ dẫn đến tình trạng bi quan chán nản trong học
tập. Nếu đề kiểm tra quá dễ và coi kiểm tra không nghiêm túc thì học
sinh lại chủ quan, dựa dẫm vào bạn bè không có ý thức tự giác trong
học tập. Đối với học sinh khá giỏi thì chủ quan, coi thường, lười suy
nghĩ, không có ý thức cầu tiến trong quá trình học tập
Đề kiểm tra 1 tiết giao cho các giáo viên dạy cùng khối trong tổ
nhóm xây dựng, nhóm chuyên môn thẩm định và giao cho Tổ trưởng
quản lý để trong Ngân hàng đề thi của tổ, nhóm., Tổ trưởng chọn đề
ngẫu nhiên cho từng lớp để kiểm tra
Coi và chấm bà kiểm tra 1 tiết: Bài kiểm tra 1 tiết do được phân
phối trong chương trình nên các lớp đều được kiểm tra trong cùng một
tuần, vì vậy đến tiết kiểm tra 45 phút giáo viên nhận đề kiểm tra từ

ngân hàng đề của tổ do tổ trưởng bôc thăm ngẫu nhiên giao cho giáo
viên đó lên lớp trực tiếp kiểm tra. Bài kiểm tra được đổi chéo cho giáo
viên khác chấm, điểm kiểm tra chấm xong, giao lại cho tổ trưởng
15
chuyên môn lưu giữ rồi tổ trưởng mới chuyển lại cho giáo viên trực
tiếp dạy để ghi vào sổ điểm.
Tôi đã chỉ đạo giáo viên phải chấm kỷ, chính xác có sửa lỗi ra lề
tờ giấy làm bài của học sinh, trong ô ghi "lời phê của thầy, cô giáo",
phải ghi những lời nhận xét đánh giá về bài làm bằng những ý cô động
nhất cả về nội dung, cách diến đạt và phương pháp làm bài. để học
sinh rút được kinh nghiệm cho bài làm lần sau. Tôi đã thường xuyên
nhắc nhở, kiểm tra giáo viên để hình thành nề nếp lâu dài.
Hiện nay trong phân phối chương trình các môn Lịch Sử, Địa
Lý, Giáo dục Công dân, không có tiết trả bài kiểm tra, đây là một khó
khăn khi nhận xét đánh giá kết quả làm bài kiểm tra 1 tiết của học sinh
các môn này. Tôi cho rằng tiết trả và chữa bài kiểm tra 45 phút của
các môn KHXHNV là rất thiết thực và hữu ích cho học sinh. Thường
là phải sử dụng thời lượng kiểm tra miệng của tiết tiếp theo để trả bài
và nhận xét nhưng vẫn không đủ. Những khó khăn này nên chăng
phải đề nghị Bộ GD&ĐT đưa vào phân phối chương trình tiết trả các
bài kiểm tra 1 tiết trở lên.
Tổ chức các kỳ thi tập trung trong trường.
Trong một năm học cần có các kỳ thi tập trung như: thi khảo sát
chất lượng đầu năm học đối với học sinh lớp 10 đầu cấp, thi cuối học
kỳ 1, kỳ 2 của cả 3 khối, thi chọn đội tuyển học sinh giỏi, thi thử Đại
học, thi thử tốt nghiệp cho học sinh lớp 12 ( nếu sở có tổ chức)…
Việc tổ chức thi tập trung phải được thực hiện nghiêm túc theo
quy chế của ngành, phải thành lập Hội đồng coi thi, chấm thi. Ở
trường THPT Thiệu Hóa chúng tôi đã chỉ đạo tổ chức các kỳ thi tập
trung như sau:

16
- Xếp lịch thi và xếp chỗ ngồi trong phòng thi : Trong một phòng thi
có thể thi từ 2 đến 3 môn khác nhau nhưng trong cùng thời gian làm
bài. Phòng thi xếp không quá 24 em, học sinh của cả 2 hoặc 3 khối
ngồi theo số báo danh xen kẻ nhau.
Thành lập ban kiểm tra cho từng kỳ thi. Ban kiểm tra được chọn
từ những giáo viên nghiêm khắc trong các kỳ thi, bắt được học sinh
nào vi phạm thi sẽ bị hủy kết quả thi. Phải coi thi thật nghiêm túc,
không để cho học sinh sử dụng tài liệu, quay cóp nhìn bài của nhau…
Có làm được như vậy, học sinh mới lo học và đánh giá kết quả học tập
của học sinh mới chính xác theo tinh thần "học thật", "thi thật".
- Tổ chức làm phách và chấm thi: Sau khi rọc đầu phách, Chủ tịch hội
đồng chấm thi giao bài đã rọc phách cho tổ trưởng chuyên môn, tổ
trưởng giao bài cho từng giáo viên chấm. Đúng ngày quy định nộp bài
đã chấm cho nhóm Thí vụ nhà trường lên điểm bằng các phần mềm
của việc ứng dụng công nghệ thông tin, sau đó công bố điểm công
khai trên trang thông tin điện tử (trang web) và dán lên bảng tin nhà
trường.
Đối với những môn không thi tập trung (của thi học kỳ), thì Tổ
trưởng chuyên môn trực tiếp nhận đề thi từ ngân hàng đề do Hiệu phó
chuyên môn bốc ngẫu nhiên. Tổ trưởng điều hành giáo viên trong tổ
đến coi thi ở các lớp với nguyên tắc giáo viên trực tiếp dạy không coi
thi và chấm bài ở các lớp đó.
Với các biện pháp đổi mới trong các khâu tổ chức kiểm tra, coi
thi, chấm và trả bài trong KTĐG như trên đã có tác dụng làm chuyển
biến về tâm lý và tư duy suy nghĩ và hành động của cán bộ giáo viên
và học sinh trong trường.
17
4. Kiểm nghiệm đề tài SKKN
4.1 Những tác dụng và chuyển biến tích cực khi thực hiện đề tài

sáng kiến kinh nghiệm .
Đối với giáo viên: Với các biện pháp và cách tổ chức kiểm tra
đánh giá như trên, chúng tôi quản lý được việc thực hiện chương trình
của từng giáo viên. Bản thân mỗi giáo viên có ý thức và trách nhiệm
hơn về những lớp mình dạy, tự dạy bù (nếu chậm so với tiến độ
chương trình). Mỗi giáo viên tự điều chỉnh cách dạy nếu như kết quả
bài làm học sinh lớp mình yếu hơn so với lớp khác. Bản thân giáo viên
đó phải tự suy nghĩ và chịu trách nhiệm về kết quả chất lượng học
sinh trước lãnh đạo nhà trường. Từ đó tự bản thân giáo viên phải rút
kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng
chuyên môn, vì nếu kết học tập các lớp mình dạy không tốt sẽ bị ảnh
hưởng đến bình xét thi đua cuối năm học
Đối với học sinh: Tạo được sự công bằng trong học tập, kiểm
tra, thi cử đối với học sinh và giữa các lớp trong một khối với nhau,
hạn chế được tình trạng tiêu cực trong kiểm tra thi cử theo tinh thần
của cuộc vận động “Hai không” do Bộ GD&ĐT phát động. Học sinh
thấy được những sai sót trong làm bài và chỗ hỏng kiến thức của mình
để có hướng khắc phục kịp thời. Tác động tích cực nhất là ý thức
chăm lo học tập của học sinh thay đổi theo hướng tích cực, phải lo học
nhiều hơn và nghiêm túc trong làm bài kiểm tra. Kết quả đạt được
thực hơn.
Tóm lại: Ưu điểm của việc tổ chức kiểm tra như trên là: Khách
quan, công bằng, tránh được tình trạng học sinh của thầy, thầy tự kiểm
tra cho điểm. Tinh thần dạy của giáo viên sẽ phải nghiêm túc hơn,
18
giáo viên phải lo đổi mới PPGD để phù hợp với phương pháp kiểm tra
đánh giá mới như trên. Học sinh cũng phải lo học và chăm chỉ hơn.
Đối với công tác quản lý: Với cách KTĐG như trên Ban giám
hiệu cũng dễ phân loại được chất lượng và hiệu quả giảng dạy của đội
ngũ giáo viên trong trường, từ đó có kế hoạch phân công, sắp xếp

