Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Mối quan hệ giữa hiệu quả kỹ thuật, rủi ro và vốn bằng chứng thực nghiệm của hệ thống ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.67 MB, 85 trang )

i

TÓM TẮT
Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang đối mặt với những thách
thức rất lớn trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Để vượt qua những thách
thức hiện tại, các ngân hàng cần phải giảm rủi ro đến mức tối thiểu, đồng thời phải
xây dựng tấm đệm vốn chủ sở hữu đủ dày để có thể an toàn vượt qua giai đoạn khủng
hoảng. Và đặc biệt hơn là gia tăng hiệu quả hoạt động lên mức tối đa. Như vậy, để
thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện tại một cách nhanh chóng thì ba yếu tố cần được
các ngân hàng chú trọng là hiệu quả, rủi ro và vốn chủ sở hữu.
Thông qua các phương pháp đánh giá hiệu quả hiện đại như phân tích bao dữ
liệu DEA (phương pháp phi tham số) và phân tích biên ngẫu nhiên SFA (phương
pháp tham số), chúng tôi đã đánh giá hiệu quả kỹ thuật của 26 Ngân hàng Việt Nam
trong giai đoạn 2007 – 2012 trong đó bao gồm 4 Ngân hàng Thương mại Nhà nước
(NHTMNN) và 22 Ngân hàng Thương mại Cổ phần (NHTMCP). Bằng việc phân
tích và so sánh, kết quả thu được cho thấy rằng các NHTMNN hoạt động hiệu quả
hơn các NHTMCP.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn đánh giá sự tăng trưởng hiệu quả kỹ thuật của từng
ngân hàng trong giai đoạn trên để thấy rõ tình hình hiện tại của các ngân hàng, đặc
biệt là trong giai đoạn khủng hoảng như hiện nay. Kết quả cho thấy trong thời kỳ
khủng hoảng, đặc biệt là năm 2010 đến 2012, hiệu quả của các ngân hàng giảm sút
rõ rệt và đó là phù hợp với tình hình thực tế bên ngoài.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp hồi quy ba giai đoạn (3SLS) để
đo lường mối quan hệ của hiệu quả kỹ thuật, mức độ rủi ro và vốn trong hệ thống
ngân hàng Việt Nam hiện nay.
Kết quả cho thấy hiệu quả và rủi ro cũng như vốn và rủi ro có mối quan hệ
cùng chiều với nhau, bên cạnh đó giữa hiệu quả và vốn có mối quan hệ nghịch chiền
với nhau.

ii



MỤC LỤC
TÓM TẮT i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT iv
DANH MỤC CÁC BẢNG v
DANH MỤC HÌNH VẼ - ĐỒ THỊ vi
1. Tổng quan đề tài nghiên cứu 1
1.1. Lý do chọn đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3. Câu hỏi nghiên cứu 2
1.4. Phương pháp luận 2
1.5. Kết cấu bài nghiên cứu 3
2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đây 3
2.1. Cơ sở lý thuyết 3
2.1.1. Mối quan hệ giữa hiệu quả và rủi ro 4
2.1.2. Mối quan hệ giữa hiệu quả và vốn 4
2.1.3. Mối quan hệ giữa vốn và rủi ro 4
2.1.4. Mối quan hệ giữa rủi ro, hiệu quả và vốn 5
2.2. Tổng quan các bài nghiên cứu trước 5
2.2.1. Các nghiên cứu về rủi ro 5
2.2.2. Các nghiên cứu về tính hiệu quả 7
2.2.3. Các nghiên cứu về vốn 9
2.2.4. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro, hiệu quả và vốn 9
3. Phương pháp nghiên cứu 12
3.1. Phương pháp đo lường tính hiệu quả 12
3.1.1. Tổng quan các phương pháp đo lường tính hiệu quả 12
3.1.2. Đo lường bằng phương pháp phi tham số DEA 13
3.1.3. Đo lường bằng phương pháp tham số SFA 17
3.1.4. Đo lường bằng chỉ số Malmquist 18
3.2. Phương pháp đo lường mối quan hệ giữa rủi ro, hiệu quả và vốn 20

3.2.1. Tổng quan phương pháp đo lường mối quan hệ 20
3.2.2. Đo lường mối quan hệ bằng mô hình hồi quy ba giai đoạn (3SLS) 21
3.3. Mô hình nghiên cứu 22
3.4. Giả thuyết nghiên cứu 22
iii

3.5. Biến số nghiên cứu 23
4. Tổng quan hệ thống ngân hàng Việt Nam và kết quả nghiên cứu 29
4.1 Tổng quan về hệ thống ngân hàng Việt Nam 29
4.1.1. Vốn chủ sở hữu tại ngân hàng thương mại Việt Nam 29
4.1.2. Hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam 32
4.1.3. Rủi ro tại các ngân hàng Việt Nam 36
4.1.4. Việt Nam và hiệp ước Basel II 38
4.2. Kết quả nghiên cứu 41
4.2.1. Đo lường các biến 41
4.2.2. Kết quả đo lường hiệu quả kỹ thuật của hệ thống ngân hàng Việt Nam 41
4.2.3. Kết quả thực nghiệm về mối quan hệ giữa rủi ro, hiệu quả và vốn 51
5. Kết luận 62
5.1. Tổng kết đề tài 62
5.2. Định hướng phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam 63
5.2.1. Các giải pháp kiến nghị cho chính phủ: 63
5.1.2. Định hướng phát triển ngân hàng nhà nước Việt Nam đến năm 2020 63
5.1.3. Định hướng phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đến
năm 2020 64
5.3. Hạn chế bài nghiên cứu 68
5.4. Định hướng phát triển đề tài 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO i
PHỤ LỤC v












iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Bảng viết tắt
Viết đầy đủ Tiếng Anh
Viết đầy đủ Tiếng Việt
DEA
Data Enveloping Analysis
Phân tích bao dữ liệu
SFA
Stochastic Frontier Analysis
Phân tích biên ngẫu
nhiên
3SLS
Three-stage least square
Hồi quy nhỏ nhất ba
giai đoạn
NHTMNN

Ngân hàng thương mại

nhà nước
NHTMCP

Ngân hàng thương mại
cổ phần
TE
Technical Efficiency
Hiệu quả kỹ thuật
PTE
Pure Technical Efficiency
Hiệu quả kỹ thuật thuần
STE
Scale Technical Efficiency
Hiệu quả kỹ thuật theo
quy mô
PROD
Productivity
Năng suất
LLPTL
Loan-loss provision as a
fraction to total loans
Dự phòng rủi ro tín
dụng trên tổng dư nợ
VOA
Volatility of ROA
Độ lệch chuẩn ROA
VOE
Volatility of ROE
Độ lệch chuẩn ROE
EFF

