Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ luật học bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nghiên cứu so sánh giữa pháp luật liên minh châu âu và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.9 KB, 34 trang )

KHOA LUẬT TRƯỜNG ĐH LUẬT
ĐẠI HỌC LUND TP. HỒ CHÍ MINH
PHAN NGỌC TÂM
BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
NGHIÊN CỨU SO SÁNH GIỮA PHÁP LUẬT LIÊN MINH
CHÂU ÂU VÀ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Quốc tế – So sánh
Mã số: 62.38.60.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Năm 2011
1
Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH, VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUND, THỤY ĐIỂN
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. Hans-Henrik Lidgard (Thụy Điển)
PGS.TS. Mai Hồng Quỳ
Phản biện 1:
Phản biện 2: …………………………………….
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước,
tại
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2011
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
2
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Lý do lựa chọn đề tài
Nhãn hiệu, cùng với sáng chế, quyền tác giả và những đối tượng khác của quyền
SHTT đang ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm trên bình diện quốc gia lẫn quốc tế.
Trên thực tế, “nhãn hiệu” đã được sử dụng từ khá sớm trong lịch sử phát triển của xã hội


loài người, cụ thể là từ thời kỳ Đồ Đá. Quan điểm liên quan đến lịch sử hình thành và
phát triển của nhãn hiệu nổi bật và nhận được sự ủng hộ của nhiều học giả trên thế giới
đã chỉ ra rằng những hình thức sơ khai của nhãn hiệu được sử dụng trên gia súc, cụ thể là
những người nông dân vào thời kỳ này đã biết sử dụng sắt nung nóng để đánh dấu lên
những con vật thuộc sở hữu của mình. Thực tế này đã được khắc họa lại trên các họa tiết,
các nét vẻ trên các vách đá hay trên tường ở Ai Cập cổ đại. một hình thức “đánh dấu”
khác cũng được sử dụng trên vật nuôi là hình thức cắt tai xuất hiện ở Madagascar.
1
Mặc
dù vậy, phải đến những năm 1800, pháp luật về nhãn hiệu mới thật sự được ban hành lần
đầu tiên ở Anh Quốc và những vụ việc đầu tiên liên quan đến tranh chấp về nhãn hiệu
được giải quyết tại các Tòa án.
2
Sau đó, vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nói riêng và quyền
SHTT nói chung đã được thể chế hóa một cách mạnh mẽ trong nhiều điều ước quốc tế
cũng như trong pháp luật quốc gia
3
. Những sự cố gắng đó hiển nhiên đã thể hiện được
bước tiến bộ vượt bậc trong việc bảo hộ nhãn hiệu ở từng quốc gia cũng như trên phạm vi
toàn cầu. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một khía cạnh pháp lý quan trọng của pháp luật về nhãn
hiệu chưa được đề cập trong một thời gian khá dài, đó là vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng – những nhãn hiệu được biết đến và sử dụng rộng rãi trên toàn cầu hoặc ít nhất là
trong một quốc gia hay một khu vực địa lý nhất định.
4

1
See e.g. Amir H. Khoury, Ancient and Islamic sources of intellectual property protection in the Middle
East: A focus on trademarks, 43 IDEA 151, 155-156 (2003). See also, World Intellectual Property
Organization (WIPO), Intellectual Property Reading Materials 191 (WIPO Publication, Geneva 1995)
("As long as 3000 years ago, Indian craftsmen used to engrave their signatures on their artistic creations

before sending them to Iran. Manufacturers from China sold goods bearing their marks in the
Mediterranean area over 2,000 years ago and at one time about a thousand different Roman pottery
marks were in use, including the FORTIS brand, which became so famous that it was copied and
counterfeited.").
2
See subchapter 2.1.2 infra.
3
See e.g., The Paris Convention for the Protection of Industrial Property 1883, The Madrid Agreement
for The International Registration of Marks 1891, The Agreement on Trade –Related Aspects of
Intellectual Property Rights (TRIPs) concluded as a part of the Uruguay Round on the re-negotiation of
the GATT in 1994, The Arrangement of Nice for the International Classification of Goods and Services
in 1957, First Council Directive 89/104/EEC of 21 December 1988 to approximate the laws of the
Member States relating to trade marks OJ 1989 L40/1; Council Regulation (EC) 40/94 OF 20 December
1993, OJ 1994 L11/1 on the Community Trade mark. And some national laws such as : The Trade
Marks Act 1938 and after that being replaced by the Trade marks Act 1994 of the United Kingdom, The
Lanham Act 1946 of the United States of America, The Federal Trade mark Dilution Act in 1995 (as
revised in 2006).
4
The concept of well-known trade mark was first stated in the 1925 Amendment of the Paris Convention.
3
Rõ ràng là sự thiếu vắng của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này đã mang lại
những khó khăn nhất định cho thực tiễn sử dụng và bảo hộ đối với nhiều nhãn hiệu nổi
tiếng. Trong nhiều năm qua đã có không ít những tranh chấp thương mại quốc tế phát
sinh liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng. Việc giải quyết những tranh chấp này chủ yếu
được thực hiện dựa trên án lệ ở các nước theo truyền thống Thông luật hay dựa trên các
quy định pháp luật liên quan ở các nước theo truyền thống Dân luật. Điều này vô hình
chung đã mang lại nhiều thách thức cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng, đồng thời cản trở quá trình hoàn thiện pháp luật
về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng cũng như tăng
cường và đảm bảo tính thống nhất, tính hiệu quả và sự khả thi của hệ thống pháp luật.

Chính vì vậy, việc xây dựng một thiết chế pháp lý mang tính toàn cầu bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của sự phát triển hệ thống pháp
luật về nhãn hiệu trong môi trường pháp lý quốc gia cũng như quốc tế.
Học thuyết pháp lý quốc tế liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng lần đầu tiên được thể chế
hóa trong Công ước Paris vào năm 1925. Ngày nay, học thuyết này trở nên đặc biệt quan
trọng trong một thế giới mà các hoạt động tiếp thị và quảng bá thương mại toàn cầu
không ngừng gia tăng. Việc tạo ra một thương hiệu toàn cầu ngày càng trở nên dễ dàng
hơn rất nhiếu thông qua các kênh thông tin mới, tiết kiệm và có thể tiếp cận từ xa. Trong
khi các biên giới và ranh giới chính trị giữa các quốc gia có vẻ như đang gây ra không ít
những trở ngại cho sự tự do đi lại của các cá nhân trên toàn cầu thì chúng cũng không thể
nào ngăn cản được dòng chảy tự do của thông tin.
5
Như vậy, một nhãn hiệu có thể được
đồng thời chuyển tải đến bất kỳ nơi nào để đến với người tiêu dùng cũng như toàn thể
công chúng qua nhiều kênh thông tin hiệu quả và nhanh chóng. Bằng cách đó, một nhãn
hiệu có thể nhanh chóng được biết đến rộng rãi trên nhiều thị trường trên thế giới bất
chấp những hạn chế đối với sự di chuyển của cá nhân.
Có thể thấy rằng nhãn hiệu nổi tiếng đã được công nhận như là một trong những hình
thức quan trọng nhất của hệ thống nhãn hiệu như đã được ghi nhận trong hệ thống pháp
luật quốc gia lẫn trong các Điều ước quốc tế. Cơ chế pháp lý bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
tiếp tục được củng cố và phát triển theo thời gian nhờ vào sự nhận thức về tầm quan
trọng của nhãn hiệu nổi tiếng không ngừng gia tăng trên toàn cầu cũng như sự phát triển
của vai trò của nhãn hiệu nổi tiếng trong hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù vậy,
những vấn đề pháp lý này vẫn còn là những khái niệm khá mới mẻ ở nhiều quốc gia, đặc
biệt là ở những quốc gia đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam.
Với xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẽ gia
nhập vào thị trường nội địa của Việt Nam. Họ sẽ mang theo nhiều nhãn hiệu nước ngoài,
trong đó bao gồm nhãn hiệu nổi tiếng, không chỉ vào thị trường nội địa mà còn vào trong
hệ thống pháp luật quốc gia. Ngày nay, chúng ta có thể nhìn thấy nhiều nhãn hiệu nổi
tiếng toàn cầu xuất hiện trong các siêu thị của Việt Nam như SONY, TOYOTA, COCA-

COLA, MICROSOFT, NOKIA… Những nhãn hiệu này không chỉ đại diện cho tài sản
của doanh nghiệp nước ngoài mà còn trở thành yếu tố quan trọng trong toàn bộ nền kinh
tế quốc gia nơi chúng được đầu tư. Chẳng hạn, giá trị thương mại của nhãn hiệu COCA-
COLA được tính toán vào khoảng 33,4 tỉ Đô là Mỹ năm 1993 và lên đến hơn 70,0 tỉ Đô
5
Frederick Mostert, Famous and Well-known Marks – An international Analysis, (Toronto Butterworth’s
1997), page v.
4
là Mỹ vào năm 2010 (trở thành thương hiệu có giá trị cao nhất toàn cầu trong năm)
6
. Điều
này chứng tỏ rằng giá trị kinh tế của quyền SHTT, và đặc biệt là nhãn hiệu, đang đóng
một vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế
thế giới. trong khi đó, nhìn lại thực tế ở Việt Nam, có thể thấy rằng cơ chế bảo hộ và thực
thi quyền SHTT vẫn còn là một bức tranh mờ nhạt. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều nỗ lực
trong việc ban hành nhiều văn bản luật và những quy định mới, song hiện tượng xâm
phạm hay vi phạm quyền SHTT vẫn tiếp tục là những thách thức to lớn đối với các cơ
quan có thẩm quyền và đối với các chủ thể quyền SHTT. Pháp luật về nhãn hiệu có vẻ là
lĩnh vực chịu thách thức nhiều hơn cả bởi vì ngày càng có nhiều tranh chấp và khiếu nại
được đưa ra trước cơ quan có thẩm quyền liên quan đến hành vi xâm phạm nhãn hiệu.
Ở Việt Nam, hầu hết mọi người không có nhiều kiến thức và thông tin liên quan đến nhãn
hiệu nổi tiếng. Chẳng hạn, nhãn hiệu HONDA thường được sử dụng một cách thông
dụng để chỉ tất cả các phương tiện xe gắn máy mà không có sự phân biệt nào đối với các
nhãn hiệu mà chúng mang, dù rằng các nhãn hiệu đó không phải là HONDA và cũng
không giống nhau. Điều này có vẻ như là một thực tế phổ biến và nó tồn tại trong một
thời gian khá dài. Và với tình huống xảy ra như thế, chúng ta buộc phải trả lời một số câu
hỏi quan trọng, ví dụ:
(1) Có bất kỳ sự xâm phạm nào đối với quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu trong
ví dụ liên quan đến nhãn hiệu HONDA này?
(2) Liệu chủ sở hữu nhãn hiệu HONDA có quyền khiếu nại yêu cầu bảo vệ

