MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, giáo dục và đào tạo ( GD – ĐT)
luôn là một vấn đề quan trọng trong đời sống chính trị, bởi vì GD – ĐT là
biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước, Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Ngay từ những ngày đầu giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó phát triển GD – ĐT là
một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Bắt đầu từ Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đã ra Nghị quyết số 14
– NQTW về cải cách giáo dục với quan điểm: Xem giáo dục là bộ phận quan
trọng của cuộc cách mạng tư tưởng, thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục
thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành
Tư tưởng chỉ đạo trên tiếp tục được phát triển, bổ sung, hoàn thiện
cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của
Đảng cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục
là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý
tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần
hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp
người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan
tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với chính trị, có ý chí vươn lên về khoa
học – công nghệ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã nêu
rõ: “GD – ĐT có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn
hóa và con người Việt Nam. Phát triển GD – ĐT cùng với phát triển khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu ”
1
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH – HĐH)
đất nước và hội nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên
có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất
nước. Sự nghiệp CNH – HĐH đất nước đòi hỏi một lực lượng lao động có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, tiếp cận được với khoa học công nghệ
hiện đại. Do đó, lĩnh vực đào tạo nghề ở nước ta đã và đang được Đảng và
Nhà nước đặc biệt coi trọng. Chiến lược GD - ĐT của Đảng và Nhà nước
được đề ra theo hướng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo nghề,
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động dạy nghề và học nghề của nhân dân.
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 đã cụ thể hóa
mục tiêu đối với dạy nghề trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH là: “Đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ
phát triển của các nghành nghề”. Luật Giáo dục sửa đổi năm 2010, Điều 33,
mục 3 “Giáo dục nghề nghiệp” cũng nêu rõ mục tiêu của giáo dục nghề
nghiệp là “đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các
trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác
phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động có
khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm tiếp tục học tập nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH, củng cố quốc
phòng, an ninh” (Trang 19, 20).
Ngày 15 tháng 12 năm 2011, theo Quyết định số 1339/QĐ – LĐTBXH
của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Trường Cao đẳng nghề Hà Giang
chính thức được thành lập trên cơ sở nâng cấp Trường Trung cấp nghề tỉnh
Hà Giang. Trường Cao đẳng nghề Hà Giang có nhiệm vụ đào tạo nghề theo
3 cấp trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề và sơ cấp nghề; bồi dưỡng
nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động theo yêu cầu của cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và người lao động. Đặc biệt, Trường Cao đẳng
2
nghề Hà Giang còn có nhiệm vụ đào tạo nghề, tạo việc làm cho con em đồng
bào các dân tộc thiểu số của tỉnh Hà Giang, phù hợp với quan điểm chiến
lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2020 của Đảng và Nhà nước
ta: quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa. Đảm
bảo công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ
đối với đồng bào dân tộc thiểu số
Tính thời điểm này, Trường Cao đẳng nghề Hà giang là một trường cao
đẳng nghề có tuổi đời vô cùng non trẻ. Chất lượng đội ngũ giáo viên (GV)
còn nhiều bất cập, đó là: GV lý thuyết hầu hết là kỹ sư mới ra trường chưa
được đào tạo, bồi dưỡng trong các trường đại học sư phạm kỹ thuật; GV
thực hành chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy, đặc biệt trình độ kỹ năng
nghề chưa cao; đội ngũ GV có bình quân dưới 30 tuổi, do vậy còn thiếu kinh
nghiệm trong chuyên môn nghiệp vụ. Đội ngũ cán bộ quản lý (CBQL) chủ
yếu là các cán bộ được chuyển đến từ các cơ quan khác, không được đào tạo
từ các ngành kỹ thuật, do đó hiệu quả quản lý chưa cao. Về chương trình đào
tạo, Nhà trường đã tổ chức biên soạn giáo trình trên cơ sở khung chương
trình được Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
(LĐTB&XH) ban hành, nhưng chưa kinh qua thực tế cho nên trong quá
trình thực hiện gặp không ít khó khăn và bất cập. Về cơ sở vật chất, các
trang thiết bị dạy nghề của trường tuy đã được UBND tỉnh, Tổng cục Dạy
nghề quan tâm đầu tư nhưng vẫn chưa đồng bộ về kỹ thuật, thiếu về số
lượng và chưa phải là công nghệ hiện đại tiên tiến. Nhìn chung, điều kiện để
đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề của Nhà trường còn nhiều bất cập cần
phải được từng bước củng cố.