Efficiency
Hiệu quả
OBSOTA
Non-traditional activity
Hoạt động phi truyền
thống
LP
Labour
Lao động
C(3)
Concentration
Mức độ tập trung ngân
hàng
BSD
Banking sector development
Tăng trưởng ngành
ngân hàng
SMD
Stock market development
Tăng trưởng thị trường
chứng khoán
IR
Inflation rate
Tỷ lệ lạm phát
GDPG
GDP growth
Tăng trưởng GDP







v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1 Bảng giả định tương quan giữa các biến 27
Bảng 3.2 Tóm tắt mô tả các biến sử dụng trong mô hình 27
Bảng 4.1: Phân loại ngân hàng theo vốn điều lệ 30
Bảng 4.2: So sánh chi phí hoạt động với các quốc gia khác 34
Bảng 4.3: Các yếu tố tác động rủi ro tín dụng trong ngân hàng 37
Bảng 4.4: Các yếu tố đầu vào và đầu ra trong đo lường hiệu quả kỹ thuật 42
Bảng 4.5: Tóm tắt phương pháp áp dụng cho các cách tính hiệu quả kỹ thuật 42
Bảng 4.6: Kết quả của tính hiệu quả kỹ thuật NHTM Việt Nam (2007-2012) 43
Bảng 4.7: Kết quả trung bình của các loại hiệu quả kỹ thuật 46
Bảng 4.8: Độ lệch chuẩn của các loại hiệu quả kỹ thuật 48
Bảng 4.9: Kết quả thay đổi kỹ thuật (PROD) 49
Bảng 4.10: Giá trị trung bình thay đổi kỹ thuật của các ngân hàng. 50
Bảng 4.11: Mô tả thống kê các biến nghiên cứu 51
Bảng 4.12: Bảng kết quả kiểm định độ tương quan đại diện cho 20 bảng kiểm định
độ tương quan trong từng mô hình 52
Bảng 4.13: Kết quả thực nghiệm về mối quan hệ giữa rủi ro, vốn và hiệu quả; trong
đó, tính hiệu quả được đo lường bằng TE. 53
Bảng 4.14: Kết quả thực nghiệm về mối quan hệ giữa rủi ro, vốn và hiệu quả; trong
đó, tính hiệu quả được đo lường bằng PTE 54
Bảng 4.15: Kết quả thực nghiệm về mối quan hệ giữa rủi ro, vốn và hiệu quả; trong
đó, tính hiệu quả được đo lường bằng STE 55
Bảng 4.16: Kết quả thực nghiệm về mối quan hệ giữa rủi ro, vốn và hiệu quả; trong
đó, tính hiệu quả được đo lường bằng PROD 56

Bảng 4.17: Kết quả thực nghiệm về mối quan hệ giữa rủi ro, vốn và hiệu quả; trong
đó, tính hiệu quả được đo lường bằng TE (SFA). 57
Bảng 4.18: Thống kê ý nghĩa kết quả 60


vi

DANH MỤC HÌNH VẼ - ĐỒ THỊ

Hình 4.1: Đường định mực theo phương pháp phân tích đường bao 13
Hình 4.2: Biểu đồ diễn tả sự thay đổi của VCSH và vốn điều lệ của khối NHTM cổ
phần 31
Hình 4.3: Lợi nhuận sau thuế năm 2011 và 2012 33
Hình 4.4: Các thước đo lợi nhuận sau thuế 33
Hình 4.5: Biểu đồ phân loại chi phí hoạt động 35
Hình 4.6: Biểu đồ gia tăng số lượng nhân viên ngành ngân hàng 35
Hình 4.7: Biểu đồ gia tăng nợ xấu 36
Hình 4.8: Khuôn khổ hiệp ước Basel 38
Hình 4.9: Biểu đồ nhận thức thực hiện khung giám sát Basel II 39
Hình 4.10: Phương pháp tính yêu cầu vốn cho tín dụng 40
Hình 4.11: Phương pháp tính rủi ro của các khu vực thành viên BIS 40
Hình 4.12: Trung bình các thước đo hiệu quả kỹ thuật 47
Hình 4.13: Biểu đồ giá trị độ lệch chuẩn của các loại hiệu quả kỹ thuật 48
Hình 4. 14: Biểu đồ tăng trưởng giá trị hiệu quả 50


1

1. Tổng quan đề tài nghiên cứu
1.1. Lý do chọn đề tài

Ngân hàng được xem là hệ thống tuần hoàn vốn đặc biệt quan trọng trong nền
kinh tế của quốc gia và toàn cầu. Đặc biệt trong nền kinh tế hiện nay, ngân hàng là
một bộ phận không thể thiếu được với hoạt động chủ yếu là tiền tệ, tín dụng và thanh
toán. Mặc dù không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, song với đặc
điểm hoạt động riêng biệt này, ngành ngân hàng giữ một vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó, trong thời kỳ suy thoái mạnh mẽ
của nền kinh tế trong và ngoài nước thì vai trò của ngân hàng càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết. Trong một nền kinh tế tăng trưởng chậm, dòng tiền lưu thông gặp
nhiều trở ngại thì ngân hàng sẽ phải phát huy vai trò cực kỳ quan trọng của mình là
nơi trao đổi, điều tiết lưu thông tiền tệ: đem nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Thêm vào đó, ngân hàng còn đóng vai trò là một kênh điều tiết, thực thi các chính
sách tiền tệ của nhà nước đến nền kinh tế nhằm ổn định, kiểm soát thị trường. Như
vậy, trong thời kỳ kinh tế gặp nhiều khó khăn thì ngân hàng càng thể hiện vai trò “trái
tim” luân chuyển “máu” trong nền kinh tế.
Nếu tính từ năm 1990 khi hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính) chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một
cấp sang hai cấp thì hệ thống ngân hàng Việt Nam chỉ vừa hơn hai mươi năm hoạt
động. Với tuổi đời còn khá trẻ đó thì chắc chắn hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ gặp
nhiều khó khăn khi rơi vào những cuộc khủng hoảng. Thực tế hiện nay cho thấy rằng,
ngành ngân hàng đang phải đối mặt với những thách thức rất là to lớn. Những thách
thức đó đến từ hai phía: thứ nhất – ngoại tác, nền kinh tế, đặc biệt là thị trường tài
chính đang gặp phải những khó khăn nhất định trong cuộc đại khủng hoảng; thứ hai:
năng lực nội tại của ngân hàng không đủ mạnh để có thể đứng vững trước những khó
khăn đến từ thị trường. Đứng trên góc độ của một nhà quản lý ngân hàng thì chúng
ta rất khó thay đổi tác động của những yếu tố ngoại tác đến từ nền kinh tế vì khó khăn
này là thách thức của nền kinh tế toàn cầu chứ không riêng gì Việt Nam, những việc
chúng ta có thể làm là củng cố và phát huy sức mạnh nội tại của ngành ngân hàng,
nếu làm được điều đó thì chúng ta mới hy vọng sớm đưa nền kinh tế ra khỏi khó khăn.
2


Đứng trước bài toán củng cố sức mạnh nội tại của ngành ngân hàng, chúng tôi
nhận thấy cần có một nghiên cứu thực nghiệm về hệ thống ngân hàng. Ba yếu tố tác
động lên sự bền vững của ngân hàng đó là tính hiệu quả, mức độ rủi ro và vốn. Với
những định hướng trên, chúng tôi đã thực hiện bài nghiên cứu: “Mối quan hệ giữa
hiệu quả kỹ thuật, rủi ro và vốn: Bằng chứng thực nghiệm của hệ thống Ngân hàng
Thương mại Việt Nam”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu định lượng đo lường mối quan hệ giữa tính hiệu quả, mức độ
rủi ro và vốn, chúng tôi hy vọng đề tài có thể đáp ứng được các mục tiêu sau đây:
- Thứ nhất, cung cấp một cái nhìn tổng quan về ba yếu tố: tính hiệu quả, mức
độ rủi ro và vốn của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
- Thứ hai, chúng tôi muốn đưa ra một công cụ hỗ trợ cho quyết định của các nhà
quản lý ngân hàng. Đặc biệt là những quyết định liên quan đến ba yếu tố đã đề cập ở
trên. Từ đó giúp cho việc quản trị của họ được thực hiện dễ dàng hơn.
- Thứ ba, từ kết quả thực nghiêm của bài nghiên cứu, chúng tôi hy vọng đưa ra
những kiến nghị, khuyến cáo chính xác nhằm củng cố tình bền vững cho hệ thống
ngân hàng Việt Nam hiện tại.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Trong bài viết này, chúng tôi đưa ra hai câu hỏi nghiên cứu chính:
- Các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động có hiệu quả hay không? Nếu
có thì hình thức ngân hàng nào sẽ hoạt động hiệu quả hơn, NHTMNN hay NHTMCP?
- Giữa tính hiệu quả, mức độ rủi ro và vốn có tồn tại mối quan hệ với nhau hay
không ? Nếu có thì mối quan hệ đó như thế nào ?
- Nếu giải quyết được hai câu hỏi trên, chúng tôi sẽ có những giải pháp, kiến
nghị, hướng đi cụ thể để giải quyết những vấn đề về vốn, rủi ro và tính hiệu quả mà
ngành ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt.
1.4. Phương pháp luận
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi sẽ trình bày đánh giá tính hiệu quả của
ngân hàng thông qua hai phương pháp chính, đó là phương pháp phân tích bao dữ