quyền lợi của họ liên quan đến nhãn hiệu này không?
(3) Làm thế nào để họ có thể bảo vệ được các quyền lợi chính đáng của mình
tại Việt Nam?
Những câu hỏi này không đơn giản và câu trả lời có được tùy thuộc vào các tình huống
pháp lý cụ thể. Chẳng hạn, chúng ta có thể sẽ đặt ra vấn đề rằng liệu HONDA có phải là
nhãn hiệu nổi tiếng, rằng có văn bản pháp luật nào liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng ở
Việt Nam không, và nếu có, thì pháp luật đặt ra những yêu cầu cụ thể nào trong từng
trường hợp?
Cần lưu ý rằng trên thực tế có một vài sự phân loại không chính thức đối với nhãn hiệu
được bảo hộ ở Việt Nam dựa trên các quyết định cụ thể của cơ quan có thẩm quyền, và
đồng thời cũng có những quy định riêng biệt trong Luật SHTT năm 2005 liên quan đến
nhãn hiệu nổi tiếng.
7
Tuy vậy, những chuẩn mực pháp lý chung dùng để đánh giá và công
nhận nhãn hiệu nổi tiếng vẫn chưa được xác định một cách thống nhất và chính xác. Hầu
hết mọi người trên thực tế sẽ không thể trả lời được câu hỏi “nhãn hiệu nổi tiếng là gì?”.
Họ thường có thể sẽ nhầm lẫn giữa sự nhận biết của cộng đồng đối với nhãn hiệu với giá
trị thương mại cao của chúng. Một vài người có thể cho rằng một nhãn hiệu sẽ được coi
là nổi tiếng ở nơi nào mà có nhiều người có thể nhận biết về nó. Trong khi một số khác
có thể sẽ không quan tâm đến lý do tại sao một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng. Họ sẽ chỉ
6
Ruth Annand and Helen Norman, Blackstone’s Guide to the Trade marks Act 1994, (Blackstone Press
Limited 1994), page 10. See also Business Week and Interbrand Special Report on the 100 Top Brands,
2010. Available at :

7
For instance, see Article 75 of The 2005 Law on Intellectual Property (as amended in 2009).
5
đơn giản đưa ra câu trả lời theo chủ ý cá nhân của họ. Do vậy, hiện nay khó có thể tìm ra
được một khái niệm chung về “nhãn hiệu nổi tiếng” ở Việt Nam. Tác giả sẽ quay trở lại

những vấn đề pháp lý liên quan đến nhãn hiệu HONDA sau khi đã nghiên cứu và giải
quyết một số vấn đề lý luận cơ bản và những phân tích so sánh ở các phần sau của Luận
án.
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đã cố gắng tạo ra một hệ thống
những quy định chung về quyền SHTT trong BLDS 1995
8
và quyền SHCN trong Nghị
định số 63/CP năm 1996,
9
như là những nền tảng pháp lý đầu tiên của pháp luật Việt
Nam liên quan đến mảng SHTT. Chúng cũng có thể được coi là nguồn cơ bản của pháp
luật nhãn hiệu Việt Nam ở giai đoạn này. BLDS 1995 sau đó đã được bổ sung, sửa đổi
năm 2005 và được thay thế bởi BLDS 2005.
10
Tiếp theo đó, cuối năm 2005, Việt Nam đã
tiếp tục ban hành một văn bản pháp luật duy nhất và thống nhất điều chỉnh các vấn đề
liên quan đến quyền SHTT.
11
Ngoài ra, những quy định của pháp luật về nhãn hiệu có thể
được tìm thấy ở các văn bản pháp lý khác được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền
như Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ Công thương, Bộ Tư pháp…
Năm 2006, đã có khá nhiều sự kiện trọng đại xảy ra có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế
đất nước cũng như quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong đó, sự
kiện quan trọng nhất có thể kể đến là quá trình đàm phán gia nhập vào Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) của Việt Nam đã thành công tốt đẹp, Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức thứ 150 của Tổ chức này. Đây chính là một bước ngoặc lớn trong quá
trình phát triển của lịch sử dân tộc. Bên cạnh đó, một số sự kiện khác cũng đã diễn ra và
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống pháp luật về Sở hữu trí tuệ của nước ta, đó là sự
kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Nghị định thư Madrid vào ngày
11/04/2006 và ngày 11/07/2006 thì Nghị định thư đ phát sinh hiệu lực trên lãnh thổ Việt

Nam; đó là sự bắt đầu hiệu lực của một đạo luật đầu tiên về Sở hữu trí tuệ của Việt Nam
vào ngày 01/06/2006.
Tuy nhiên, những cố gắng kể trên nhìn chung chỉ thể hiện ở bề nổi và mang tính vĩ mô
nhiều hơn chứ chưa đi vào giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả những nhu cầu thực
tiễn mà xã hội đang đặt ra, đặc biệt là đối với việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Mặc dù đã
có khá nhiều các quy định pháp luật cụ thể được ban hành, song cơ chế đảm bảo thực thi
các quy định đó còn khá hạn chế, hiệu quả của quá trình áp dụng pháp luật chưa cao.
8
Civil Code No. 44-L/CTN was passed by the IX National Assembly, session 8
th
, on 28 October, 1995,
came into force on July 1
st
, 1996 and expired on January 1
st
, 2006.
9
Decree No. 63 of the Government of the Socialist Republic of Vietnam enacted on October 24, 1996
detailing the regulations on the industrial property. This Decree was amended by Decree No. 06/2001/
ND-CP, enacted on February 01, 2001.
10
Civil Code No. 33/2005/QH11 was passed on June 14, 2005, by the XI National Assembly of the
Socialist Republic of Vietnam, at its 7
th
session and came into force as of January 1, 2006.
11
The Law on Intellectual Property was adopted by the National Assembly of The Socialist Republic of
Vietnam at the Legislature XI, session 8, on November 29, 2005 and came into force on July 1, 2006.
This Law consists of 222 articles and is divided into 6 parts and 18 chapters. It stipulates copyright,
copyright-related rights, industrial property rights, and rights in plant varieties and for the protection of

these rights. However, problems relating to well-known trade marks are merely referred to in a number
of articles.
6
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Như đã đề cập ở trên, nhãn hiệu nổi tiếng và những vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo
hộ nhãn hiệu nổi tiếng chưa được giải quyết một cách thỏa đáng ở Việt Nam. Vì vậy,
Luận án này hướng đến hai mục đích chính. Thứ nhất, Luận án sẽ là một đóng góp đáng
kể vào hệ thống lý luận về nhãn hiệu nổi tiếng không những trên phương diện toàn cầu
mà, quan trọng hơn, còn tập trung vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam.
12
Điều này nhằm
giúp những chủ thể liên quan có thể nhận biết được nhãn hiệu nổi tiếng trong thị trường
để có thể phân biệt chúng với các nhãn hiệu thông thường khác. Thứ hai, thông qua sự
phân tích và đánh giá cơ chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong bối cảnh pháp lý
quốc tế
13
nói chung và trong những hệ thống pháp luật quốc gia cụ thể
14
để rút ra những
cách thức phù hợp nhằm củng cố và tăng cường hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng.
Để có thể đạt được những mục đích nêu trên, Luận án sẽ phải giải quyết được những
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Một là, Luận án phải giới thiệu được một cách khái quát những kiến thức lý luận cơ bản
về nhãn hiệu nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng. Điều này sẽ giúp mang lại câu
trả lời cơ bản nhất cho câu hỏi thế nảo là nhãn hiệu nổi tiếng trong bối cảnh toàn cầu.
Hai là, Luận án sẽ phải thực hiện được một sự so sánh khá đầy đủ và cơ bản giữa hai hệ
thống pháp luật của EU và Việt Nam về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Ba là, Luận án phải phân tích được tình huống thực tế của Việt Nam liên quan đến bảo hộ
nhãn hiệu, đặc biệt tập trung vào nhãn hiệu nổi tiếng, và đánh giá hiệu quả của hệ thống

pháp luật hiện hành cũng như những thách thức đặt ra cho Việt Nam trong quá trình hội
nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu.
Cuối cùng, từ những phân tích nói trên, Luận án sẽ đề xuất những giải pháp hợp lý và
khoa học nhằm củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Cần khẳng định rằng Luận án tập trung chủ yếu vào kiền thức lý luận và những vấn đề
thực tiễn liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng và cơ chế pháp lý bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
như là một phần riêng biệt trong hệ thống pháp luật về nhãn hiệu. Theo đó, Luận án bắt
đầu bằng cái nhìn tổng thể về khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng ở góc độ lý luận và đi vào
phân tích các thiết chế pháp lý quốc tế quan trọng có liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng như Công ước Paris, Hiệp định TRIPs… Quá trình này bao gồm cả sự phân tích
và so sánh những vấn đề pháp lý cụ thể liên quan đến khái niệm và cơ chế bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng cũng như hệ thống thực thi của nó trong hệ thống pháp luật quốc tế và một
số quốc gia. Nhìn chung Luận án đề cập chủ yếu nhãn hiệu nổi tiếng, và trong một chừng
mực nhất định có liên hệ đến nhãn hiệu rất nổi tiếng (famous trademarks) và nhãn hiệu có
danh tiếng (trademarks with a reputation). Tuy nhiên, những khía cạnh khác của quyền
12
As presented in the subchapter 2.2.
13
As introduced in the subchapter 3.1.
14
As defined in subchapter 1.3 infra.
7
SHTT nói chung cũng được tham chiếu đến nhằm mục đích so sánh hoặc làm rõ thêm
những vấn đề lý luận liên quan đến nội dung của Luận án.
Phạm vi nghiên cứu của Luận án thống nhất và phù hợp với mục tiêu nghiên cứu đã được
xác định để đảm bảo rằng những nhiệm vụ chính của Luận án được giải quyết một cách
thỏa đáng.
Do sự hạn chế về thời gian nghiên cứu và phạm vi rộng lớn của vấn đề nghiên cứu, Luận