chuyên môn, bồi dưỡng, đào tạo hợp lý.
Trên đây là những chuyển biến tích cực khi thực hiện đề tài
SKKN. Kết quả đó còn được thể hiện qua việc khảo sát và kiểm
chứng cụ thể
4.2 Kết quả qua khảo sát và kiểm chứng thực tế của đề tài SKKN:
a/ Bảng khảo sát chất lượng dạy và học khi chưa áp dụng đề tài
SKKN:
Năm
học
Lớp Xếp loại học tập của học
sinh
Học sinh giỏi Giáo viên
giỏi
Giỏi Khá Tb Yếu Kém Trường Tỉnh Trường Tỉnh
2006-
2007
10A 1,5 36 58 4,4
8
0,02 25 45 28 0
2007-
2008
11C 1,8 34 61 3,1
9
0,01 30 54 32 2
2008-
2009
12E 1,9 35 60 3,1 0 32 62 34 0
19
b/ Bảng khảo sát chất lượng dạy và học khi đã được áp dụng đề tài
SKKN:

Năm
học
Lớp Xếp loại học tập của học
sinh: %
Học sinh giỏi Giáo viên
giỏi
Giỏi Khá Tb Yếu Kém Trường Tỉnh Trường Tỉnh
2009-
2010
10A 2,4 43 52 2,6 0 40 72 36 1
2010-
2011
11C 2,8 52 44 1,2 0 47 91 36 0
2011-
2012
12E 3,3 55 41 0,7 0 56 117 38 3
Qua bảng khảo sát, kiểm chứng trên cho ta thấy: Sau hai ba năm
thực hiện đề tài SKKN, chất lượng các bộ môn có sự đồng đều và đi
lên, giáo viên từng bước đổi mới được phương pháp KTĐG, phương
pháp giảng dạy và tích lũy thêm những kinh nghiệm hay trong các
hoạt động chuyên môn.
Về phía học sinh: Từ khi thực hiện đổi mới KTĐG các môn
KHXHNV theo những biện pháp đa được thực hiện theo đề tài SKKN
trên thì chất lượng học tập của học sinh được có sự phân hóa rõ rệt
giữa các đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu, kém. Chất lượng học
tập của học sinh được nâng lên bền vững, nhất là tỉ lệ học sinh khá
giỏi (từ NH 2009-2010 đến NH 2011-2012 qua các kỳ thi học sinh
giỏi cấp tỉnh, trường THPT Thiệu Hóa được xếp từ thứ 12 đến 14 trên
104 trường THPT trong tỉnh, Học sinh giỏi cấp tỉnh các môn Lịch sư,
Địa lý, Ngữ văn, Giáo dục công dân đạt khá cao, chiếm tới gần 50%