liệu (Data Envenlopment Annalyst - DEA) và phương pháp phân tích biên ngẫu
nhiên (Stochastic Frontier Analysis – SFA)
3

Sau khi đánh giá được mức độ hiệu quả, chúng tôi áp dụng phương pháp bình
phương tối thiểu ba giai đoạn (Three-stage least square – 3SLS) để đo lường mối
quan hệ giữa ba yếu tố quy mô vốn, tính hiệu quả và mức độ rủi ro của ngành ngân
hàng.
1.5. Kết cấu bài nghiên cứu
Kết cấu toàn bài nghiên cứu bao gồm 5 phần chính:
- Phần 1: Giới thiệu tổng quan nghiên cứu
- Phần 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan các bài nghiên cứu trước
- Phần 3: Phương pháp nghiên cứu
- Phần 4: Áp dụng mô hình tại Việt Nam
- Phần 5: Kết luận
Trong đó, phần 1 sẽ cho thấy được mục tiêu tổng quát của bài nghiên cứu
thông qua các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra và những phương pháp luận được sử
dụng trong bài nghiên cứu bao gồm những phương pháp nào. Phần 2 đưa ra một cơ
sở lý thuyết về mối quan hệ giữa rủi ro, vốn và hiệu quả được đúc kết từ các bài
nghiên cứu trước đây bên cạnh đó sẽ trình bày một cách chi tiết hơn về vấn đề này
qua mỗi bài nghiên cứu. Phần 3 sẽ lần lượt giới thiệu về phương pháp nghiên cứu.
Đến với phần 4, chúng tôi sẽ ứng dụng mô hình thực nghiệm tại Việt Nam. Đồng
thời, phác thảo một bức tranh toàn cảnh về tình hình thị trường ngân hàng trong những
năm gần đây, áp dụng các phương pháp trên để kiểm tra thực nghiệm về mối quan hệ
giữa ba yếu tố. Phần 5 sẽ đúc kết lại những nội dung quan trọng đã trình bày xuyên
suốt trong bài nghiên cứu, đồng thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp cũng như định
hướng phát triển mở rộng cho bài nghiên cứu.
2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đây
Phần 2 sẽ trình bày cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa mức độ rủi ro, quy mô
vốn và tính hiệu quả của ngành ngân hàng. Bên cạnh đó ở phần này cũng sẽ đưa ra

những kết quả thực nghiệm của các nghiên cứu trước đây về từng yếu tố rủi ro, vốn
và tính hiệu quả cũng như mối quan hệ giữa ba yếu tố này.
2.1. Cơ sở lý thuyết
Ngành ngân hàng được xem như huyết mạch của nền kinh tế và đóng vai trò
quan trọng trong sự phát triển hệ thống tài chính của một quốc gia. Để gia tăng tính
4

hiệu quả, nhiều quốc gia đã tiến hành một số cải cách nhằm tạo ra môi trường cạnh
tranh hơn trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, các bài nghiên cứu của Hellmann & cộng
sự (2000), Salas & Saurina (2003) và Goddard & Wilson (2009) cho rằng môi
trường cạnh tranh hơn sẽ đưa đến hành vi chấp nhận rủi ro của các ngân hàng, bởi vì
trên thực tế sức mạnh thị trường và giá trị vốn điều lệ của những ngân hàng này bị
giảm xuống. Chính vì thế, tỷ lệ an toàn vốn đóng vai trò cực kỳ quan trọng cho mục
tiêu cân đối rủi ro mà mỗi chính phủ cần quan tâm.
2.1.1. Mối quan hệ giữa hiệu quả và rủi ro
Theo Berger & De Young (1997) và Williams (2004) thì mối quan hệ giữa
hiệu quả và rủi ro nghịch chiều nhau. Trên thực tế, mức độ hiệu quả thấp sẽ buộc các
ngân hàng đẩy mạnh lợi nhuận của mình bằng cách tham gia vào các hợp đồng tín
dụng có rủi ro cao để hưởng được tỷ suất sinh lợi cao hơn; ngược lại, sự tăng lên
trong rủi ro tín dụng sẽ khiến cho các ngân hàng gánh chịu thêm nhiều khoản chi phí
phát sinh cũng như nỗ lực để giám sát các khoản nợ xấu, từ đó đưa đến mức độ hiệu
quả thấp.
Tuy nhiên, Altunbas & cộng sự (2007) báo cáo rằng những ngân hàng hoạt
động hiệu quả có xu hướng chấp nhận mức rủi ro cao hơn, trong khi những ngân hàng
kém hiệu quả hơn lại có mức rủi ro tín dụng thấp hơn.
2.1.2. Mối quan hệ giữa hiệu quả và vốn
Đối với những ngân hàng hoạt động có hiệu quả cung cấp cho họ khả năng
thuận lợi để tăng nguồn vốn trong tương lai. Tuy nhiên, đối với những ngân hàng
thiếu vốn, vì trên thực tế tính hiệu quả của những ngân hàng này thấp do chi phí hoạt
động cao buộc các giám đốc tài chính của ngân hàng phải cân đối lại chi phí bằng

cách giảm số lượng vốn có chi phí sử dụng đắt đỏ.
Cũng từ nghiên cứu của Altunbas & cộng sự (2007), bằng chứng thực nghiệm
không chỉ cho thấy những ngân hàng kém hiệu quả có mức rủi ro tín dụng thấp hơn
mà còn có mức vốn cao hơn. Trong khi đó, lập luận được đưa ra phía trên là mối liên
hệ giữa hiệu quả và vốn cùng chiều với nhau.
2.1.3. Mối quan hệ giữa vốn và rủi ro
Như đã đề cập, cạnh tranh có thể đưa đến mức độ rủi ro gánh chịu cao hơn, do
đó cơ quan quản lý buộc các ngân hàng phải nắm giữ mức vốn lớn bằng cách quy
định mức vốn tối thiểu. Trái lại, những yêu cầu về việc nắm giữ vốn cao hơn của cơ
5