án sẽ chỉ tập trung nghiên cứu và so sánh đối với hệ thống pháp luật của EU và Việt
Nam. Theo đó, đối với hệ thống pháp luật EU, Luận án sẽ chỉ dừng lại ở việc tiếp cận và
phân tích các quy định của pháp luật Liên minh cũng như các bản án và quyết định của
Tòa án Công lý châu Âu liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu có danh tiếng.
Luận án cũng đồng thời tham chiếu một cách hạn chế đến một số hệ thống pháp luật quốc
gia như Vương quốc Anh, Đức và Pháp và một số quốc gia khác. Ngoài ra, hệ thống pháp
luật Hoa kỳ cũng được đề cập một cách hạn chế trong những bối cảnh phù hợp.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp pháp lý truyền thống
Phương pháp pháp lý truyền thống là một trong những phương pháp cơ bản được sử dụng
trong luận án nhằm tìm kiếm câu trả lời thỏa đáng cho các câu hỏi quan trọng như: Pháp
luật quy định những gì về cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng? Tại sao và làm thế nào để
một nhãn hiệu nổi tiếng có thể được bảo hộ theo quy định của pháp luật? Để đạt được
những lợi ích của phương pháp này, một số nhiệm vụ cụ thể quan trọng cần phải được
thực hiện một cách triệt để và khoa học bao gồm công việc tổng hợp, phân tích và thống
kê. Đây cũng chính là những bộ phận cấu thành quan trọng của phương pháp pháp lý
truyền thống.
Phù hợp với mục tiêu nghiên cứu chính của Luận án, tác giả vận dụng phương pháp pháp
lý truyền thống trong việc tiếp cận và nghiên cứu các quy định liên quan đến việc bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và các văn bản pháp luật
quốc gia bao gồm Công ước Paris, Hiệp định TRIPs, Chỉ thị về thống nhất pháp luật nhãn
hiệu của EU, Quy chế về Nhãn hiệu cộng đồng của EU, Luật SHTT Việt Nam cũng như
pháp luật nhãn hiệu của một số quốc gia châu Âu cụ thể.
15

Ngoài ra, các án lệ cũng là một loại nguồn quan trọng được sử dụng trong Luận án nhằm
giải thích các quy định của pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng cũng như làm rõ cách thức
mà pháp luật được áp dụng trong từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, ở khía cạnh pháp
luật EU, thông qua việc nghiên cứu các vụ việc cụ thể như vụ General Motors
16

hay vụ
Davidoff
17
Luận án sẽ giúp người đọc hiểu được cách thức mà quy định tại Điều 4 và
Điều 5 của Chỉ thị về thống nhất pháp luật nhãn hiệu của EU được giải thích và áp dụng.
Ở khía cạnh của pháp luật Việt Nam, mặc dù không có nhiều vụ việc liên quan đến bảo
hộ nhãn hiệu nổi tiếng trên thực tế, nhưng tác giả cũng đã cố gắng giới thiệu và phân tích
15
For example, Article 6bis of the Paris Convention, the Article 16 of the TRIPs Agreement, the Article 4
and 5 of the Trade mark Directive, Article 8 and 52 of the Community Trade mark Regulation, Article 75
of the Vietnamese 2005 Law on Intellectual Property (as amended in 2009).
16
Case C-375/97, General Motors Corporation v. Yplon SA. See generally chapter 4 infra.
17
Case C-292/00, Davidoff &Cie SA, Zino Davidoff SA v. Gofkid Ltd,. See generally chapter 4 infra.
8
một số vụ việc điển hình như vụ McDonald’s
18
hay vụ Shangri-La
19
để làm sáng tỏ cách
thức mà cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được giải thích và vận hành ở Việt Nam.
Như vậy, phương pháp giáo điều pháp lý hay phương pháp pháp lý truyền thống được ưu
tiên sử dụng xuyên suốt toàn bộ nội dung của Luận án, đặc biệt là ở các chương 3 và 4.
Những phân tích và đánh giá thông qua việc sử dụng phương pháp này để nghiên cứu và
làm sáng tỏ các quy định của pháp luật và các án lệ ở chương 3 đóng vai trò đặc biệt quan
trọng đối với những sự so sánh được thực hiện ở chương 4 của Luận án.
Phương pháp pháp lý so sánh
Phương pháp pháp lý so sánh là phương pháp hữu hiệu trong nghiên cứu khoa học pháp
lý. Bắt nguồn từ những nền tảng lý luận ban đầu của một học giả nổi tiếng người Đức

20
,
phương pháp so sánh ngày càng được sử dụng phổ biến trong khoa học pháp lý. Phương
pháp pháp lý so sánh được hiểu là cách thức tiếp cận và phân tích những sự tương đồng
và khác biệt giữa các đối tượng nghiên cứu khác nhau hoặc giữa các phần khác nhau của
cùng một đối tượng nghiên cứu. Công cụ chính của phương pháp này chính là những sự
so sánh được thực hiện cả ở cấp độ vĩ mô lẫn vi mô. Ở cấp độ vĩ mô, sự so sánh được tiến
hành thông qua việc tiếp cận và nghiên cứu các hệ thống pháp luật hoặc các chế định
pháp luật khác nhau để đánh giá sự khác biệt và tương đồng ở góc độ khái quát. Ở cấp độ
vi mô, sự so sánh được thực hiện giữa các quy phạm pháp luật cụ thể liên quan đến
những vấn đề pháp lý cụ thể. Những sự so sánh đó cần phải được thực hiện trong sự liên
hệ tương hỗ với nhau trong quá trình nghiên cứu bởi vì mối quan hệ mật thiết giữa hai
cấp độ so sánh. Những nguồn tài liệu và thông tin cần được kết hợp và so sánh ở cả hai
cấp độ để có thể tìm ra và lý giải một cách chính xác những sự khác biệt và tương đồng
giữa các nguồn dữ liệu cụ thể khác nhau và tiếp đó là giữa cá hệ thống pháp luật khác
nhau. Nhiệm vụ chính của phương pháp pháp lý so sánh trong nghiên cứu khoa học pháp
lý là phải trả lời được các câu hỏi quan trọng, bao gồm: Đâu là sự khác biệt và tương
đồng giữa các vấn đề pháp lý đang được xem xét? Tại sao những khác biệt và tương đồng
đó tồn tại? Ý nghĩa của quá trình so sánh là gi?
Như đã xác định ngay trong tiêu đề và trong mục tiêu nghiên cứu, Luận án được xác định
là một công trình nghiên cứu so sánh. Do đó, phương pháp pháp lý so sánh được sử dụng
như là một phương pháp nghiên cứu chủ đạo xuyên suốt nội dung của Luận án. Tuy
nhiên, tùy thuộc vào phạm vi tiếp cận cụ thể của từng chương, phương pháp này được sử
dụng ở mức độ khát nhau ở những phần khác nhau. Phương pháp pháp lý so sánh đóng
vai trò quan trọng nhất trong nội dung của chương 4 bởi vì đây là chương tập trung chủ
yếu vào việc so sánh giữa hệ thống pháp luật của EU và Việt Nam liên quan đến vấn đề
bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Sau khi đã nghiên cứu cẩn thận hệ thống pháp luật của EU và
Việt Nam ở chương 3, chương 4 sẽ tiếp tục một cách hệ thống bằng việc so sánh các nội
18
McDonald’s Corporation v. an Australian Company relating to the registration of the trade mark

“McDonald’s” filed by the Australian Company, in 1992.
19
Shangri-La International Hotel Management Ltd, v. Phu Tho Joint Venture Co., in 1995.
20
Rudolph von Jhering, Der Geist des Romischen Rechts auf den verschiedenen Stufen seiner
Entwicklung, Part I, 9
th
Edition 1955 (1
st
edition 1852), pages 8-9. “The question of the reception of
foreign legal institutions is not a question of nationality, but simply one of expediency, of need. No one
will fetch a thing from abroad when he has as good or better as home; but only the fool will reject the
bark of the cinchona because it did not grow in his vegetable garden”.
9
dung cụ thể được quy định bởi hai hệ thống pháp luật để phân tích và lý giải những khác
biệt và tương đồng, những thành tựu và hạn chế của từng hệ thống. Sự so sánh được thực
hiện dựa trên những vấn đề pháp lý quan trọng liên quan đến cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng như cách thức xác định nhãn hiệu nổi tiếng, các căn cứ pháp lý của việc bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng, phạm vi bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng cũng như sự thực thi của
cơ chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Những phân tích so sánh được thực hiện ở
chương này sẽ trở thành nền tảng lý luận quan trọng cho những đề xuất, kiến nghị cho
Việt Nam trong chương tiếp theo (chương 5).
Phương pháp pháp lý lịch sử
Trong Luận án, phương pháp pháp lý lịch sử được sử dụng trong từng phần cụ thể ở từng
chương nhất định tùy thuộc vào nội dung của các vấn đề được giải quyết. Trước hết, cần
thiết phải thực hiện một nghiên cứu khái quát về quá trình phát triển mang tính lịch sử
của hệ thống pháp luật của EU và Việt Nam để cung cấp một cái nhìn tổng thể và một
bức tranh sơ lược về bối cảnh của hai hệ thống này. Theo đó, phương pháp pháp lý lịch
sử được sử dụng chủ yếu và trước hết ở các chương 1, 2 và 3 để tìm hiểu những nền tảng
lý luận cơ bản làm cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến đối tượng

nghiên cứu của Luận án. Ở cấp độ cụ thể hơn, phương pháp pháp lý lịch sử được vận
dụng trong quá trình phân tích các nội dung cụ thể được trình bày trong các chương.
Chẳng hạn, sự xem xét dưới góc độ lịch sử đối với sự ra đời và phát triển của học thuyết
về nhãn hiệu nổi tiếng thông qua các quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật các
quốc gia được trình bày ở chương 2, hay sự tìm hiểu ở khía cạnh lịch sử của học thuyết
về sự lu mờ nhãn hiệu được trình bày ở chương 4 đóng vai trò quan trọng trong việc tìm
hiểu và lý giải cơ chế pháp lý hiện tại về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở cấp độ quốc gia lẫn
quốc tế.
Phương pháp pháp lý kinh tế
Phương pháp pháp lý kinh tế được sử dụng một cách phù hợp trong Luận án để làm rõ
những vấn đề liên quan đến giá trị kinh tế, thương mại của những vấn đề pháp lý đang
được xem xét như ở c1c chương 1, 2, 4 và 5. Cụ thể, phương pháp pháp lý kinh tế phải
được xem xét đến khi giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan đến sự cần thiết phải mở
rộng phạm vi bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc khi xem xét, đánh giá giá trị
thương mại của nhãn hiệu, hoặc để xác định các hành vi xâm phạm nhãn hiệu trong các
vu kiện dựa trên thiệt hại về kinh tế.
Phương pháp pháp lý xã hội
Phương pháp pháp lý xã hội có vẻ ít quan trọng hơn so với các phương pháp nghiên cứu
khác. Tuy nhiên, pháp luật luôn tồn tại trong mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố xã hội
khác và dĩ nhiên sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ bởi các yếu tố đó. Do vậy, khi nghiên cứu và
giải quyết các vấn đề pháp lý cụ thể, cách thức thông thường được thực hiện là đặt chúng
trong các mối liên hệ xã hội nhất định để đánh giá sự tương tác giữa chúng với các yếu tố
khác. Cần thừa nhận rằng có nhiều sự khác biệt giữa các cộng đồng khác nhau trong việc
đánh giá một vấn đề pháp lý cụ thể do những điều kiện xã hội khác nhau tác động lên
chúng. Vì thế, nội dung của Luận án được giới hạn và xác định trong mối liên hệ biện
chứng giữa pháp luật và xã hội.
10
Phương pháp pháp lý xã hội được sử dụng trong những phần nhất định của Luận án khi
cần thiết đánh giá những tác động mang tính xã hội của các quy định của pháp luật.
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 4 và 5 khi so sánh hai hệ thống pháp