Hiện nay Trường Cao đẳng nghề Hà Giang có 9 phòng, khoa, bao gồm
các khoa: Điện, Nông lâm, Cơ khí động lực và Công nghệ thông tin. Nhưng
do đặc thù của tỉnh Hà Giang, là một tỉnh miền núi có địa hình hiểm trở,
3
giao thông không thuận lợi với phương tiện giao thông duy nhất là bằng
đường bộ, nên Cơ khí động lực được xác định là một trong những nghề mũi
nhọn của trường. Tuy nhiên, kết quả khảo sát tại một số doanh nghiệp sử
dụng sinh viên đã tốt nghiệp tại trường Trung cấp nghề Hà Giang (nay là
Trường Cao đẳng nghề Hà Giang) cho thấy, kỹ năng thực hành nghề của lao
động qua đào tạo còn rất hạn chế. Trong bối cảnh hợp tác quốc tế, ngày càng
có nhiều nhà máy lắp ráp ô tô của Trung Quốc được mở tại tỉnh Hà Giang,
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao là một yêu
cầu được đặt ra hết sức cấp bách.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý hoạt
dộng thực hành nghề công nghệ ô tô cho học sinh dân tộc thiểu số tại
Trường cao đẳng nghề Hà Giang” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng, đề xuất một số giải
pháp quản lý hoạt động thực hành nghề công nghệ ô tô cho học sinh dân tộc
thiểu số, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại Trường Cao đẳng
nghề Hà Giang.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
1.1 Khách thể nghiên cứu
Quá trình tổ chức dạy học thực hành nghề công nghệ ô tô cho HS dân tộc
thiểu số tại Trường Cao đẳng nghề Hà Giang.
1.2 Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành nghề công nghệ ô tô
cho HS dân tộc thiểu số tại Trường Cao đẳng nghề Hà Giang.
2. Giả thuyết khoa học
Trong công tác đào tạo nghề, chất lượng tay nghề của người tốt nghiệp
phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong các yếu tố liên quan, các giải pháp quản
4
lý hoạt động dạy học thực hành nghề có tầm quan trọng đặc biệt. Do vậy,
nếu đề xuất được các giải pháp quản lý hoạt động thực hành nghề công nghệ
ô tô phù hợp và thực hiện tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề
tại trường Ccao đẳng nghề Hà Giang.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Nghiên cứu các vấn đề lý luận có liên quan đến công tác dạy thực
hành công nghệ ô tô ở trường dạy nghề.
3.2 Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học thực hành
nghề nghề công nghệ ô tô cho HS dân tộc thiểu số tại Trường Cao
đẳng nghề Hà Giang.
3.3 Đề xuất một số giải pháp quản lý hoạt động thực hành nghề công nghệ ô
tô cho HS dân tộc thiểu số tại Trường Cao đẳng nghề Hà Giang.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1 Giới hạn đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một số giải pháp quản lý dạy học nghề công nghệ ô tô
cho HS dân tộc thiểu số tại Trường Cao đẳng nghề Hà Giang (Phạm vi hoạt
động dạy học thực hành nghề sửa chữa ô tô trong chương trình đào tạo).
4.2 Giới hạn khách thể điều tra
Hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng; các trưởng, phó phòng, khoa, tổ
chuyên môn và một số cán bộ GV nhà trường; HS dân tộc thiểu số đang học
tập tại trường.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về đào tạo
nghề; nghiên cứu các sách, tài liệu liên quan đến chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về đào tạo nghề cho dân tộc thiểu số…để từ đó phân tích,
tổng hợp và hệ thống hóa những vấn đề đó thành cơ sở lý luận của đề tài.