quan quản lý có thể được các ngân hàng phản hồi bằng cách gia tăng rủi ro danh mục
của mình.
Ở khía cạnh khác, giả thuyết về rủi ro đạo đức cho rằng những nhà quản lý
thường có xu hướng chấp nhận rủi ro nhiều hơn khi mức vốn của ngân hàng thấp hơn.
Bằng chứng thực nghiệm từ hai nghiên cứu của Demsetz & cộng sự (1996) và Salas
& Saurina (2003) cho thấy sự ảnh hưởng tiêu cực của vốn lên mức độ rủi ro tín dụng
của các ngân hàng, kết quả này phù hợp với giả thuyết rủi ro đạo đức. Tuy nhiên,
cũng kiểm tra về tác động này, Shrieves & Dahl (1992), Editz & cộng sự (1998) và
Rime (2001) lại cho rằng những quy định về vốn có hiệu quả trong việc làm gia tăng
tỷ lệ vốn nhưng không làm cho rủi ro danh mục tăng lên. Nghiên cứu gần đây nhất
của Haq & Heaney (2012) tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ phi tuyến giữa vốn
và rủi ro tín dụng.
Tóm lại, giữa các nghiên cứu trước đây vẫn chưa có sự đồng nhất về vấn đề
gia tăng vốn có làm cho rủi ro gánh chịu của các ngân hàng giảm xuống hay không.
2.1.4. Mối quan hệ giữa rủi ro, hiệu quả và vốn
Kết hợp ba mối quan hệ nêu trên, chúng tôi đưa ra lập luận cho tác động của
vốn và hiệu quả lên hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng như sau: Những ngân
hàng hiệu quả với mức vốn cao thường rơi vào tình trạng chủ quan, các khoản tín
dụng không được giám sát một cách chặt chẽ, do đó đưa đến mức rủi ro tín dụng cao

hơn. Trong khi đó, những ngân hàng kém hiệu quả với quy mô vốn thấp có xu hướng
tăng mức rủi ro tín dụng gánh chịu để tối đa thu nhập của mình.
2.2. Tổng quan các bài nghiên cứu trước
2.2.1. Các nghiên cứu về rủi ro
Wall & Peterson (1988) nghiên cứu xem quy định vốn được đặt ra bởi cơ
quan quản lý ngân hàng liên bang Mỹ trong năm 1988 có mang tính ràng buộc đối
với những ngân hàng hay không, bằng chứng lý thuyết cho rằng nếu các tổ chức ngân
hàng bị ràng buộc bởi những quy định này sẽ có thể làm tăng rủi ro tài sản. Tác giả
sử dụng hai mô hình - mô hình quản trị và mô hình thị trường - về những thay đổi
trong tỷ lệ vốn cổ phần trên tài sản của ngân hàng và kiểm tra bằng ước lượng log-
likelihood tối đa.
Kết quả: những quy định về vốn sẽ làm tăng rủi ro về tài sản.
6

Jeitschko & Jeung (2005) nghiên cứu về những động cơ khuyến khích những
ngân hàng chấp nhận nắm giữ rủi ro. Tác giả chỉ sử dụng một mô hình nhưng kết hợp
ba động cơ khác nhau của ba bên – cơ quan quản lý ngân hàng, cổ đông, và nhà quản
lý – để xác định rủi ro của một ngân hàng. Ngoài ra, tác giả xây dựng bốn giả thuyết
khác nhau dựa trên những đặc tính của rủi ro và tỷ suất sinh lợi.
Kết luận: rủi ro ngân hàng giảm hay tăng so với vốn phụ thuộc vào sự tác động tương
đối của ba bên trong việc xác định rủi ro tài sản và nhiều giả định tham số khác về rủi
ro và tỷ suất sinh lợi.
Boyd & De Nicolo (2007) nghiên cứu về hai mô hình. Mô hình đầu tiên dự
báo mối quan hệ nghịch giữa rủi ro phá sản và trạng thái tập trung của ngân hàng,
điều này cho thấy sự đánh đổi giữa cạnh tranh và ổn định. Mô hình thứ hai dự báo
mối quan hệ thuận, nghĩa là không có sự đánh đổi ở đây. Cả hai mô hình đều có thể
dự báo mối quan hệ nghịch giữa tình trạng tập trung và tỷ lệ nợ trên tài sản của ngân
hàng, và mối quan hệ phi tuyến giữa tình trạng tập trung và khả năng sinh lợi của
ngân hàng. Để kiểm tra thực nghiệm dự báo của hai mô hình trên, tác giả sử dụng
mẫu dữ liệu chéo của 2500 ngân hàng Mỹ trong năm 2003 và dữ liệu bảng của 2600

ngân hàng trong 134 quốc gia phi công nghiệp trong giai đoạn 1993-2004.
Kết quả: rủi ro phá sản thuận chiều với tình trạng tập trung của ngân hàng, tỷ lệ nợ
trên tài sản nghịch chiều với sự tập trung của ngân hàng, và khả năng sinh lợi thuận
chiều với tình trạng tập trung của ngân hàng.
Festic & cộng sự (2011) tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh chóng là một trong
những hiện tượng phổ biến trong những năm gần đây ở Trung và Đông Âu. Những
đánh giá hỗ trợ cho nhận định trên cho rằng tăng trưởng tín dụng và tổng số tài trợ có
sẵn có thể tổn hại đến hiệu suất của ngân hàng và làm xấu đi những khoản nợ xấu,
điều này có thể do tình trạng quá nóng của nền kinh tế ở các quốc gia này. Chu kỳ
hiệu suất của lĩnh vực ngân hàng và tăng trưởng hoạt động kinh tế cao là tín hiệu của
một nền kinh tế phát triển quá mức, do đó khi sự phát triển này chậm lại có thể dẫn
đến sự tăng tốc trong tăng trưởng tỷ lệ nợ xấu.
Haq & Heaney (2012) sử dụng thông tin của 117 tổ chức tài chính trong 15
quốc gia ở Châu Âu trên thời kỳ 1996-2010 để nghiên cứu về những nhân tố xác định
rủi ro ngân hàng, bao gồm: vốn, giá trị vốn điều lệ, hoạt động ngoại bảng, tỷ lệ chi
trả cổ tức và quy mô ngân hàng.
7

Kết quả: có mối quan hệ phi tuyến giữa vốn và rủi ro ngân hàng. Độ nhạy cảm của
rủi ro ngân hàng tăng lên đối với vốn ngân hàng và những hoạt động ngoại bảng; và
giảm xuống đối với giá trị vốn điều lệ. Nhưng trong suốt thời kỳ khủng hoảng, cả vốn
ngân hàng và giá trị vốn điều lệ đều tác động tiêu cực lên rủi ro ngân hàng.
2.2.2. Các nghiên cứu về tính hiệu quả
Fare & cộng sự (1994) phân tích về tốc độ tăng trưởng năng suất trong 17
quốc gia OECD trên thời kỳ 1979-1988. Phương pháp DEA được dùng để tính các
chỉ số năng suất Malmquist. Phương pháp này tách thành hai đo lường thành phần:
thay đổi kỹ thuật và thay đổi hiệu quả.
Kết quả: tăng trưởng năng suất ở Mỹ cao hơn một chút so với mức trung bình, do
thay đổi kỹ thuật. Tăng trưởng năng suất ở Nhật cao nhất trong mẫu, do thay đổi hiệu
quả.