luật cũng như khi đề cập đến thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện nó.
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp
Tất cả các phương pháp nghiên cứu được đề cập ở trên đều cần thiết và hữu ích cho việc
đạt đến mục tiêu nghiên cứu của Luận án. Tuy nhiên, việc tiếp cận và nghiên cứu thực
tiễn của hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng vẫn là một thách thức
lớn vì thiếu thông tin thực tế liên quan đến sự vận hành của hệ thống nhãn hiệu Việt
Nam. Ở điểm này, có thể nói rằng việc gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với các chuyên gia làm
việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến quyền SHTT nói chung và hệ thống
nhãn hiệu nói riêng chính là một nguồn thông tin bổ sung quan trọng cho công trình
nghiên cứu. Vì vậy, trong suốt quá trình nghiên cứu của mình, tác giả đã thực hiện ít nhất
ba chuyến đi thực tế đến Hà Nội để gặp gỡ và thảo luận với các chuyên gia về SHTT của
Việt Nam. Tác giả đã có dịp trao đổi những vấn đề chuyên môn quan trọng với các
chuyên gia vận hành hệ thống nhãn hiệu ở Việt Nam của Cục SHTT và Bộ Khoa học và
Công nghệ. Ngoài ra, tác giả cũng được tiếp cận và học hỏi các kiến thức thực tế từ các
luật sư và các chuyên gia nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực SHTT. Nội dung của những
cuộc gặp gỡ và thảo luận đó được thiết kế dựa trên một danh mục các câu hỏi
21
giúp làm
sáng tỏ các vấn đề mang tính lý luận liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng cũng như để củng
cố và làm tăng tính thuyết phục của các kiến nghị, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật
về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được đưa ra ở chương 5 của Luận án.
1.5. Tình hình nghiên cứu
Trên bình diện quốc tế, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu được thực hiện liên
quan đến nhãn hiệu nổi tiếng, rất nổi tiếng và nhãn hiệu có danh tiếng. Luận án này được
thực hiện dựa trên những quan điểm và bình luận trong các sách chuyên khảo và cả các
tạp chí nghiên cứu pháp lý chuyên ngành. Công trình quan trọng đầu tiên phải được kể
đến là cuốn sách nổi tiếng thế giới của Frederick W. Mostert, Famous and well-known
marks – An international analysis.
22

Tác phẩm của Mostert không chỉ giá trị trong việc
tìm hiểu cách thức nhãn hiệu nổi tiếng được giải quyết ở cấp độ quốc gia trên toàn cầu
mà còn đi sâu vào những vấn đề pháp lý cụ thể hơn về nhãn hiệu nổi tiếng như định nghĩa
về nhãn hiệu nổi tiếng, tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng và rất nổi tiếng, và vấn đề
thực thi bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở cấp độ quốc gia lẫn quốc tế. Nguồn tài liệu quan
trọng tiếp theo có tểh kể đến là tác phẩm của Jeremy Phillips, Trademark Law: A
Practical Anatomy
23
vốn có thể được coi như là nền tảng lý luận quan trọng về pháp luật
nhãn hiệu nói chung. Nguồn tài liệu quan trọng thứ ba là cuốn sách của Christopher
Heath và Kung – Chung Liu, The protection of well-known marks in Asia.
24
Cuốn sách là
một tập hợp những nghiên cứu có giá trị về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được thực
21
See Appendix 1.
22
Frederick Mostert, Famous and Well-known Marks – An international Analysis, (Toronto Butterworth’s
1997). The second edition of the book was published in 2004.
23
Jeremy Phillips, Trade mark Law – A Practical Anatomy, (Oxford University Press 2003.)
11
hiện bởi một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ các quốc gia châu Âu và châu Á. Cuốn
sách không những giới thiệu hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng của từng
quốc gia châu Á mà đồng thời cung cấp một sự so sánh rất giá trị về cơ chế pháp lý bảo
hộ nhãn hiệu nổi tiếng giữa ba hệ thống pháp luật điển hình trên thế giới là hệ thống pháp
luật Hoa Kỳ, hệ thống pháp luật châu Âu và hệ thống pháp luật châu Á.
Trong phạm vi của Việt Nam, hiện nay vẫn còn khá ít tài liệu liên quan đến vấn đề nhãn
hiệu nổi tiếng. Khái niệm này được đề cập một cách hạn chế trong cuốn sách của Tiến sĩ
Lê Nết, Quyền Sở hữu trí tuệ (năm 2004). Trong Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Mai

Thanh, Những vấn đề pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam (2006) cũng đã tiếp cận một cách khái quát nhất về nhãn hiệu
nổi tiếng. Hoặc trong Luận văn thạc sĩ với đề tài Well-known trademarks versus dilutive
signs – A trans-Atlantic comparative analysis of protection schemes (2004),
25
Phạm
Thanh Trà đề cập đến vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng chống lại sự lu mờ nhãn hiệu
trên cơ sở so sánh giữa pháp luật EU và pháp luật Hoa Kỳ
26
Gần đây nhất có thể kề đến
công trình nghiên cứu của tác giả Hà Thị Nguyệt Thu, Well-known trademark protection
– Reference to the Japanese experience, (2010) được coi như là công trình nghiên cứu
chuyên sâu và tập trung chủ yếu vào vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Công trình
nghiên cứu này được thực hiện dựa trên sự so sánh giữa pháp luật Nhật Bản và pháp luật
Việt Nam.
Trong khi các vấn đề pháp lý phát sinh liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng và bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng được giải quyết một cách cơ bản trong các công trình khoa học thì trên
thực tế đây vẫn là một khái niệm còn khá mới ở Việt Nam. Vì vậy, tác giả cho rằng Luận
án này sẽ là một bước tiếp nối quan trọng trong công cuộc nghiên cứu và tìm hiểu về
nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam trên cả phương diện lý luận, phương diện lập pháp và
thực tiễn áp dụng pháp luật.
1.6. Bố cục của Luận án
Luận án được kết cấu thành năm phần, bao gồm Lời nói đầu (Chương 1) và bốn chương
chính. Sau phần giới thiệu chung ở Lời nói đầu, chương 2 của Luận án sẽ khắc họa một
cách khái quát bức tranh tổng thể về hệ thống lý luận liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng,
trong đó làm rõ khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng và những thuật ngữ liên quan trên phương
diện quốc gia và quốc tế. Chương này cũng đề cập đến vị trí, vai trò của cơ chế pháp lý
về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong hệ thống pháp luật về nhãn hiệu cũng như phân tích
sự tác động, ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa đối với vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng theo pháp luật quốc gia và theo pháp luật quốc tế.

Chương 3 của Luận án giới thiệu về hệ thống các thiết chế pháp lý quốc tế quan trọng
liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, bao gồm Công ước Paris 1883, Thỏa ước
Madrid 1891 và Nghị định thư, Hiệp định TRIPs năm 1994 và một số văn kiện pháp lý
24
Christopher Heath, Kung-Chung Liu, The protection of well-known marks in Asia, Max Planck Series
on Asian Intellectual Property Law, 2000.
25
Master Thesis 2003 – 2004, University of Leuven, Belgium, available at

26
Pham Thanh Tra, Well-known trade marks versus dilutive signs – A trans-Atlantic comparative analysis
of protection schemes, Master Thesis 2003 – 2004, University of Leuven, Belgium, page 5.
12
quốc tế khác có liên quan đến nhãn hiệu. Chương này đặc biệt chú trọng đến việc cung
cấp cho người đọc một cái nhìn toàn cầu về nhãn hiệu nổi tiếng và cơ chế bảo hộ chúng ở
khía cạnh lý luận lẫn trong công tác lập pháp. Chương 3 cũng tiếp cận và giới thiệu khái
quát hệ thống pháp luật nhãn hiệu nói chung và cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nói
riêng theo pháp luật của EU và Việt Nam. Theo đó, chương này sẽ giới thiệu sơ lược về
lịch sử phát triển của pháp luật nhãn hiệu trong phạm vi châu Âu cũng như hệ thống pháp
luật nhãn hiệu hiện hành của EU. Trong đó, một số hệ thống pháp luật nhãn hiệu của các
quốc gia điển hình cũng được đề cập đến như Anh, Pháp và Đức. Ngoài ra, chương 3
cũng dành một phần quan trọng để tìm hiểu và phân tích hệ thống pháp luật Việt Nam về
bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Sau khi đã giới thiệu hệ thống pháp luật về nhãn hiệu của
Việt Nam, ở chương này, Luận án tiếp tục đi vào phân tích các quy định pháp luật cụ thể
cũng như các vụ việc điển hình liên quan đến vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt
Nam theo pháp luật hiện hành.
Ở chương 4, các vấn đề pháp lý liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng sẽ được tiếp tục
đào sâu dựa trên sự so sánh được thực hiện giữa pháp luật EU và Việt Nam. Chương này
sẽ cung cấp những đánh giá và phân tích chi tiết về những sự tương đồng và khác biệt
giữa hai hệ thống pháp luật liên quan đến định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng, các tiêu chí

đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng và các căn cứ pháp lý của việc bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi
tiếng. Sự so sánh được thực hiện trên phương diện quy định của pháp luật cũng như
thông qua thực tiễn giải quyết của cơ quan có thẩm quyền.
Chương 5 của Luận án bắt đầu bằng việc nghiên cứu thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
ở Việt Nam. Chương này tập trung trước hết vào việc đánh giá cơ chế pháp lý hiện hành
về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam theo quy định của pháp luật. Những thành tựu
và hạn chế của hệ thống pháp luật được phân tích cả ở góc độ lập pháp lẫn trên phương
diện áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, dựa trên những kết quả so sánh của chương 4, ở
chương 5 Luận án sẽ đi sâu vào phân tích và đưa ra các giải pháp phù hợp cho việc củng
cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam
theo xu hướng chung của thế giới.
Phần kết luận đúc kết lại toàn bộ kết quả nghiên cứu của Luận án, không chỉ khẳng định
quan điểm khoa học của tác giả đối với từng vấn đề lý luận cụ thể mà còn mở ra những
vấn đề mới cho các công trình nghiên cứu tiếp theo, đồng thời đưa ra một số dự báo cho
sự phát triển của hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong tương lai.
13
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
2.1 Tổng quan về nhãn hiệu
Nhãn hiệu nổi tiếng trước tiên vẫn phải được xác định là nhãn hiệu như tất cả các nhãn
hiệu khác. Do vậy, trước khi tiếp cận nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nhãn hiệu
nổi tiếng, cần thiết phải có cái nhìn chung về pháp luật nhãn hiệu và phải đặt nhãn hiệu
nổi tiếng trong toàn bộ hệ thống pháp luật nhãn hiệu nói chung. Ở phần này, tác giả tập
trung giới thiệu một bức tranh tổng quát về nhãn hiệu và pháp luật nhãn hiệu với tư cách
là nền tảng lý luận cơ bản của cơ chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
2.1.1 Khái niệm nhãn hiệu
Nhãn hiệu là một yếu tố đặc trưng gắn liền giữa thị trường thương mại và lĩnh vực sở hữu
công nghiệp. Nó đã được sử dụng trong một thời gian dài bởi các nhà sản xuất cũng như
các thương nhân để xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hay dịch vụ của họ và phân
biệt những hàng hóa, dịch vụ đó với các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hay bán bởi các

chủ thể khác. Chức năng phân biệt nguồn gốc của hàng hóa hay dịch vụ luôn được xem là
yếu tố quan trọng nhất của nhãn hiệu. Vì vậy nó luôn đóng vai trò trung tâm và được đề
cập đến rất nhiều trong pháp luật về nhãn hiệu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nhãn hiệu có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
- Theo Davis Bainbridge, nhãn hiệu thông thường được định nghĩa bởi tòa án là
nhãn mác, dấu hiệu hay biểu tượng, mà chức năng đầu tiên và cơ bản của chúng là
để “xác định nguồn gốc hay quyền sở hữu đối với hàng hóa mang nó được gắn
vào”;
- Theo một định nghĩa được sử dụng trên trang web chính thức của Văn phòng
Nhãn hiệu và Sáng chế Hoa Kỳ (USPTO), nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ từ ngữ,
tên gọi, một biểu tượng hay hình vẽ hay bất kỳ sự kết hợp nào của chúng được sử
dụng, hoặc sẽ được sử dụng trong thương mại để xác định nguồn gốc hàng hóa và
phân biệt những hàng hóa đó với hàng hóa của các nhà sản xuất hoặc nhà phân
phối khác. Nói cách khác, nhãn hiệu có thể được hiểu như tên thương mại;
- Theo pháp luật nhãn hiệu EU, khái niệm nhãn hiệu được sử dụng thống nhất cho
cả hàng hóa và dịch vụ. Theo đó, “nhãn hiệu có thể bao gồm bất kỳ dấu hiệu nào
có thể được trình bày một cách vật chất và riêng biệt dưới dạng từ ngữ, bao gồm
tên riêng, các thiết kế, chữ cái, con số, hình dáng hay bao bì hàng hóa, có khả
năng phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của một chủ thể này với hàng hóa hay dịch
vụ của các chủ thể khác”;
- Theo quan điểm của Việt Nam, nhãn hiệu được định nghĩa một cách khái quát tại
Điều 4 (16) của Luật SHTT năm 2005 (bổ sung, sửa đổi năm 2009) là “dấu hiệu
để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”;
- Ở góc độ chung nhất, nhãn hiệu có thể được hiểu là bất kỳ dấu hiệu nào có thể
nhận biết được bao gồm từ ngữ, tên gọi, chữ cái, con số, biểu tượng, thiết kế, hình
14
vẽ hay bất kỳ sự kết hợp nào của chúng, và kiểu dáng hay bao bì hàng hóa được
sử dụng hoặc sẽ được sử dụng trong thương mại để xác định và phân biệt hàng
hóa hay dịch vụ của chủ thể này với hàng hóa hay dịch vụ của các chủ thể khác.
2.1.2 Chức năng của nhãn hiệu

Trong phần này, tác giả lý giải và phân tích một số chức năng quan trọng của nhãn
hiệu, xét cả ở góc độ lịch sử, kinh tế và các điều kiện xã hội có thể chi phối đến quá
trình hình thành và phát triển của nhãn hiệu. Các chức năng cơ bản đó bao gồm:
- Xác định nguồn gốc tự nhiên của hàng hóa và dịch vụ mang nhãn hiệu;
- Là sự đảm bảo cho nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ;
- Đảm bảo cho chất lượng của hàng hóa và dịch vụ;
- Được sử dụng như biểu tượng của chủ sở hữu nhãn hiệu;
- Được sử dụng như biểu tượng để quảng bá sản phẩm;
- Đôi khi được sử dụng như là đại diện cho phương châm sống của người tiêu dùng.
2.1.3 Đặc điểm của nhãn hiệu
- Tính phân biệt: Việc đăng ký đối với một nhãn hiệu sẽ bị từ chối và theo đó
quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu cũng sẽ không được bảo vệ nếu nhãn
hiệu không có tính phân biệt hoặc trong một số trường hợp tính phân biệt đó
không được thể hiện một cách rõ rang.
- Tính đa dạng: các dấu hiệu được xem xét như là nhãn hiệu luôn tồn tại dưới nhiều
hình thức khác nhau, như là những từ ngữ, tên gọi (bao gồm cả tên riêng), biểu
tượng, hình ảnh, âm thanh hay bất kỳ sự kết hợp nào của các yếu tố này, hình
dạng của hàng hóa (nhãn hiệu không gian ba chiều), màu sắc hay sự kết hợp các
màu sắc và bất kỳ một cái gì khác có thể được sử dụng để xác định những hàng
hóa hay dịch vụ được bán hay được cung cấp trên thị trường.
- Tính giá trị: Nhãn hiệu là một dạng tài sản rất quan trọng của chính doanh nghiệp.
Giá trị thương mại của nhãn hiệu có thể được xác định khi chính bản thân các
nhãn hiệu có thể được đưa vào lưu thông chuyển nhượng trên thị trườngnhãn hiệu
mà còn là một dạng tài sản rất quan trọng của chính doanh nghiệp. Giá trị thương
mại của nhãn hiệu có thể được xác định khi chính bản thân các nhãn hiệu có thể
được đưa vào lưu thông chuyển nhượng trên thị trường.
- Giới hạn lãnh thổ trong việc bảo hộ: Theo nguyên tắc giới hạn của lãnh thổ quốc
gia, một nhãn hiệu thông thường phải được đăng ký bảo hộ ở một quốc gia hay
một vùng lãnh thổ nhất định. Khi đó nó sẽ được bảo hộ bởi pháp luật của quốc gia
hay vùng lãnh thổ đó.

2.1.4 Nhãn hiệu và các đối tượng SHTT khác có liên quan
Ở phần này tác giả giới thiệu một cách khái quát những điểm khác biệt giữa nhãn
hiệu với các đối tượng khác liên quan để giúp phân biệt chúng trong từng bối cảnh cụ
thể.
- Nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ
15
- Nhãn hiệu và tên thương mại
- Nhãn hiệu và thương hiệu
- Nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý
- Nhãn hiệu và tên miền
2.2 Pháp luật về nhãn hiệu
Pháp luật về nhãn hiệu là một trong những hợp phần quan trọng của hệ thống pháp luật
về SHTT nói chung. Trong luận án này, tác giả tiếp cận và nghiên cứu những vấn đề cơ
bản nhất liên quan đến pháp luật về nhãn hiệu với tư cách là nền tảng lý luận trọng yếu để
từ đó đi sâu nghiên cứu các vấn đề pháp lý cụ thể liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng. Tại
phần này, tác giả chỉ tiếp cận pháp luật về nhãn hiệu một cách khái quát nhất, dựa trên hệ
thống lý luận cơ bản về pháp luật nhãn hiệu và đánh giá pháp luật nhãn hiệu trong cách
nhìn đa chiều, bao gồm khía cạnh lịch sử, kinh tế và cả ở góc độ xã hội.
2.2.1 Giới thiệu chung
Một bức tranh tổng thể về pháp luật nhãn hiệu được mô tả một cách khái quát từ lịch sử
hình thành và phát triển của những quy định pháp luật sơ khai có liên quan đến nhãn hiệu
từ thời Trung Cổ, đến sự ra đời của các quy phạm chuyên biệt dành riêng cho việc bảo hộ
nhãn hiệu, và những vụ việc điển hình được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết liên
quan đến tranh chấp nhãn hiệu. Đặc biệt trong phần này tác giả đề cập và lý giải mối
quan hệ hữu cơ giữa pháp luật nhãn hiệu hiện đại với các nền tảng pháp lý quan trọng của
truyền thống Luật chung (Common Law) ở các quốc gia phương Tây.
2.2.2 Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về nhãn hiệu
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu.
- Đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác và lợi ích của nhà
nước liên quan đến việc sử dụng và khai thác nhãn hiệu.