5
5.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Kết hợp nhiều phương pháp như: Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi,
phương pháp quan sát, phỏng vấn, phương pháp chuyên gia.
Phương pháp bổ trợ
Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để xử lý, phân tích các số
liệu điều tra.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, luận văn có 3 chương.
Chương I: Cở sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học thực hành công
nghệ ô tô ở trường dạy nghề.
Chương II: Thực trạng về hoạt động dạy học thực hành và quản lý hoạt
động dạy học thực hành nghề công nghệ ô tô của học sinh dân tộc thiểu
số tại Trường cao đẳng nghề Hà Giang.
Chương III: Giải pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành nghề công
nghệ ô tô của học sinh dân tộc thiểu số tại Trường cao đẳng nghề Hà Giang.
9. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ đặc điểm và thực trạng học thực hành nghề công
nghệ ô tô của học sinh dân tộc thiểu số.
- Đề xuất được các giải pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành nghề
nhằm nâng cao kỹ năng thực hành nghề công nghệ ô tô của HS dân tộc thiểu
số tỉnh Hà Giang.
6
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC THỰC HÀNH CÔNG NGHỆ Ô TÔ
Ở TRƯỜNG DẠY NGHỀ
1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Trong xã hội loài người, không có một cá nhân nào lại có thể tồn tại
và phát triển một cách cô lập, độc lập hoàn toàn với các cá nhân khác và với
tập thể. Chính vì vậy mà triết học Mác coi “bản chất con người là tổng hòa
các quan hệ xã hội”. Con người muốn tồn tại, xã hội loài người muốn phát
triển thì ngoài sự nỗ lực của mỗi cá nhân ra chúng ta còn phải thừa nhận sự
quản lý nào đó của tổ chức mà chúng ta tham gia vào. Về vấn đề này, C.Mác
đã khẳng định: “Tất cả mọi lao động trực tiếp và tiến hành trên qui mô -
tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung, phát sinh từ
vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất khác với sự vận động của những cơ
quan độc lập với nó. Một người độc tấu vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển
lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [4; 29, 30]. Hoạt
động dạy học, GD - ĐT trong nhà trường cũng như vậy, tất yếu phải liên
quan đến hoạt động quản lý. Thực tiễn đã chứng minh rằng, nếu hoạt động
quản lý trong nhà trường không tốt thì quá trình giáo dục, dạy học trong nhà
trường cũng không đạt được mục tiêu mong muốn. Ngược lại, mục tiêu GD
- ĐT, dạy học của nhà trường đạt được một cách tốt đẹp thì trong đó nhất
định có sự đóng góp to lớn từ hoạt động quản lý.
Toàn cầu hóa là một hiện thực mới ở Việt Nam. Nghịch lý của toàn
cầu hóa là nó có thể biến mọi điều không thể thành có thể và ngược lại. Nó
có thể tước đoạt hoặc gia tăng quyền lực. Nó có thể đồng hóa, làm nghèo đi,
7
đồng thời nó cũng có thể làm cho các nền văn hóa xích lại gần nhau và cùng
trở nên phong phú. Toàn cầu hóa có nghĩa là chúng ta vừa lớn lên vừa nhỏ
lại, vừa mạnh lên đồng thời cũng vừa yếu đi Tuy nhiên, Thế giới có thể
"phẳng" về kinh tế và công nghệ nhưng không thể phẳng về văn hóa và giáo
dục. Vũ khí cạnh tranh và quyết định của mỗi quốc gia trong làn sóng toàn
cầu hóa chính là giáo dục và kỹ năng của người lao động. Yêu cầu cấp bách
đó của thời đại đã đặt ra cho GD – ĐT nói chung và đào tạo nghề nói riêng
những thời cơ và thách thức lớn. Lúc này, giáo dục trở thành một trong
những vấn đề quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước của
tất cả các quốc gia trên thế giới, không riêng gì Việt Nam.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng
của giáo dục nghề trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Hội nghị lần thứ 2
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã nêu rõ: “Để thực hiện được
mục tiêu chiến lược mà Đại hội VII đã đề ra cần phải khai thác và sử dụng
nhiều nguồn nhân lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người là quí báu
nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt là đối với nước ta khi nguồn lực tài
chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Nguồn lực đó là người lao động có
trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với nền khoa học,
công nghệ hiện đại.”
Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam gồm giáo dục chính quy và
giáo dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào tạo bao gồm: giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, trong
đó đào tạo nghề luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển KT
- XH, góp phần giữ vững, nâng cao đời sống cho nhân dân và giải quyết tốt
các vấn đề của xã hội.
8
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp chính là đào tạo người lao động có
kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, có đạo đức, có ý thức kỷ luật, tác phong
công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khẳ năng
tìm việc làm, đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH. Tuy nhiên, theo các chuyên
gia về nhân lực, lao động Việt Nam rất dồi dào nhưng lại thiếu trầm trọng về
chất lượng. Nguyên nhân chính chính là công tác quản lý thực hành nghề của
HS thực hiện chưa tốt. Hầu hết các sinh viên sau khi ra trường không thể bắt
tay ngay vào công việc mà luôn phải qua một thời gian đào tạo lại.
Như vậy, vấn đề chất lượng lao động đã trở thành vấn đề của thời đại,
vấn đề sống còn của tất cả các trường Cao đẳng nghề trong thời đại ngày nay,
đòi hỏi các nhà quản lý nhà trường phải đầu tư nghiên cứu để tìm ra những giải
pháp nâng cao chất lượng dạy và học. Một trong những giải pháp đó là đổi mới
mạnh mẽ cơ chế quản lý trong nhà trường nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao
kỹ năng thực hành nghề cho HS, góp phần nâng cao chất lượng lao động.
Là người trực tiếp giảng dạy và quản lý ở khoa công nghệ ô tô –
Trường Cao đẳng nghề ở tỉnh miền núi Hà Giang, tôi nhận thấy HS là người
dân tộc thiểu số có đặc thù riêng. Hầu hết HS của nhà trường nói chung và
của khoa cơ khí động lực nói riêng đều là con em các đồng bào dân tộc thiểu
số của tỉnh Hà Giang. Vì vậy, bên cạnh những khó khăn chung của các
trường cao đẳng nghề trên toàn quốc trong việc nâng cao kỹ năng thực hành
nghề cho HS, chúng tôi còn gặp những khó khăn mang tính đặc thù khác.
Xuất phát từ thực tiễn, có thể khẳng định, để nâng cao kỹ năng thực hành
nghề công nghệ ô tô cho HS dân tộc thiểu số người GV cần phải có những
biện pháp quản lý hoạt động dạy và học sát thực tế và phù hợp với đối tượng
học tập, phù hợp với đơn vị của mình.
9
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về vấn đề quản lý hoạt động
thực hành nghề tại các trường trung cấp và cao đẳng nghề chưa nhiều, cho
tới thời điểm hiện tại đã có một số công trình có liên quan như:
Tác giả Hoàng Minh Quan (2009) – “Thí nghiệm thực hành ảo ứng
dụng trong dạy nghề điện ô tô tại trường cao đẳng nghề Kỹ thuật công
nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc” - Luận văn thạc sĩ QLGD, Nghệ An.
Tác giả Tô Văn Khôi (2008) – “Quản lý dạy học thực hành nghề (hệ
trung cấp) ở trường cao đẳng công nghiệp Thái Nguyên” – Luận văn thạc sĩ
QLGD, Thái Nguyên.
Tác giả Phạm Trắc Vũ (1993) – “Cơ sở lý luận và thực tiễn phương
thức tổ chức đào tạo nghề kết hợp tại trường và tại cơ sở sản xuất”, luận văn
thạc sĩ KHGD, Viện chiến lược và chương trình giáo dục, Hà Nội.