Fu & Heffernan (2007) sử dụng phương pháp SFA để nghiên cứu về hiệu quả
X của chi phí trong ngành ngân hàng ở Trung Quốc trong giai đoạn 1985-2002. Mục
tiêu là để đánh giá xem những hình thức sở hữu khác nhau và những cải cách ngân
hàng có tác động đến hiệu quả X hay không.
Kết quả: những ngân hàng hoạt động 40-60% dưới đường biên hiệu quả X. Tính trung
bình, những ngân hàng cổ phần có hiệu quả X cao hơn những ngân hàng nhà nước.
Ngoài ra, hiệu quả X thường cao trong thời kỳ đầu của cuộc cải cách ngân hàng.
Ariff & Can (2008) sử dụng kỹ thuật DEA để phân tích dữ liệu từ năm 1995
đến 2004 nhằm nghiên cứu tính hiệu quả của chi phí và lợi nhuận của 28 ngân hàng
thương mại Trung Quốc. Tác giả xem xét ảnh hưởng của hình thức sở hữu, quy mô
ngân hàng, rủi ro, khả năng sinh lợi và những thay đổi môi trường hoạt động lên tính
hiệu quả của ngân hàng bằng hồi quy Tobit.
Kết quả: các mức hiệu quả lợi nhuận thấp hơn hiệu quả chi phí. Điều này cho thấy
tính kém hiệu quả trong yếu nhất về mặt doanh thu. Tính trung bình, những ngân
hàng cổ phần hoạt động hiệu quả hơn những ngân hàng nhà nước, trong khi những
ngân hàng quy mô trung bình có hiệu quả đáng kể hơn so với những ngân hàng quy
mô nhỏ và lớn.
Hu, Su & Chen (2008) sử dụng kỹ thuật DEA để kiểm tra hiệu quả chi phí
toàn bộ ngân hàng Trung Quốc bằng cách tính đến tác động của những biến vĩ mô.
8

Kết quả: không có sự khác biệt đáng kể về hiệu quả chi phí giữa các ngân hàng.
Những ngân hàng cổ phần có hiệu quả quy mô và hiệu quả kỹ thuật cao hơn những
ngân hàng nhà nước. Sau sự kiện gia nhập WTO và khủng hoảng tài chính năm 1997,
hiệu quả của những ngân hàng ở quốc gia này đã giảm xuống.
Yao & Jiang (2010) sử dụng phương pháp SFA để kiểm tra tính hiệu quả ngân
hàng ở Trung Quốc, đặc biệt chú ý tới hình thức sở hữu, tác động chọn lọc và những
tác động của việc thay đổi quản trị lên hiệu quả của ngân hàng. Hiệu quả ngân hàng
được cải thiện trên thời kỳ 1995-2008. Những hiệu quả trung bình về chi phí và lợi
nhuận được ước lượng khoảng 74% và 63%. Những ngân hàng thương mại cổ phần

và những ngân hàng thương mại thành phố hoạt động tốt hơn những ngân hàng
thương mại nhà nước.
Kết luận: sự tham gia sở hữu nước ngoài có tác động tiêu cực lên lợi nhuận trong dài
hạn, trong khi những dịch vụ đầu ra công chúng giúp nâng cao lợi nhuận ngân hàng
trong ngắn hạn. Những phát hiện nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng cho việc cải cách
ngân hàng trong tương lai ở Trung Quốc do hậu quả của khủng hoảng tài chính để
lại.
Delis & cộng sự (2011) xem xét về mối quan hệ giữa khuôn khổ quy định –
giám sát và năng suất của những ngân hàng trong 22 quốc gia trên thời kỳ 1999-2009.
Bài viết sử dụng phương pháp DEA để ước lượng chỉ số Malmquist kết hợp với hồi
quy bootstrap.
Kết quả: những quy định về vốn và giám sát hoạt động ngân hàng đã có tác động tích
cực lên năng suất ngân hàng.
Rouissi & Raoudha (2011) sử dụng kỹ thuật SFA để nghiên cứu về mức độ
hiệu quả của những ngân hàng thương mại trong nước so với những ngân hàng thương
mại nước ngoài ở Pháp. Tác giả phân tích hiệu quả lợi nhuận và hiệu quả chi phí
những hai loại ngân hàng này, bao gồm 62 ngân hàng trong nước và 40 ngân hàng
nước ngoài trong thời kỳ 2000-2007.
Kết quả: những ngân hàng nước ngoài có hiệu quả chi phí và hiệu quả lợi nhuận cao
hơn những ngân hàng trong nước. So sánh chỉ số hiệu quả chi phí và hiệu quả lợi
nhuận cho thấy những ngân hàng nước ngoài quản lý tốt hơn về hiệu quả lợi nhuận
chủ yếu là do hiệu quả chi phí cao hơn. Còn hiệu quả lợi nhuận của những ngân hàng
trong nước là do hiệu quả doanh thu cao hơn.
9

2.2.3. Các nghiên cứu về vốn
Shrieves & Dahl (1990) xem xét các tiêu chuẩn quy định về vốn có ảnh hưởng
đến sự huy động vốn cổ phần từ bên ngoài vào các ngân hàng hay không. Quy mô
mẫu được sử dụng bao gồm 753 quan sát (số lần phát hành cổ phần) trong suốt hai
năm 1986 và 1987.

Kết quả: những quy định vốn tối thiểu ảnh hưởng đến những quyết định tài trợ của
các ngân hàng.
Rime (2001) chủ yếu nghiên cứu xem những ngân hàng Thụy Sĩ phản ứng
như thế nào đối với những ràng buộc về vốn được đặt ra bởi cơ quan quản lý. Ngoài
ra, bài viết cũng sử dụng mô hình hệ phương trình đồng thời để phân tích mối quan
hệ giữa vốn và rủi ro tại những ngân hàng này.
Kết quả: quy định về vốn làm cho những ngân hàng gia tăng vốn nhưng không tác
động đến mức độ rủi ro.
Barrios & Blanco (2003) phân tích xem các ngân hàng thiết lập tỷ lệ vốn –
vốn cổ phần trên tổng tài sản – của họ như thế nào. Để nghiên cứu vấn đề này, tác giả
xây dựng hai mô hình lý thuyết, mô hình thứ nhất dành cho những ngân hàng không
bị tác động bởi quy định an toàn vốn và mô hình thứ hai dành cho những ngân hàng
bị tác động bởi quy định an toàn vốn. Sau đó, tác giả kiểm tra những mô hình này
bằng ước lượng mô hình bất cân xứng và sử dụng cơ sở dữ liệu từ những ngân hàng
thương mại ở Tây Ban Nha.
Kết quả: hai mô hình trên đều chứng minh được sự tồn tại của tỷ lệ vốn tối ưu.
Gropp & Heider (2010) nghiên cứu về những yếu tố quyết định của cấu trúc
vốn những ngân hàng lớn ở Mỹ và Châu Âu. Những kết quả tìm thấy có sự đồng nhất
đáng quan tâm về mặt thống kê lẫn tầm quan trọng kinh tế.
Kết quả: những quy định về vốn chỉ có tầm quan trọng xếp thứ hai đối với cấu trúc
vốn ngân hàng.
2.2.4. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro, hiệu quả và vốn
Berger & De Young (1997) sử dụng phương pháp nhân quả Granger để
nghiên cứu về mối liên hệ giữa cho vay, hiệu quả và vốn cho mẫu ngân hàng Mỹ trên
thời kỳ 1985-1994.
10

Kết quả: những sụt giảm trong hiệu quả chi phí dẫn đến những gia tăng trong vấn đề
cho vay, đặc biệt là những ngân hàng có mức vốn thấp hơn; bên cạnh đó, mức độ cho
vay cao hơn dẫn đến sự giảm xuống trong hiệu quả chi phí.