- Đảm bảo cầu nối thông tin hiệu quả giữa người tiêu dùng với sản phẩm mang
nhãn hiệu, giúp giảm thiểu chi phí và những phí tổn khác của người tiêu dùng
trong việc tiếp cận và chọn lựa đúng sản phẩm mình cần.
- Đảm bảo môi trường cạnh tranh thương mại công bằng và lành mạnh giữa các nhà
sản xuất, phân phối hàng hóa và dịch vụ.
2.2.3 Pháp luật nhãn hiệu và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan
- Pháp luật về nhãn hiệu là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật về
SHTT nói chung. Nó có mối quan hệ tương tác chặt chẽ với các lĩnh vực pháp
luật khác như pháp luật về sáng chế, pháp luật về bản quyền
- Pháp luật về nhãn hiệu có cùng mối quan tâm với pháp luật thương mại nói chung
và luật thương mại quốc tế nói riêng vì nó phải đề cập đến những khía cạnh
thương mại của việc sử dụng, khai thác và bảo hộ nhãn hiệu.
- Pháp luật về nhãn hiệu cũng có mối liên hệ chặt chẽ với pháp luật cạnh tranh.
2.3 Nhãn hiệu nổi tiếng
16
Sau khi tiếp cận và giới thiệu một cách khái quát nhất về nhãn hiệu và pháp luật nhãn
hiệu như đã trình bày ở trên, luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu và phân tích những vấn đề
pháp lý và lý luận quan trọng liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng và vấn đề bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng. Trong phần này, tác giả tập trung giải quyết các vấn đề cụ thể như học
thuyết về nhãn hiệu nổi tiếng, khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng, đặc điểm của nhãn hiệu nổi
tiếng, vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong bối cảnh toàn cầu hóa Đặc biệt, tác giả
đã mở rộng phạm vi tiếp cận một cách hợp lý nhằm đưa ra một cái nhìn toàn cầu về nhãn
hiệu nổi tiếng mà không chỉ giới hạn trong phạm vi của EU và Việt Nam. Một số hệ
thống pháp luật, theo đó, cũng được tiếp cận và giới thiệu một cách cơ bản như pháp luật
của Hoa Kỳ hay pháp luật Nga, Nhật Bản, Trung Quốc
2.3.1 Cơ sở lý luận
Quá trình toàn cầu hóa và tự do hóa hệ thống thương mại thế giới cũng như sự phát triển
như vũ bão của khoa học công nghệ đã khiến cho các nguyên tắc truyền thống của pháp
luật nhãn hiệu trở nên bị hạn chế, đặc biệt là nguyên tắc lãnh thổ quốc gia được áp dụng
để xác định phạm vi bảo hộ.

Sự ra đời của học thuyết về nhãn hiệu nổi tiếng đòi hỏi hệ thống pháp luật nhãn hiệu trên
toàn cầu phải có những chuyển đổi phù hợp, đáp ứng yêu cầu bảo hộ một cách hiệu quả
và kịp thời đối với loại nhãn hiệu đặc biệt này.
2.3.2 Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng
Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng được đề cập một cách chính thức tại Điều 6bis Công ước
Paris 1883. Tuy nhiên, Công ước lại không đưa ra bất kỳ định nghĩa chính thức rõ ràng
nào về nhãn hiệu nổi tiếng. Cụm từ “nhãn hiệu nổi tiếng” trong Điều 6bis Công ước Paris
được chuyển ngữ sang các ngôn ngữ khác nhau với những sự khác biệt trong cách thể
hiện nội dung của thuật ngữ này như “marque notoirement connue”, “notorisch bekannte
marke”, “marchio notoriamente conosciuto”, or “marca notoriamente conocida”.
Theo Hiệp định TRIPs, khái niệm “nhãn hiệu nổi tiếng” không chỉ được sử dụng cho đối
tượng là hàng hóa mà còn được sử dụng cho cả các đối tượng dịch vụ, và Hiệp định cũng
ghi nhận một số căn cứ chung để xác định một nhãn hiệu hàng hóa có phải là nổi tiếng
hay không
27
. Ngoài ra, Hiệp định cũng mở rộng phạm vi các nhãn hiệu nổi tiếng được
bảo hộ, bao gồm cả các nhãn hiệu được coi là rất nổi tiếng. Tuy nhiên, cũng giống như
Công ước Paris, Hiệp định TRIPs cũng không đưa ra bất kỳ một định nghĩa chính thức
nào về “nhãn hiệu nổi tiếng”.
Một số điều ước quốc tế khác cũng có đề cập đến nhãn hiệu nổi tiến trong những chừng
mực nhất định nhưng hầu như cũng không có bất kỳ một định nghĩa chính thức nào được
ghi nhận về loại nhãn hiệu này. Do vậy, định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng thường sẽ
được ghi nhận trong pháp luật nội địa của mỗi quốc gia. Trong khi đó, pháp luật của các
quốc gia vẫn còn khác biệt rất lớn, cho nên cách hiểu về nhãn hiệu nổi tiếng khó có thể
đạt được sự thống nhất.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhãn hiệu nổi tiếng được hiểu là “nhãn hiệu được
người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam” (khoản 20 – Điều 4 – Luật
SHTT 2005). Để làm rõ thêm khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng, pháp luật Việt Nam đã đưa
27
Điều 16.2. Hiệp định TRIPS.

17
ra các tiêu chí cơ bản làm chuẩn mực xem xét đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng tại Điều 75 –
Luật SHTT 2005 và được cụ thể hóa tiếp tục tại Mục 5 – Thông tư 01/2007.
2.3.3 Đặc điểm của nhãn hiệu nổi tiếng
- Sự nổi tiếng của nhãn hiệu
- Giá trị thương mại cao
- Thời gian sử dụng liên tục và lâu dài
- Được sử dụng phổ biến
- Là đối tượng dễ bị xâm phạm
2.4 Nhãn hiệu nổi tiếng trong hệ thống thương mại toàn cầu
Hiện nay, toàn cầu hóa được xem như là xu hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế thế
giới. Tuy nhiên, ý nghĩa của toàn cầu hóa không chỉ giới hạn trong phạm vi lĩnh vực kinh
tế mà nó còn liên quan và tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, bao
gồm cả hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về sở hữu trí tuệ nói riêng của mỗi
quốc gia. Trong đó, tác động quan trọng nhất của nó đối với lĩnh vực pháp luật về sở hữu
trí tuệ chính là sự xuất hiện và nhu cầu thiết thực của một hệ thống thông tin toàn cầu
hóa. Để có được sự phân tích đầy đủ và toàn diện đối với vấn đề này trên bình diện các
thiết chế pháp lý và quyền sở hữu trí tuệ trong nước và quốc tế thực sự là một sự nổ lực
to lớn. Và điểm bắt đầu lý tưởng nhất cho quá trình đó chính là việc xác định các thành tố
quan trọng của vấn đề bao gồm: toàn cầu hóa, tự do thông tin và quyền sở hữu trí tuệ.
Các rào cản chính trị luôn là những thách thức lớn nhất đối với các nhà lập pháp trên thế
giới trong việc tìm kiếm một thiết chế pháp lý chung hiệu quả cho vấn đề bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, những sự khác biệt về văn hóa, tôn
giáo và các điều kiện xã hội khác cũng là những vấn đề quan trọng mà các quốc gia đang
phải đối mặt trong quá trình hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật của mình. Rõ
ràng là những tác động, ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hóa đối với các hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật về sở hữu trí tuệ nói riêng thể hiện ở nhiều phương diện khác
nhau, bao gồm cả các tác động tích cực lẫn những ảnh hưởng tiêu cực.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, cùng với sự lưu chuyển mạnh mẽ của nguồn vốn
đầu tư từ các quốc gia phát triển đến các quốc gia đang và kém phát triển, nhãn hiệu nổi

tiếng cũng được nhập khẩu đến các thị trường đó. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về sở
hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng ở các quốc gia này thường
còn rất yếu và chưa hoàn thiện. Điều này vô hình chung sẽ mang lại những đe dọa đối với
các nhà đầu tư nước ngoài. Họ có thể sẽ trở thành nạn nhân của nạn đánh cắp nhãn hiệu
của các doanh nghiệp địa phương.
Một khía cạnh khác của toàn cầu hóa thương mại chính là xu hướng chuyên môn hóa.
Theo đó, một sản phẩm hàng hóa có thể được sản xuất từng phần ở nhiều quốc gia khác
nhau, điều này dẫn đến hệ quả là ngay bên trong một sản phẩm có thể chứa đựng cùng
lúc nhiều nhãn hiệu và các nhãn hiệu này tồn tại song song và gắn liền với nhãn hiệu bên
ngoài của sản phẩm. Trong điều kiện như thế, việc bảo hộ đối với từng nhãn hiệu sẽ trở
nên phức tạp và khó khăn hơn.
18
Thêm vào đó, sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, sự phổ biến của mạng
internet toàn cầu, việc khai thác hệ thống vệ tinh nhân tạo cũng như sự gia tăng cả về chất
lẫn về lượng của các kênh thông tin truyền thông giúp kết nối người tiêu dùng với nhãn
hiệu và sản phẩm mang nhãn hiệu ngày càng trở nên nhanh chóng và hiệu quả hơn. Một
nhãn hiệu thông thường vì thế sẽ có nhiều cơ may trở nên nổi tiếng một cách nhanh
chóng. Điều này cũng mang lại thách thức không nhỏ cho việc bảo hộ các nhãn hiệu như
thế bởi vì các nguyên tắc pháp lý truyền thống đôi khi không thể phát huy hết tác dụng
của mình. Do vậy, trong bối cảnh hiện đại, nhu cầu xây dựng và phát triển một cơ chế
pháp lý chung mang tính toàn cầu nhằm bảo hộ hiệu quả nhãn hiệu nói chung và nhãn
hiệu nổi tiếng nói riêng ngày càng trở nên thiết yếu.
CHƯƠNG 3
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
3.1 Các thiết chế pháp lý quốc tế
3.1.1 Công ước Paris 1883
Điều 6bis Công ước Paris cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng được quyền ngăn
chặn việc đăng ký hoặc sử dụng một nhãn hiệu nếu nhãn hiệu đó “Cấu thành một sự sao
chép, bắt chước, hoặc biên dịch, có khả năng gây nhầm lẫn, về một nhãn hiệu do cơ quan
có thẩm quyền của nước đăng ký hoặc nhãn hiệu được sử dụng xem xét là nổi tiếng tại