Tác giả Nguyễn Văn Thăng (2005) – “Một số biện pháp tăng cường
quản lý đào tạo nghề ở các trường dạy nghề Thành phố Hải Phòng”, luận
văn thạc sỹ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
Tác giả Trần Khắc Hoàn (2005) – “Kết hợp đào tạo giữa nhà trường
và doanh nghiệp trong thời kỳ CNH – HĐH” – Luận án tiến sỹ KHGD,
Trường Đại học quốc gia Hà Nội.
Trong số các công trình trên đây chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu vấn đề quản lý hoạt động thực hành nghề công nghệ ô tô cho đối tượng
đặc thù là HS dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi như tỉnh Hà Giang. Vì
vậy, nét mới của luận văn là khai thác những đặc điểm riêng đó.
1.2 Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1 Quản lý
1.2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
Theo quan điểm của Triết học Mác, con người là một thực thể thống
nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội. Con người là động vật cao cấp nhất, là
10
tinh hoa của muôn loài, là sản phẩm phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự
nhiên. Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản
chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới
loài vật là mặt xã hội. Mỗi cá nhân với tư cách là một con người không bao
giờ có thể tách rời khỏi những cộng đồng xã hội nhất định. Tính xã hội của
con người biểu hiện trong sản xuất vật chất. Từ khi loài người xuất hiện, con
người đã có nhu cầu lao động tập thể mà trong lao động bắt đầu nảy sinh vấn
đề phân công và hợp tác. Để cho lao động đạt được hiệu quả cao thì cần phải
có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành, kiểm tra… tức là phải có người đứng
đầu. Chính vì thế mà hoạt động quản lý đã ra đời.
Có thể nói hoạt động quản lý gắn liền với sự hình thành và phát triển
của xã hội loài người, vì vậy mà khái niệm quản lý cũng xuất hiện rất sớm.
Bởi vì trong bất cứ một lĩnh vực nào, thể chế xã hội nào cũng cần có sự quản
lý nên trong quá trình phân tích và ứng dụng người ta hiểu quản lý theo
nhiều cách khác nhau, dẫn đến có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý.
Theo Harol Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo sự
nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức” [13;31].
Theo Aunapu F.F: “Quản lý là một hệ thống XHCN, là một khoa học
và là một nghệ thuật tác động vào một hệ thống xã hội, chủ yếu là quản lý
con người nhằm đạt được những mục tiêu xác định. Hệ thống đó vừa động,
vừa ổn định bao gồm nhiều thành phần có tác động qua lại lẫn nhau”
[1;75].
Ở nước ta cũng có khá nhiều khái niệm khác nhau về quản lý:
Theo từ điển của viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản (NXB) Giáo dục
(1994) viết: “Quản lý là trông coi, giữ gìn theo yêu cầu nhất định. Là tổ
chức và điều khiển các hoạt động theo những điều kiện nhất định” [24].
11
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục 1998, quản lý là:
tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan.
Theo tác giả Nguyễn Văn Bình thì: “Quản lý là một nghệ thuật đạt
được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ
huy hoạt động của những người khác” [3;176].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói
chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến” [23;24].
Theo Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong
việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực
(nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách
tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [14;15].
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Bản chất của hoạt động quản lý
gồm hai quá trình tích hợp vào nhau: quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ
gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm sụ sửa sang, sắp
xếp, đổi mới hệ, đưa hệ vào thế “phát triển” [2;14].
Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn: “Quản lý là tác động có tổ chức, có
định hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đề ra
trong điều kiện biến chuyển của môi trường” [26;43]
Tác giả Mai Hữu Khê quan niệm: “Quản lý là sự tác động có mục
đích tới tập thể lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục
đích đã định trước” [16;19,20].
Tựu chung lại, các định nghĩa trên tuy nhấn mạnh mặt này hay mặt
khác nhưng điểm chung thống nhất đều coi quản lý là hoạt động có tổ chức,
có mục đích nhằm tới mục tiêu đã xác định. Trong quản lý bao giờ cũng có
12
chủ thể quản lý (người quản lý) và khách thể quản lý (người bị quản lý)
quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý.