Kwan & Eisenbeis (1997) sử dụng phương pháp hệ phương trình đồng thời
để đo lường mối quan hệ giữa hành vi chấp nhận rủi ro và hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
Kết quả: tính kém hiệu quả có tác động tích cực lên cả rủi ro tín dụng và rủi ro lãi
suất, ngoài ra nó cũng có tác động tích cực lên vốn.
Williams (2004) sử dụng phương pháp nhân quả Granger để nghiên cứu mối
quan hệ giữa vấn đề cho vay, hiệu quả chi phí và vốn của những ngân hàng tiết kiệm
Châu Âu trong giai đoạn 1990-1998.
Kết quả: chất lượng những khoản cho vay kém đối với những ngân hàng không được
quản lý tốt.
Berger & cộng sự (2006) phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hiệu
quả ngân hàng bằng mô hình hệ phương trình đồng thời và sử dụng dữ liệu từ những
ngân hàng Mỹ.
Kết quả: những ngân hàng có cấu trúc vốn nghiêng về nợ nhiều sẽ làm giảm hiệu quả
của ngân hàng.
Altunbas & cộng sự (2007) sử dụng phương pháp hệ phương trình đồng thời
để nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn, dự phòng rủi ro tín dụng và hiệu quả chi phí
cho những ngân hàng Châu Âu trong giai đoạn 1992-2000.
Kết quả: những ngân hàng với hiệu quả cao hơn có xu hướng gánh chịu mức độ rủi
ro cao hơn, trong khi những ngân hàng kém hiệu quả hơn có mức độ vốn cao hơn và
mức độ rủi ro tín dụng thấp hơn.
Deelchand & Padgett (2009) nghiên cứu về những yếu tố quyết định của hành
vi chấp nhận rủi ro và phân tích mối quan hệ với vốn và tính hiệu quả trong những
ngân hàng Nhật. Tác giả tập trung vào những ngân hàng hợp tác vì chúng đóng vai
trò quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng Nhật Bản, và sử dụng hệ phương trình đồng
thời để ước lượng mối quan hệ giữa rủi ro, vốn và tính kém hiệu quả trong mô hình
này, trong đó tác giả dùng phương pháp bình phương tối thiểu hai giai đoạn (2SLS)
để đo lường tính hiệu quả với dữ liệu bảng của 263 ngân hàng hợp tác Nhật trong thời
kỳ 2003-2006.
11


Kết quả: phát hiện mối quan hệ tiêu cực giữa rủi ro và cấp độ vốn. Những ngân hàng
kém hiệu quả hoạt động với vốn lớn hơn và gánh chịu nhiều rủi ro hơn. Điều này
phản ánh vấn đề rủi ro đạo đức tồn tại trong hệ thống ngân hàng thông qua sự khai
thác lợi ích từ bảo hiểm tiền gửi. Ngoài ra, những ngân hàng lớn hơn nắm giữ ít vốn
hơn gánh chịu rủi ro nhiều hơn và kém hiệu quả hơn.
Fiordelisi & cộng sự (2011a) sử dụng phương pháp nhân quả Granger để xem
xét tính hiệu quả và rủi ro trong những ngân hàng đầu tư ở 10 quốc gia phát triển trên
thời kỳ 2000-2008. Tác giả kiểm tra xem cạnh tranh cao và chi phí kém hiệu quả có
làm tăng rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng không ? Ngược lại, rủi ro mất
khả năng thanh toán và mức độ vốn hóa có dẫn đến cạnh tranh về giá cao hơn và hiệu
quả chi phí thấp hơn không ?
Kết quả: cạnh tranh về giá còn khá hạn chế trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư khắp thế
giới. Mặc dù tính ổn định của ngân hàng là do áp lực cạnh tranh còn thấp, nhưng các
ngân hàng này đã dần biểu lộ hành vi chấp nhận rủi ro nhiều hơn.
Fiordelisi & cộng sự (2011b) sử dụng kỹ thuật nhân quả Granger để đánh giá
mối quan hệ giữa vốn, hiệu quả và rủi ro cho mẫu ngân hàng thương mại Châu Âu
trên thời kỳ 1995-2007.
Kết quả: những ngân hàng kém hiệu quả điển hình có mức độ rủi ro cao hơn và mức
độ vốn cao hơn làm tăng hiệu quả ngân hàng.
Yong Tan & Christos (2013) nghiên cứu về mối quan hệ tính hiệu quả, rủi ro
và vốn đối với những ngân hàng thương mại Trung Quốc. Tác giả sử dụng ba chỉ số
đại diện cho tính hiệu quả, bốn chỉ số đại diện cho rủi ro và áp dụng phương pháp
bình phương tối thiểu ba giai đoạn (3SLS) để đánh giá mối quan hệ này.
Kết quả: mối quan hệ tích cực giữa rủi ro và tính hiệu quả, mối quan hệ tiêu cực giữa
rủi ro và mức độ vốn hóa trong lĩnh vực ngân hàng ở Trung Quốc.
Như vậy, phần 2 đã cho thấy được mối quan hệ giữa rủi ro, vốn và tính hiệu
quả. Trong đó, đối với những ngân hàng có mức rủi ro cao thì cơ quan quản lý nhà
nước sẽ yêu cầu họ nắm giữ mức vốn cao hơn để phòng ngừa cho những thiệt hại có
thể xảy ra; ngược lại, việc ấn định mức vốn cao hơn sẽ đưa đến hành vi chấp nhận rủi

ro của các ngân hàng. Ở một khía cạnh khác, những ngân hàng có hiệu quả thấp có
xu hướng tham gia vào các hợp đồng rủi ro cao nhằm đạt được tỷ suất sinh lợi cao
hơn, đến lượt những ngân hàng có mức độ rủi ro cao phải gánh chịu các chi phí phát
12

sinh làm cho tính hiệu quả thấp. Cuối cùng, những ngân hàng hoạt động hiệu quả sẽ
cung cấp cho họ khả năng dễ dàng tiếp cận nguồn vốn trong tương lai, tuy nhiên
những ngân hàng kém hiệu quả sẽ đưa đến một mức vốn thấp hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nếu như phần hai đã nói đến các cơ sở lý thuyết đồng thời kết quả của các bài
nghiên cứu trước thì phần này chúng tôi sẽ trình bày rõ về phương pháp nghiên cứu
mà chúng tôi sẽ áp dụng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng
tôi cũng giới thiệu mô hình, những giả thuyết nghiện cứu cũng như các biến số mà
chúng tôi sẽ sử dụng trong bài nghiên cứu.
3.1. Phương pháp đo lường tính hiệu quả
3.1.1. Tổng quan các phương pháp đo lường tính hiệu quả
Phân tích bao dữ liệu (Data Enveloping Analysis – DEA)
Phân tích bao dữ liệu (DEA) là phương pháp phi tham số dùng để đo lường
tính hiệu quả giữa các công ty với nhau. Phương pháp này giúp tạo ra một tập hợp
biên các công ty hiệu quả và so sánh nó với các công ty không hiệu quả để đo được
độ đo hiệu quả. Một điểm nổi bật của phương pháp DEA là nó cho phép kết hợp nhiều
đầu vào và nhiều đầu ra trong việc tính các độ đo hiệu quả. Theo DEA thì một công
ty hoạt động tốt nhất sẽ có chỉ số hiệu quả là 1, ngược lại công ty hoạt động kém hiệu
quả sẽ có giá trị nhỏ hơn 1.
Ưu điểm:
- DEA áp dụng được cả với biến định tính.
- DEA áp dụng được với mẫu nghiên cứu nhỏ.
- Kết quả thu nhận được từ kết quả DEA là một kết quả thực tế
Nhược điểm:
- DEA không tính đến yếu tố sai số hay nhiễu.