nước đó vì nhãn hiệu đã thuộc về người có quyền đối với các lợi ích của Công Ước Paris
và dùng cho hàng hóa giống nhau hoặc tương tự. Các quy định này cũng sẽ được áp dụng
khi phần chính yếu của nhãn hiệu hợp thành hành vi sao chép đối với bất kỳ nhãn hiệu
nổi tiếng đó hoặc một sự sao chép có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng”.
Công Ước Paris cũng quy định thời hiệu yêu cầu hủy việc đăng ký một nhãn hiệu mà bị
coi là có nguy cơ gây nhầm lẫn cũng như một nhãn hiệu được đăng ký và sử dụng gian
dối hay có dụng ý xấu. Theo đó, các chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng có năm năm để yêu
cầu xóa hoặc hủy bỏ việc đăng ký một nhãn hiệu do bất kỳ bên thứ ba nào thực hiện, còn
đối với trường hợp gian dối hay có dụng ý xấu thì các chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng có
thể yêu cầu xóa hoặc hủy bỏ việc đăng ký của bên thứ ba đối với bất kỳ nhãn hiệu tương
tự nào tại bất kỳ thời điểm nào miễn là họ có bằng chứng tích cực chứng minh rằng việc
đăng ký hoặc sử dụng đó đã được thực hiện gian lận do lợi dụng sự nổi tiếng của nhãn
hiệu nổi tiếng.
Ngoài ra, Điều 10 Công ước Paris cũng ghi nhận các trường hợp sử dụng nhãn hiệu nhằm
mục đích cạnh tranh không lành mạnh. Cụ thể, các hành vi sau đây sẽ bị coi là cạnh tranh
không lành mạnh và bị ngăn cấm:
- tất cả các hành vi có tính chất gây nhầm lẫn bằng bất kỳ hình thức nào có liên
quan đến cơ sở, hàng hóa, hoặc các hoạt động công nghiệp hoặc thương mại, của
đối thủ cạnh tranh;
19
- các lý lẽ sai trái trong hoạt động thương mại có tính chất làm mất uy tín cơ sở,
hàng hóa, hoặc các hoạt động công nghiệp hoặc thương mại, của đối thủ cạnh
tranh;
- các chỉ dẫn hoặc chú giải sử dụng trong hoạt động thương mại có khả năng lừa
dối công chúng về tính chất, quy trình sản xuất, đặc điểm, tính phù hợp về mục
đích của họ, hoặc số lượng, của hàng hóa.
Do vậy, Công Ước Paris quy định việc bảo hộ một nhãn hiệu nổi tiếng tại một nước kể cả
khi nhãn hiệu đó chưa được sử dụng hoặc đăng ký tại nước đó nếu có bằng chứng thể
hiện một bên thứ ba đăng ký hoặc sử dụng nhãn hiệu giống hoặc tương tự đối với hàng
hóa tương tự; và/hoặc sử dụng nhãn hiệu giống hoặc tương tự theo hình thức dẫn đến

hành vi cạnh tranh không công bằng (ví dụ: lừa dối công chúng).
3.1.2 Hiệp định TRIPs
Các vấn đề liên quan việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại Điều 16 TRIPS.
Các quy định này căn cứ theo các quy định của Công Ước Paris dẫn chiếu cụ thể Điều
6bis. Tuy nhiên, TRIPS đã điều chỉnh Điều 6bis Công Ước Paris một cách hiệu quả bằng
cách quy định bổ sung các quy định của Điều 6bis.
- Thứ nhất, việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng có thể được áp dụng cho cả hàng hóa và
dịch vụ.
28
Việc mở rộng này là một trong các quy định quan trọng nhất của TRIPS
được áp dụng theo Công Ước Paris bởi vì các nhãn hiệu dịch vụ ngày càng trở
nên quan trọng trong thương mại quốc tế và đóng góp vào sự phát triển của hệ
thống thương mại toàn cầu.
- Thứ hai, để xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, quốc gia thành viên
phải xem xét đến việc có được sự biết đến của công chúng về nhãn hiệu đó trong
lĩnh vực liên quan, bao gồm việc có được sự biết đến của quốc gia thành viên có
liên quan từ hệ quả của việc quảng bá nhãn hiệu.
29
- Thứ ba, việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cũng có thể được áp dụng đối với nhãn
hiệu kể cả trường hợp nhãn hiệu áp dụng là hàng hóa hoặc dịch vụ không giống
hoặc tương tự với hàng hóa hoặc dịch vụ đối với nhãn hiệu được đăng ký.
30
Theo
đó, thẩm quyền của các Quốc Gia Thành Viên phải từ chối hoặc hủy bỏ đơn hoặc
đăng ký nhãn hiệu đối với hàng hóa hoặc dịch vụ nếu việc đăng ký đó có khả
năng gây thiệt hại đến lợi ích của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng ngay cả trường
hợp không có bất kỳ điểm giống hoặc tương tự giữa hàng hóa hoặc dịch vụ đó.
3.1.3 Các thiết chế pháp lý khác
- Thỏa ước Madrid 1891
- Nghị định thư Madrid

- Khuyến nghị của WIPO
- Hiệp ước về luật nhãn hiệu 1994
28
TRIPs Agreement – Part II – Section 2 – Article 16 – Paragraph 1.
29
TRIPs Agreement – Part II – Section 2 – Article 16 – Paragraph 2.
30
TRIPs Agreement – Part II – Section 2 – Article 16 – Paragraph 3.
20
- Hiệp ước Singapore về luật nhãn hiệu
- Hiệp định ACTA
3.2 Hệ thống pháp luật của EU
3.2.1 Giới thiệu chung về pháp luật nhãn hiệu của EU
3.2.2 Nhãn hiệu nổi tiếng ở châu Âu
- Pháp luật nhãn hiệu trước khi Chỉ thị về nhãn hiệu được ban hành
Trước khi có Chỉ Thị Nhãn Hiệu, nhãn hiệu chỉ được bảo hộ theo pháp luật quốc gia
chủ yếu nhấn mạnh khả năng gây nhầm lẫn giữa các nhãn hiệu có thể tạo xung đột.
Khả năng gây nhầm lẫn đó có liên quan đến các điểm giống nhau giữa các nhãn hiệu.
Tuy nhiên, chưa có có tiêu chuẩn Châu Âu chung nào để xác định khả năng gây nhầm
lẫn tại thời điểm này bởi vì thiếu quy định pháp luật để có thể áp dụng thống nhất
toàn Châu Âu. Một số câu hỏi quan trọng liên quan đến vấn đề này được đặt ra nhưng
chưa được giải quyết thỏa đáng như có phải khả năng gây nhầm lẫn chỉ bao gồm nhãn
hiệu tương tự? hoặc có nên mở rộng cả nhãn hiệu giống nhau? tính tương tự và giống
nhau được định nghĩa như thế nào? Vị trí tương quan giữa nhãn hiệu nổi tiếng hoặc
rất nổi tiếng hoặc nhãn hiệu có danh tiếng là gì? Tại giai đoạn đó, mặc dù các điều
ước quốc tế, như Công Ước Paris đóng vai trò quan trọng tại Châu Âu, nhưng khung
pháp lý quốc tế chỉ quy định các nguyên tắc chung và tiêu chuẩn cơ bản. Thể chế
pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu tại các nước Châu Âu phần lớn phụ thuộc vào pháp luật
quốc gia. Việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng hoặc rất nổi tiếng được quy định theo cấp
độ quốc gia mà không có bất kỳ sự phối hợp toàn diện nào.

- Quá trình thống nhất hóa pháp luật nhãn hiệu trong phạm vi EU
Với việc thông qua Chỉ thị về thống nhất hóa pháp luật nhãn hiệu của Châu Âu năm
1989
31
, và Quy chế về nhãn hiệu cộng đồng năm 1993
32
, pháp luật nhãn hiệu của EU
đã được thay đổi đáng kể. Cả hai Chỉ thị về thống nhất hóa pháp luật nhãn hiệu của
Châu Âu và Quy chế về nhãn hiệu cộng đồng đã giải quyết nhiều câu hỏi quan trọng
về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Các quy định của Chỉ thị này nêu rõ rằng các quy định
đó là “hoàn toàn phù hợp” với Công ước Paris,
33
bảo đảm toàn bộ các quy đinh của
Công ước Paris được áp dụng trong phạm vi EU.
Sau khi được hài hòa hóa theo Chỉ thị về thống nhất hóa pháp luật nhãn hiệu và được
bổ sung bằng Quy chế về nhãn hiệu cộng đồng, pháp luật của EU hiện nay đã được
tiêu chuẩn hóa và áp dụng thống nhất tại toàn bộ các quốc gia thành viên EU.
31
Directive 89/104 EC of 21 December 1988, OJ L 40/1, 11 February 1989.
32
The Council Regulation (EC) 40/94 of 10 December 1993 on the Community Trade mark, OJ L 011,
14.1.1994.
33
The final recital to the Preamble of Directive 89/104 states:
“Whereas all Member States of the Community are bound by the Paris Convention for the Protection of
Industrial Property; whereas it is necessary that the provisions of this Directive are entirely consistent
with those of the Paris Convention; whereas the obligations of the Member States resulting from this
Convention are not affected by this Directive; whereas, where appropriate, the second subparagraph of
Article 234 of the Treaty is applicable”.
21

3.2.3 Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong khuôn khổ EU
- Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng thông qua các điều ước quốc tế
Hệ thống pháp luật EU về bảo hộ nhãn hiệu luôn chặt chẽ gắn liền với điều ước quốc
tế bao gồm Công ước Paris, Hiệp định TRIPs, Thỏa ước Madrid. Các nguyên tắc và
quy định của những công ước và hiệp định này là một bộ phận quan trọng của pháp
luật Châu Âu và pháp luật của các Quốc Gia Thành Viên. Do vậy, về nguyên tắc, việc
bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở EU trước hết phải tuân thủ và thống nhất với các quy
định và nguyên tắc đó.
- Bảo hộ trực tiếp theo quy định của pháp luật của EU
Pháp luật của EU liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng bao gồm Chỉ thị về
thống nhất hóa pháp luật nhãn hiệu của Châu Âu và Quy chế về nhãn hiệu cộng đồng.
Trong đó:
Chỉ thị về thống nhất pháp luật nhãn hiệu của Châu Âu xác định phạm vi các quyền
được trao thông qua việc đăng ký trong mối liên hệ với các quyền có trước. Khoản 3
Điều 4 giải quyết vấn đề bảo hộ một Nhãn hiệu cộng đồng trước sự lu mờ của nhãn
hiệu đó
34
; Điểm a khoản 4 Điều 4 bảo hộ nhãn hiệu quốc gia trước sự lu mờ của nhãn
hiệu đó
35
; và Điều 5 xác định các quyền được trao thông qua việc đăng ký.
36
Quy chế về Nhãn hiệu cộng đồng của Châu Âu quy định các cơ sở để từ chối việc
đăng ký nhãn hiệu mới và hủy bỏ các nhãn hiệu đã đăng ký thuộc phạm vi quy định
tại Điều 8 và Điều 52 của Quy chế.
37
34
Article 4 (3) – Trademark Directive states: A trademark shall furthermore not be registered or, if
registered, shall be liable to be declared invalid if it is identical with, or similar to, an earlier Community
trademark within the meaning of paragraph 2 and is to be, or has been, registered for goods or services