Quản lý là các tác động để đạt được mục đích chung là hoàn thành tốt
công việc thông qua nỗ lực của các cá nhân trong một tập thể. Quản lý là
một là một lao động để điều khiển lao động, là một hoạt động trí tuệ mang
tính sáng tạo bằng những quyết định phù hợp quy luật khách quan, phù hợp
thời điểm, phù hợp với đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích chung
của tổ chức.
1.2.1.2 Chức năng của hoạt động quản lý
Qua quá trình học tập, nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy chức năng
chung của quản lý được hội tụ và thống nhất ở bốn điểm sau đây:
* Chức năng lập kế hoạch: Là chức năng quan trọng nhất của quá
trình quản lý, nhằm xác định rõ mục đích, mục tiêu đối với thành tựu tương
lai của tổ chức và những quy định, biện pháp, cách thức để đưa tổ chức đạt
được những mục tiêu đó. Nói rõ hơn, lập kế hoạch là quá trình thiết lập các
mục tiêu và hệ thống các điều kiện, các biện pháp đảm bảo đạt được những
mục tiêu đó.
* Chức năng tổ chức: Là sắp xếp, bố trí một cách khoa học và phù
hợp nguồn nhân lực, vật lực và tài lực của hệ thống thành một hệ toàn vẹn
nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau để đạt được mục tiêu của hệ
thống một cách hiệu quả nhất. Đây là một chức năng quan trọng, đảm bảo
tạo thành sức mạnh của tổ chức để thực hiện thành công kế hoạch.
* Chức năng chỉ đạo: Khi kế hoạch đã được thiết lập, cơ cấu bộ máy
đã được hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng và sắp xếp thì phải có
người đứng ra lãnh đạo và dẫn dắt tổ chức, điều chỉnh, điều hành hoạt động
của hệ thống nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã định; chỉ đạo bám sát các
hoạt động, các trạng thái vận hành của hệ thống theo đúng tiến trình, đúng
13
kế hoạch đã đề ra. Đồng thời phát hiện ra những sai sót để kịp thời sửa chữa,
uốn nắn nhằm giữ vững mục tiêu chiến lược mà kế hoạch đã đề ra.
* Chức năng kiểm tra đánh giá: Đây là một chức năng cơ bản và quan
trọng của quản lý. Chức năng kiểm tra đánh giá chính là thu thập thông tin
ngược từ đối tượng quản lý trong quá trình vận hành hệ thống để đánh giá
xem hiệu quả lao động của từng cá thể trong hệ thống như thế nào trong việc
thực hiện mục tiêu dự kiến ban đầu cũng như toàn bộ kế hoạch đã đạt được
đến mức độ nào. Trong quá trình kiểm tra kịp thời phát hiện ra những sai sót
trong quá trình hoạt động để kịp thời sửa chữa, đồng thời tìm ra nguyên
nhân thành công, thất bại nhằm giúp cho chủ thể quản lý rút ra được bài học
kinh nghiệm để áp dụng cho quá trình quản lý tiếp theo.
Ngoài 4 chức năng trên trong chu trình quản lý, chủ thể quản lý còn
phải sử dụng thông tin như là một công cụ hay chức năng đặc biệt để thực
hiện các chức năng trên.
1.2.1.3 Ý nghĩa của hoạt động quản lý
Hoạt động quản lý có những ý nghĩa như sau:
- Là sự tính toán hợp lý, khoa học khi sử dụng các nguồn nhân lực,
các biện pháp đảm bảo cho hoạt động của bộ máy ăn khớp, nhịp nhàng giúp
cho việc nâng cao năng suất lao động đạt được mục tiêu chung của tổ chức.
- Đảm bảo trật tự kỷ cương của bộ máy thông qua việc đưa ra những
quy định có tính pháp chế như: Luật, quy chế, nội quy…
- Là nhân tố của sự phát triển. Nếu quản lý tốt dựa trên những căn cứ
và công cụ vững chắc sẽ có sự thúc đẩy sự phát triển của tổ chức.
- Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong những nguyên nhân
thất bại, phá sản của các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị sản xuất…thì
nguyên nhân thuộc về người quản lý chiếm đến hơn 50%. Chính vì vậy, khi
tổ chức lại bộ máy thì biện pháp thay thế người quản lý năng lực kém bằng
14
người quản lý có năng lực và có khả năng lãnh đạo tốt luôn là biện pháp
được sử dụng nhiều nhất.
- Ngày nay, trong 5 nhân tố phát triển kinh tế là tài nguyên, vốn, công
nghệ, lao động và chất xám quản lý thì chất xám quản lý được coi là yếu tố
quan trọng hàng đầu có vai trò quyết định sự tăng trưởng và phát triển của
một tổ chức kinh tế hay của đất nước.
- Quản lý là một nghệ thuật. Người quản lý phải phối hợp các nhân tố
tài nguyên, vốn, công nghệ, lao động và chất xám quản lý thành sức mạnh
tổng hợp, hạn chế mâu thuẫn tới mức thấp nhất, tranh thủ những mặt thuận
lợi để hướng tới mục tiêu. Sắp xếp các nguồn nhân lực của tổ chức, xử lý
linh hoạt, sáng tạo các tình huống trong hoạt động của tổ chức.
- Quản lý có tính khoa học. Trên cơ sở tích lũy kiến thức, đúc kết kinh
nghiệm thực tế, khái quát hóa những tri thức đó thành những nguyên tắc,
phương pháp và kỹ năng quản lý cần thiết.
- Quản lý có tính công nghệ. Trong xã hội hiện đại, việc nghiên cứu,
áp dụng những thành tựu khoa học mới vào thực tế sản xuất đang là xu
hướng của quản lý hiện đại ngày nay. Phối hợp sử dụng các nguồn nhân lực,
vật lực, tài lực và thông tin để đạt được mục tiêu.
Không chỉ vậy, nhân tố con người trong quản lý cũng rất được coi
trọng. Sự năng động, thông minh và sáng tạo kết hợp với tính nguyên tắc
được coi là những phẩm chất cơ bản của nhà quản lý. Đồng thời việc giải
quyết tốt vấn đề lợi ích giữa nhà quản lý và đối tượng quản lý là một yếu tố
quan trọng được thừa nhận như một mặt của đạo đức nghề nghiệp và đạo
đức kinh doanh.
1.2.1.4 Vai trò của quản lý trong sự phát triển của xã hội
Một xã hội muốn tồn tại và phát triển bao giờ cũng gồm 3 yếu tố là tri
thức, lao động và quản lý, trong đó, quản lý là công cụ và biện pháp chúng
15
ta sử dụng và huy động các nguồn lực nhằm đem lại hiệu quả cuối cùng là
một trong những công nghệ xã hội quan trọng nhất của con người.
Từ khi con người mới xuất hiện tri thức còn ít, lao động còn thô sơ,
thủ công và chưa có sự phức tạp về đa dạng ngành nghề thì quản lý còn rất
đơn giản. Ngày nay, với số lượng tri thức phong phú, lượng thông tin tăng
lên hàng ngày hàng giờ theo cấp số nhân, xuất hiện ngày càng nhiều các
ngành nghề đòi hỏi trình độ cao thì việc quản lý cũng ngày càng phức tạp và
được đề cao. Quản lý, tri thức và lao động là 3 yếu tố có mối quan hệ mật
thiết, tương tác lẫn nhau tạo nên sự phát triển của xã hội. Tri thức càng cao,
lao động càng hiện đại đòi hỏi phải có quản lý giỏi, ngược lại, quản lý giỏi
sẽ thúc đẩy tri thức và lao động phát triển.
Tựu chung lại, quản lý là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống
và trong sự phát triển của xã hội loài người. Quản lý có tác động thúc đẩy
hay kìm hãm sự phát triển của xã hội tùy theo trình độ quản lý cao hay thấp.
Chính vì vậy, trong thời đại ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của công
nghệ thông tin và lượng tri thức thì trình độ quản lý lại càng được đòi hỏi
cao hơn.