- DEA đo lường hiệu quả tương đối giữa các công ty với nhau, do đó nếu một
công ty có chỉ số hiệu quả là 1 thì không có nghĩa là công ty đó đã tối ưu trên thực tế,
mà nó chỉ hơn các công ty khác trong phạm vi nghiên cứu.
Phân tích biên ngẫu nhiên (Stochastic Frontier Analysis – SFA)
Phân tích biên ngẫu nhiên (SFA) là phương pháp tham số được dùng để đo
lường tính hiệu quả. Khác với DEA, SFA có tính đến phần dư hoặc nhiễu, do đó nó
13

cho thấy được sự khác biệt giữa mức độ sản xuất thực tế và đường giới hạn sản xuất
ước tính. Tuy nhiên, phương pháp SFA chỉ định cụ thể mối quan hệ hay dạng hàm
giữa đầu vào-đầu ra, điều này có thể là một yếu điểm khi so sánh với DEA vì trong
các ngành hoạt động dịch vụ phức tạp như ngân hàng có rất nhiều mối quan hệ giữa
các đầu vào – đầu ra là không xác định, đặc biệt khi xem xét mối quan hệ đồng thời
của nhiều đầu vào và nhiều đầu ra, do đó có thể cho những kết luận sai nếu việc chỉ
định dạng hàm không đúng.
3.1.2. Đo lường bằng phương pháp phi tham số DEA
Phương pháp phân tích đường bao sẽ thực hiện việc so sánh hiệu quả sản xuất
giữa các đơn vị để từ đó tìm kiếm đường sản xuất tốt nhất trong điều kiện thực tế, đây
chính là đường định mức trong phuơng pháp phân tích đường bao
Hình 4.1: Đường định mực theo phương pháp phân tích đường bao

Các đơn vị có kết quả sản xuất nằm trên đường định mức là đơn vị có hiệu quả
sản xuất tốt nhất (điểm A), có hệ thống quản lý sản xuất tối ưu nhất trong số các đơn
vị tham gia vào quá trình so sánh. Khi đó đơn vị này được gọi là đạt định mức theo
phương pháp phân tích đường bao. Các đơn vị có điểm sản xuất nằm phía ngoài
đuờng định mức (điểm B, C, D) là các đơn chị chưa đạt được định mức theo phương
pháp phân tích đường bao.
 Tính giá trị định mức bằng phương pháp phân tích đường bao
Nếu các đơn vị sản xuất nhiều đầu ra sử dụng nhiều yếu tố đầu vào, hiệu quả
của các DMU

j
được xác định là tỷ số giữa một tổng đầu ra theo trọng số và một tổng
đầu vào theo trọng số.
14

Ký hiệu H = {1,2,…,s} là tập các yếu tố sản xuất (đầu vào) và K = {1,2,…,m}
là tập các đầu ra tương ứng. Nếu x
ij
, i , biểu thị số lượng đầu vào thứ i được sử
dụng bởi DMU
j
và y
rj
, r , biểu thị số lượng đầu ra r thu được. Với mỗi DMU có
thể xác định tổng đầu vào và tổng đầu ra dự tính theo trọng số, giả sử với DMU
j
đầu
vào dự tính và đầu ra dự tính như sau:
Đầu vào dự tính = 








Đầu ra dự tính = 









Và khi đó thì hiệu quả tuyệt đối của DMU
j
được xác định bằng công thức:











































Trong đó: 

hiệu quả tuyệt đối của DMU
j







là các trọng số của các yếu tố đầu ra cho DMU
j


 

là các trọng số của các yếu tố đầu vào cho DMU
j

Từ kết quả tính toán hiệu quả tuyệt đối của từng DMU, phương pháp phân tích
đường bao sẽ so sánh và tính toán hiệu quả tương đối giữa các DMU trong tập tham
khảo. Hiệu quả tương đối của từng DMU sẽ được xác định bằng cách so sánh với
DMU có hiệu quả tuyệt đối cao nhất, khi đó giá trị hiệu quả tương đối của các DMU
sẽ nằm trong khoảng [0;1].












: giá trị hiệu quả tương đối của DMU
j



: giá trị hiệu quả tuyệt đối của DMU
j


: giá trị hiệu quả tuyệt đối lớn nhất trong các DMU
Các bước thực hiện tính toán định mức bằng phương pháp phân tích đường bao cho
DMU
j
sẽ được thực hiện như sau:
- Lựa chọn bộ trọng số tốt nhất (u
j
, v
j
) để tính toán giá trị hiệu quả tuyệt đối 


cho DMU
j

- Sử

dụng bộ trọng số (u
j
, v
j
) tính giá trị hiệu quả tuyệt đối cho các DMU khác,
từ đó tìm ra DMU có giá trị hiệu quả tuyệt đối cao nhất (

)

- Tính hiệu quả tương đối 


) của DMU
j,
thông qua việc so sánh với DMU có
hiệu quả tốt nhất (

) ứng với bộ trọng số (u
j
, v
j
).






15

- Đánh giá hiệu quả vận hành và đề xuất định mức cải tiến cho DMU
j
:
o 


: DMU
j
chưa đạt được định mức

o 


: DMU
j
đạt định mức
 Các mô hình giải bài toán xây dựng định mức năng lượng bằng phương pháp
phân tích đường bao
- Mô hình CCR
Mô hình CCR được xây dựng với mục tiêu định hướng đầu vào hoặc định
hướng đầu ra trong điều kiện không xét đến tính quy mô của đơn vị. Mô hình CCR
sẽ tiến hành so sánh hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất sản phầm đầu
ra của các đơn vị với nhau, không phân biệt quy mô của đơn vị.
Bài toán tuyến tính trong mô hình CCR
Bài toán thiết lậu cho DMU
0
có dạng sau
Hàm mục tiêu: Max 


Với 








Hàm ràng buộc:




















u
r
, v
i


0 trong đó r  K, I  H
Xây dựng bài toán đối ngẫu cho mô hình CCR
Hàm đối ngẫu (DLP
0
): Min

Hàm ràng buộc 






Trong đó:  biến số thực thể hiện mức hiệu quả của từng DMU (Giá trị định mức)
Vecto không âm ((

 

là trọng số của các biến)
X, Y ma trận các biến đầu vào và biến đầu ra




đầu vào và đầu ra của DMU
0
Mô hình CCR trong phương pháp phân tích đường bao là mô hình tính toán
giá trị định mức không xét đến quy mô của đơn vị. Trong mô hình CCR có thể thiết
lập với mục tiêu định hướng đầu vào hoặc định hướng đầu ra. Việc tính toán trong
mô hình CCR gồm hai bước: Thiết lập bài toán tuyến tính hoặc bài toán đối ngẫu từ
đó tìm kiếm các giá trị mục tiêu cho từng đơn vị tham gia thực hiện xây dựng định
16

mức; bước tiếp theo là tính toán và đề xuất các kiến nghị cải tiến cho các đơn vị chưa
đạt định mức
- Mô hình BCC

Mô hình BCC định hướng đầu vào đánh giá hiệu quả của các DMU
0
(0,1,2,…,n) bằng
việc giải bài toán dưới đây:
Giá trị mục tiêu: (BCC
0)
min 


Ràng buộc: 