which are not similar to those for which the earlier Community trademark is registered, where the earlier
Community trademark has a reputation in the Community and where the use of the later trademark
without due cause would take unfair advantage of, or be detrimental to, the distinctive character or the
repute of the earlier Community trademark.
The meaning of “earlier trademark” should be understood as provided in Article 4(2): … (d) trade marks
which, on the date of application for registration of the trade mark, or, where appropriate, of the priority
claimed in respect of the application for registration of the trade mark, are well known in a Member
State, in the sense in which the words 'well known' are used in Article 6 bis of the Paris Convention.
35
Article 4(4)(a) states: The trade mark is identical with, or similar to, an earlier national trade mark within
the meaning of paragraph 2 and is to be, or has been, registered for goods or services which are not
similar to those for which the earlier trade mark is registered, where the earlier trade mark has a
reputation in the Member State concerned and where the use of the later trade mark without due cause
would take unfair advantage of, or be detrimental to, the distinctive character or the repute of the earlier
trade mark.
36
Article 5(2) – of the Trade mark Directive provides: Any Member State may also provide that the
proprietor shall be entitled to prevent all third parties not having his consent from using in the course of
trade any sign which is identical with, or similar to, the trade mark in relation to goods or services which
are not similar to those for which the trade mark is registered, where the latter has a reputation in the
Member State and where use of that sign without due cause takes unfair advantage of, or is detrimental
to, the distinctive character or the repute of the trade mark.
37
Article 8 of the Community Trade mark Regulation provides the relative grounds of refusal of
Community Trade mark registrations, while the Article 52 states the grounds applied for invalidating or
22
Nhìn chung, pháp luật nhãn hiệu Châu Âu có rất ít quy định cụ thể về việc bảo hộ
nhãn hiệu rất nổi tiếng hoặc nhãn hiệu nổi tiếng xem như một mục riêng về vấn đề
pháp lý.
38

Vì vậy, các quy định về bảo hộ nhãn hiệu rất nổi tiếng hoặc nhãn hiệu nổi
tiếng nên được áp dụng ở cấp độ quốc tế (văn bản pháp luật quốc tế và quy định khu
vực) và cấp độ quốc gia.
- Bảo hộ theo pháp luật từng quốc gia thành viên
Dù mục tiêu nghiên cứu của Luận án không nhằm đến việc phân tích các quy định cụ
thể của các quốc gia cụ tểh của EU, nhưng trong phạm vi nỗ lực khắc họa một bức
tranh tổng thể về pháp luật của Liên minh, tác giả cũng đề cập một cách hạn chế đến
một số hệ thống pháp luật điển hình, chẳng hạn pháp luật Vương quốc Anh, pháp luật
của Đức và pháp luật của Pháp.
- Một số án lệ quan trọng:
Vụ kiện C-251/95, SABEL BV v. Puma AG, Rudolf Dassler Sport
Vụ kiện C-375/97, General Motors Corporation kiện Yplon SA
Vụ kiện C-292/00, Davidoff & Cie SA, Zino Davidoff SA kiện Gofkid Ltd
Vụ kiện C-408/01, Adidas-Salomon AG, trước đây là Adidas AG, Adidas
Benelux BV kiện Fitnessworld Trading Ltd
Vụ kiện C-328/06, Alfredo Nieto Nuño kiện Leonci Monlleó Franquet
Vụ kiện C-252/07, Intel Corporation Inc. kiện CPM United Kingdom Ltd…
3.3 Nhãn hiệu nổi tiếng trong pháp luật Việt Nam
3.3.1 Tổng quan về pháp luật nhãn hiệu Việt Nam
- Giới thiệu chung
- Sơ lược về pháp luật nhãn hiệu của Việt Nam
- Đăng ký nhãn hiệu
- Thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu
3.3.2 Pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
- Nguyên tắc bảo hộ: việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam được thực hiện
dựa trên các nguyên tắc pháp lý cơ bản, bao gồm bảo hộ thông qua các điều ước
quốc tế, bảo hộ trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại và bảo hộ không qua đăng ký.
- Khái niệm về nhãn hiệu nổi tiếng: (Điều 4(20) – Luật SHTT 2005). Từ góc độ lập
pháp cho thấy việc ban hành thuật ngữ nhãn hiệu nổi tiếng là không khả thi tại
Việt Nam. Hơn nữa, thuật ngữ “nhãn hiệu nổi tiếng” cũng hiếm khi được sử dụng.

Tại các văn bản pháp luật trong nước cũng không có thuật ngữ “nhãn hiệu nổi
cancelling the registered community trade marks. More details of the issue will be made clear in the next
chapter.
38
Pier Luigi Ronaglia, “Should we use guns and missiles to protect famous trade marks in Europe?”
(1998) TMR 551, page 88. Also see: Jeremy Phillips, Trade mark Law – A Practical Anatomy, (Oxford
University Press 2003), page 403, paragraph 12.31.
23
tiếng”. Dường như hiện nay không có sự phân biệt giữa khái niệm nhãn hiệu “nổi
tiếng” và khái niệm nhãn hiệu “rất nổi tiếng”. Tuy nhiên, việc phân biệt giữa hai
khái niệm này đã được thực hiện. Dưới sự phân biệt đó, nhãn hiệu nổi tiếng được
xem là có thứ tự cao hơn so với nhãn hiệu được biết đến rộng rãi. Điều này có
nghĩa là thuật ngữ “rất nổi tiếng” có thể được hiểu là “nổi tiếng”. Tuy nhiên, thuật
ngữ này ít khi được đề cập trong tiền lệ. Ngoài ra, tại Việt Nam, thuật ngữ “nhãn
hiệu được công nhận và sử dụng rộng rãi” cũng đã được sử dụng trong những
trường hợp nhất định để chỉ các nhãn hiệu có uy tín hoặc được biết đến rộng rãi là
không đủ nổi tiếng để được xem là nhãn hiệu nổi tiếng hoặc rất nổi tiếng.
- Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng: (Điều 75 – Luật SHTT 2005 và Mục 5 –
Thông tư 01/2007).
- Căn cứ bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng: Việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam
được thực hiện dựa trên các căn cứ pháp lý cơ bản bao gồm: sự tương tự đến mức
gây nhầm lẫn giữa dấu hiệu đăng ký với nhãn hiệu nổi tiếng, sự sử dụng các dấu
hiệu tương tự có khả năng làm phai mờ các dấu hiệu riêng biệt hoặc làm giảm
hoặc gây tổn hại đến uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng, nguyên tắc về sự gian dối hay
có dụng ý xấu.
- Thời hạn bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng:
• Trước đây: vô thời hạn (Nghị định 63/CP 1996 được bổ sung sửa đổi bởi Nghị
định 06/2001/NĐ-CP)
• Hiện nay: không quy định.
3.3.3 Thực thi bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng

- Quy định của pháp luật
- Tự bảo vệ
- Khiếu nại hành chính
- Khởi kiện dân sự
- Truy tố hình sự
- Một số tiền lệ:
Vụ kiện “McDonald’s”
39

Vụ kiện “Pizza Hut”
40
Vụ kiện “SHANGRI-LA”
Vụ kiện “TEMPO”
41
39
McDonald’s Corporation v. OPHIX GROUP (Australia) relating to the registration of the trademark
“McDonald’s filed by Australian Company, in 1992.
40
OPHIX GROUP (Australia) v. the Pizza Hut International, LLC (United States) concerning the
registration of the trademark "Pizza Hut", in 1993.
41
Vereinigte Papierwerke Co. (Germany) v. Tam Huu Co. (Vietnam) in 1999.
24
Vụ kiện “CAMEL”
42
Vụ kiện “DUXIL”
43
Vụ kiện “SUPER MAXILITE”
44
Vụ kiện “X-MEN”

45
Vụ kiện “CAMEL” năm 2009
46
Vụ kiện “COVERSYL”
47
CHƯƠNG 4
PHÂN TÍCH SO SÁNH GIỮA PHÁP LUẬT EU VÀ VIỆT
NAM VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
4.1 Vấn đề xác định nhãn hiệu nổi tiếng
4.1.1 Định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng
- Giống nhau:
• Cả pháp luật Việt Nam và EU đều xác định cách hiểu về khái niệm nhãn hiệu nổi
tiếng dựa trên quy định của Điều 6bis Công ước Paris.
• Phạm vi nổi tiếng của nhãn hiệu được công nhận trong giới hạn lãnh thổ quốc gia
(Việt Nam) hay trong phạm vi lãnh thổ các quốc gia thuộc Liên minh (EU). Nếu
nhãn hiệu nổi tiếng ở ngoài giới hạn đó, về nguyên tắc sự nổi tiếng đó sẽ không
được công nhận và bảo hộ.
42
Reynolds Tobacco Co. (US) v. Viet Cuong Co. (Vietnam) concerning the use of the trademark
“CAMEL” for tyres by Viet Cuong Co., in 1997.
43
BIOFARMA Co. v. SANOFI VN Co. as regards the request of the plaintiff to cancel the certification of
registration No. 21780 granted for the trademark “DEXYL” (confusingly similar to the wide used and
recognized trademark “DUXIL” of BIOFARMA CO.) of the SANOFI VN Co., Decision No. 405/QĐ-
BKHCNMT dated April 5, 2001.
44
Imperial Chemical Industries Plc (ICI) (UK) v. The Nippon Paint Vietnam concerning the registration
and use of the trademark ”SUPER MAXILITEX” of the Nippon Paint Vietnam which was considered as
confusingly similar to the trademark ”SUPER MAXILITE” of the ICI. Decision No. 2178/QĐ-
BKHCNMT dated October 12, 2001.

45
Marvel Characters Inc. v. International Household Products Co. Ltd concerning the request of cancelling
the registration of the “X-MEN” trademark, the Application No. 2006-00072 filed August 8, 2006; the
Decision No. 93/QĐ-SHTT of the NOIP dated January 22, 2008; the Official Letter of the State
Inspection of the Ministry of Science and Technology dated July 14, 2008; the case is presently under
consideration in the Ha Noi People’s Court.
46
TJT Corporation v. C.A.M.E.L Co. concerning the registration and use of the trademark “M CAMEL”
of C.A.M.E.L. Co. which is claimed to infringe the rights of the well-known trademark “CAMEL” of JT
Corporation, Decision No. 2007/QĐ-SHTT of the NOIP dated October 14, 2009.
47
Biofarma Co. V. Shinpoong Daewoo VN Co. concerning the trademark COVERSYL, Official Letter
No. 956/SHTT-TTKN dated May 20, 2010 of the NOIP.
25

×