20
tổng số giải của trường. Đặc biệt Năm học 2011-2012 có 1 học sinh
của trường đạt giải 3 kỳ thi học sinh giỏi quốc gia môn Lịch sử), tỉ lệ
học sinh yếu kém giảm đi rõ rệt.
Với cách kiểm tra đánh giá như thế này đã khích lệ việc học tập
của những học sinh giỏi, khá và chăm học đồng thời những học sinh
yếu kém không ỷ lại, chủ quan. Thiết nghĩ với hình thức kiểm tra đánh
giá như trên, nếu thực hiện một cách nghiêm túc và thường xuyên ở
mỗi giáo viên trong suốt năm học thì phần nào hạn chế được tình trạng
tiêu cực và thiếu công bằng trong kiểm tra đánh giá, góp phần tích cực
đổi mới toàn diện công tác giáo dục hiện nay.
4.3 Khă năng ứng dụng của đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
Với những kết quả đạt được tôi khẳng định đề tài SKKN này có
tính thực tiễn cao, khă năng vận dụng vào thực tế dạy học để đạt hiệu
quả là rất khả quan.
Đề tài SKKN này có nhiều nội dung có thể ứng dụng cho cả các
môn học tự nhiên (trừ cách ra đề, phương pháp kiểm tra miệng,…).
Đề tài có đối tượng áp dụng rất rộng trong tất cả các cán bộ giáo viên
trong và ngoài trường. Nhất là hiện nay ngành giáo dục trong tỉnh ta
cùng cả nước đang từng bước thực hiện việc đổi mới căn bản toàn
diện chất lượng giáo dục, mà trước mắt đang thực hiện việc đổi mới
Kiểm tra đánh giá học sinh để thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học.
4.4 Những điểm mới của đề tài SKKN.
Nội dung đổi mới KTĐG kết quả học tập của học sinh không
phải là một đề tài mới. Đã có nhiều bài nói về nội dung này, kể cả các
văn bản hướng dẫn thực hiện của Bộ, của Sở GD&ĐT. Nhưng trong
21
thực tế vẫn còn nhiều bất cập giữa công tác chỉ đạo của Ban giám hiệu
và việc triển khai thực hiện của đội ngũ giáo viên. Từ thực tiễn của
nhiều năm dạy học và làm công tác quản lý tôi có đưa ra trong đề tài

SKKN của mình một số điểm mới sáng tạo của đề tài như sau:
- Điểm mới về việc xây dựng và quản lý Ngân hàng đề thi, đề
kiểm tra: Tất cả các đề thi tập trung và đáp án (thi học kỳ, thi khảo sát
chất lượng, thi chọn học sinh giỏi, ) đều do Ban giám hiệu quản lý,
mà trực tiếp là Hiệu phó phụ trách chuyên môn bốc thăm ngẫu nhiên
trong ngân hàng đề cho từng kỳ thi, môn thi tập trung. Đề thi này phải
được bảo quản tuyệt đối bí mật. Đề kiểm tra 1 tiết, Tổ trưởng chuyên
môn quản lý ngân hàng đề của tổ. Đến kỳ kiểm tra, tổ trưởng bôc
thăm ngẫu nhiên và giao cho giáo viên dạy lớp đó lên lớp trực tiếp coi
kiểm tra. Bài kiểm tra 1 tiết tổ trưởng điều hành giao cho giáo viên
khác chấm (chấm chéo). Điểm của bài thi được tổ trưởng lưu lại trước
khi giao cho giáo viên trực tiếp day ghi vào sổ điểm. Đề kiểm tra 15
phút và câu hỏi kiểm tra miệng: Giáo viên bộ môn dạy ở các khối lớp
tự ra đề, tự kiểm tra và chấm bài.
- Mới về cách tổ chức các kỳ thi tập trung tại trường: sắp xếp học sinh
cả 3 khối 10, 11, 12 cùng ngồi xen kẻ trong một phòng thi theo những
số báo danh khác nhau. Trong một phòng thi tập trung như vậy có 24
học sinh cùng một thời gian làm bài, nhưng có thể thi các môn khác
nhau.
Đối với các môn không thi tập trung (của thi học kỳ), Tổ trưởng
nhận đề từ BGH và điều hành giáo viên trong tổ đến coi thi ở các lớp
với nguyên tắc giáo viên trực tiếp dạy không coi thi và chấm bài ở các
lớp đó.
22
- Mới trong việc chỉ đạo Tổ trưởng chuyên môn thực hiện cử giáo viên
trong tổ, nhóm của minh chấm chéo bài kiểm tra 1 tiết.
- Mới về phương pháp kiểm tra bài cù (kiểm tra miệng): Với biện
pháp mới này, trong khoảng thời gian 5-7 phút có thể kiểm tra đánh
giá được từ 3-4 học sinh mà lại động viên, kích thích được học sinh về
nhà học bài làm bài tập cũ.