=1


Như vậy mô hình BCC khác với mô hình CCR khi thêm vào điều kiện e






(e là vecto đon vị). Điều kiện đó cùng với điều kiện 

cho tất cả j, cho
phép áp dụng điều kiện hàm lồi về việc kết hợp n DMU. Khi đó tại mỗi quy mô khác
nhau của các DMU, mô hình BCC sẽ so sánh và tính toán xác định giá trị định mức

tại từng quy mô. Nói cách khác mô hình BCC tính toán định mức trong điều kiện
xét đến quy mô của các DMU.
Mô hình BCC trong phương pháp phân tích đường bao về nguyên lý tính toán cũng
tương tự như mô hình CCR, chỉ khác là trong mô hình BCC khi tính giá trị định mức
có xét đến tính quy mô của các đơn vị tham gia vào việc so sánh xây dựng định mức
 Xây dựng mô hình bài toán tính toán giá trị cải tiến theo điều kiện định hướng
yếu tố cải tiến
Nhược điểm của mô hình CCR và mô hình BCC là khi đề xuất giá trị cải tiến
theo phương pháp hướng tâm nên đôi khi không phù hợp và thiếu tính khả thi trong
điều kiện thực tế. Do đó cần phải có những cải tiến cho bài toán trong mô hình CCR
và BCC sao cho sau khi tính toán thì các đề xuất cải tiến tập trung vào các biến cải
tiến (các biến có thể cải tiến), còn các biến khác (Các biến không thể cải tiến) sẽ cố
định không phải thay đổi.
- Bài toán cải tiến cho mô hình CCR
Bài toán CCR cải tiến: Min 
Hàm ràng buộc 









k= 1/m











 i # k
17











r = 1,2,…s


 j = 1,2,…n
- Ràng buộc 










: đầu vào k là đầu vào quan tâm đến phục
vụ cải tiến ( Các đầu vào có thể cải tiến được)
- Ràng buộc 









: Đầu vào i là những đầu vào không quan tâm khi
cải tiến ( Các đầu vào cố định không thể cải tiến được.
- Bài toán cải tiến cho mô hình BCC
Hàm mục tiêu (BCC
0
) min 


Ràng buộc: 










k= 1/m










 I # k










r = 1,2,…s


 j = 1,2,…n
=1

- Ràng buộc 









: đầu vào k là đầu vào có thể thay đổi, quan
tâm để phục vụ cải tiến
- Ràng buộc 









: Đầu vào i là những đầu vào cố định không quan
tâm khi cải tiến.
3.1.3. Đo lường bằng phương pháp tham số SFA
o Ước lượng hiệu quả kỹ thuật.
Năm 1957, Farell đã đưa ra một mức độ đo lường hiệu quả kỹ thuật để phản
ánh khả năng của một đơn vị ra quyết định (hay một ngân hàng) đạt được đầu ra cực
đại từ một tập hợp đầu vào đã cho. Vì thực tế ta không biết được hàm sản xuất, do
vậy Farell gợi ý ước lượng hàm này từ số liệu mẫu sử dụng hoặc bằng công nghệ

tuyến tính từng khúc phi tham số hoặc tiếp cận theo một hàm số. Charnes, Cooper và
Rhodes (1978) đã tiếp cận theo gợi ý thứ nhất của Farell và phát triển thành mô hình
DEA. Dựa trên gợi ý thứ 2 của Farell, Aigner và Chu (1968) đã tiếp cận phương pháp
tham số bằng việc ước lượng một hàm sản xuất đường biên tham số dạng Cobb-
Douglas sử dụng số liệu trên một mẫu N đơn vị ra quyết định (hay ngân hàng). Mô
hình được định nghĩa bởi:









 
18

Trong đó 

 là logarit của đầu ra (vô hướng) đối với đơn vị thứ i,

là một
vectơ hàng (K+1) chiều, phần tử thứ nhất của nó bằng "1" và các phần tử còn lại là
những logarit của lượng K đầu vào sử dụng bởi đơn vị thứ i; 

 






là
vec tơ cột (K+1) chiều các tham số chưa biết mà ta cần ước lượng; và 

là biến ngẫu
nhiên không âm, phản ánh phần phi hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất của các đơn vị
trong ngành.
Tỷ số của đầu ra quan sát đối với đơn vị thứ i so với đầu ra tiềm năng xác định
bởi hàm đường biên với véctơ đầu vào x
i
đã cho được dùng để định nghĩa hiệu quả
kỹ thuật của đơn vị thứ i:





















Độ đo này có giá trịgiữa 0 và 1. Nó cho thấy độ lớn tương đối của đầu ra của
đơn vị thứ i so với đầu ra mà một đơn vị hoàn toàn hiệu quả có thể sản xuất với cùng
véc tơ đầu vào đó. Hiệu quả kỹ thuật có thể được ước lượng bằng tỷ số của đầu ra
quan sát y
i
trên giá trị ước lượng của đầu ra đường biên 






3.1.4. Đo lường bằng chỉ số Malmquist
Kỹ thuật quy hoạch trong phương pháp tiếp cận phi tham số là một trong
những công cụ khá mạnh được sử dụng để đo lường các chỉ số Malmquist đó là các
chỉ số phản ánh sự thay đổi của các độ đo hiệu quả kỹ thuật, tiến bộ công nghệ, hiệu
quả thuần, hiệu quả quy mô và năng suất nhân tố tổng hợp.
Để xác định chỉ số Malmquist về thay đổi năng suất theo đầu ra, chúng ta giả
thuyết rằng tương ứng với mỗi thời kỳ t= 1,…, T có công nghệ sản xuất H
t
biểu thị
cách kết hợp tất cả đầu ra y
t
có thể được sản xuất bằng cách sử dụng đầu vào x
t
, tức
là:

H
t
= [(x
t
, y
t
) : x
t
có thể sản xuất y
t
]
Giả định rằng H
t
thoả mãn một số tiêu chuẩn nhất định để xác định hàm khoảng
cách đầu ra. Hàm khoảng cách đầu ra được xác định theo H
t
trong thời kỳ t như sau:



















Hàm khoảng cách 





 


 khi và chỉ khi (x,y) . Hơn nữa









 khi và chi khi (x,y) nằm trong biên của công nghệ. Để xác định chỉ
số Malmquist, ta cần mô tả bốn hàm khoảng cách sau:
19











và 








tương ứng là hàm khoảng cách theo đó các điểm sán
xuất được so sánh với công nghệ biên tại thời điểm t và t+1.









và 









là hàm khoảng cách đầu ra theo đó điểm sản xuất
được so sánh với công nghệ biên tại các thời điểm khác nhau
Theo Caves, Christensen và Diewert (1982), chỉ số năng suất Malmquist theo
đầu ra được xác định như sau:























Trong đó 


do sự thay đổi năng suất bắt nguồn từ sự thay đổi trong hiệu quả
kỹ thuật trong thời kỳ t tới t+1 với công nghệ thời kỳ t+1 được cho như sau:






















Để tránh ngưỡng chuẩn một cách tủy tiện, chúng ta sẽ chỉ định chỉ số thay đổi

năng suất Malmquist theo đầu ra là giá trị trung bình nhân của hai loại chỉ số năng
suất Malmquist nói trên:









 





















 






















Chỉ số thay đổi năng suất Malmquist theo đầu ra có thể được phân rã thành:





























 








































 





Trong đó số hạng thứ nhất ở vế phải

















do sự thay đổi hiệu quả
tương ứng giữa năm t và t+1 trong điều kiện hiệu quả không đổi theo quy mô. Số
hạng thứ hai theo vế phải là 







































 thể hiện chỉ số thay đổi
kỹ thuậ, tức là sự thay đổi công nghệ biên giữa hai thời kỳ t và t+1, được đánh giá tại
x
t
và x
t+1
, như vậy ta có:

















 































 








 





×