- Mới trong cách nhận xét đánh giá học sinh ngay trong bài thi và bài
kiểm tra. Nhận xét đánh giá kết quả học tập của học sinh cuối năm học
trong học bạ…
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
Với sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT Thanh Hóa về đổi
mới KTĐG, thúc đẩy đổi mới PPDH. Từ thực trạng của việc KTĐG
hiện nay, tôi đã đi sâu tìm hiểu, khảo sát, thực nghiệm và đúc rút
thành những sáng kiến kinh nghiệm về: đổi mới chỉ đạo, tổ chức thực
hiện việc KTĐG kết quả học tập của học sinh các môn khoa học xã
hội nhân văn, ở trường THPT
Tôi khẳng định đề tài SKKN này là hợp lý, sát thực tiễn, rất thiết
thực và khả thi. Nó góp phần tạo ra sự nghiêm túc, công bằng trong
KTĐG, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, chất lượng học tập của
học sinh, để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường, của ngành.
Do điều kiện trong thời gian thực hiện đề tài còn gặp nhiều khó
khăn. Việc đổi mới KTĐG học sinh trong đội ngũ CBGV chưa đồng
23
bộ, nhưng tôi đã cố gắng thực hiện và trình bày đề tài thật gọn gàng,
rõ ràng, đi sâu vào những biện pháp chủ yếu cốt lõi mà bản thân đã
thực hiện. Tuy vậy còn nhiều khía cạnh chưa được đề cập đến, những
biện pháp hay hiệu quả hơn cũng chưa được đúc rút, đó là hướng
nghiên cứu tiếp tục của đề tài này.
1. Đề xuất
1. Đề xuất với các cơ quan quản lý thuộc Bộ GD&ĐT
- Cung cấp thêm những tài liệu phục vụ cho việc đổi mới KTĐG
như: các nguồn dữ liệu mở về đề thi, đề kiểm tra, giáo án, tài liệu
tham khảo để giáo viên nghiên cứu. Viết lại sách giáo khoa, trong đó
phải thể hiện sự đổi mới về KTĐG trong hệ thống các câu hỏi và bài
tập

- Chỉ đạo các trường ĐHSP đổi mới nội dung KTĐG để sinh viên
ra trường có thể tiếp cận với cách thức KTĐG mới khoa học.
- Đưa thêm vào phân phối chương trình 1 tiết trả bài kiểm tra 45
phút trở lên đối với các môn Sử, Đia, GDCD ở bậc THPT.
- Chỉnh sửa lại những nội dung trong cuốn học bạ của bậc THPT
để thể kiện sự nhận xét đánh giá kết quả học tập, tu dưỡng, rèn luyện
của học sinh sau một năm học được toàn diện hơn.
2. Đề xuấti với Sở GD&ĐT
- Cần tổ chức hội nghị chuyên đề về đổi mới PPDH và KTĐG
trong từng năm học.
- Thường xuyên tổ chức kiểm tra thanh tra chuyên môn trong đó
có việc thực hiện đổi mới KTĐG, đổi mới PPGD của giáo viên, vì sau
24
mỗi lần kiểm tra, thanh tra sẽ giúp cho đội ngũ giáo viên nhà trường
tốt hơn.
3. Đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường
- Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra các tổ chuyên môn về đổi mới
KTĐG. Đưa nội dung này vào hoạt động chuyên môn thường xuyên.
- Lồng ghép với chương trình hành động, kế hoạch tổ chức thực
hiện cuộc vận động "Hai không" và phong trào thi đua "Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực".
XÁC NHẬN Thanh Hóa, ngày 08
tháng 5 năm 2013
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan
đây là SKKN
của mình viết, không sao
chép nội
dung của người
khác.
Người thực

hiện
TRẦN QUỐC
25

×