1.2.2 Quản lý đào tạo nghề
1.2.2.1 Mục tiêu của quản lý đào tạo nghề
Mục tiêu quản lý là trạng thái được xác định trong tương lai của đối
tượng quản lý hay một số yếu tố cấu thành của nó. Nói một cách khác, mục
tiêu quản lý là những kết quả mà chủ thể quản lý dự kiến sẽ đạt được do quá
trình vận động của đối tượng quản lý dưới sự điều khiển của chủ thể quản lý.
Đối tượng của quản lý quá trình đào tạo là hoạt động dạy của người
thầy và hoạt động học của học trò…quá trình đào tạo là một hệ thống bao
gồm nhiều yếu tố cùng vận động trong mối quan hệ mật thiết với nhau. Mục
tiêu quản lý đào tạo nghề là làm thế nào để đảm bảo thực hiện một cách đầy
16
đủ các kế hoạch đào tạo và các nội dung chương trình giảng dạy đúng tiến
độ quy định với chất lượng cao.
1.2.2.2 Nguyên tắc của quản lý đào tạo nghề
Quản lý đào tạo phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc giáo dục nói
chung và áp dụng các nguyên tắc đó vào quản lý đào tạo ở phạm vi trong
một nhà trường. Nhìn chung, các nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ là: Thống
nhất quản lý về chính trị, tập trung dân chủ, kết hợp giữa nhà nước và xã hội
trong công tác giáo dục, đảm bảo tính khoa học, tính kế hoạch, tính cụ thể,
thiết thực và hiệu quả.
1.2.2.3 Phương pháp của quản lý đào tạo nghề
Trong quản lý đào tạo nghề, cần sử dụng một cách hài hòa, hợp lý và
có hiệu quả các phương pháp quản lý như: Phương pháp hành chính tổ chức,
phương pháp tâm lý xã hội, phương pháp kinh tế.
1.2.2.4 Nội dung của quản lý đào tạo nghề
Đào tạo là sự vận động của một hệ thống do nhiều yếu tố cấu thành,
trong đó mỗi yếu tố lại có những tính chất, đặc điểm riêng và có những tác
động khác nhau đến kết quả đào tạo đồng thời giữa các yếu tố lại có tác
động lẫn nhau. Trong nội dung đề tài, chúng tôi chỉ xin đề cập đến các nội
dung sau:
a, Quản lý mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo
Mục tiêu đào tạo là kết quả, là sản phẩm mong đợi của quá trình đào
tạo. Mục tiêu đào tạo hay sản phẩm đào tạo chính là người HS tốt nghiệp với
nhân cách đã được thay đôi, cải biến thông qua quá trình đào tạo
Mục tiêu đào tạo có vai trò là xuất phát điểm để chỉ đạo soạn thảo và
triển khai chương trình đào tạo, đồng thời là cơ sở để thiết lập kế hoạch thực
hiện và đánh giá. Mục tiêu đào tạo là chuẩn mực để đánh giá kết quả kết quả
hoạt động đào tạo. Mục tiêu đào tạo quy định tính chất và phương pháp của
17
quá trình đào tạo, quy định nội dung, phương pháp và tổ chức quá trình đào
tạo. Mục tiêu đào tạo tác động đến tất cả các đối tượng, các nhân tố của quá
trình đào tạo.
Nội dung của chương trình đào tạo là hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo nghề nghiệp, hoạt động xã hội được chọn lọc trong nền văn hóa, khoa
học kỹ thuật của dân tộc và của loài người mà người giáo viên cần tổ chức
cho người học lĩnh hội để đảm bảo hình thành theo mục tiêu đào tạo đã định
ra. Để thực hiện được mục tiêu đã được trình bày ở trên, người học cần lĩnh
hội một hệ thống mục tiêu đào tạo.
Nội dung chương trình đào tạo cần được cụ thể hóa trong kế hoạch
đào tạo, chương trình giảng dạy và các tài liệu dạy học.
Quản lý mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo là quản lý việc xây
dựng mục tiêu nội dung đào tạo, kế hoạch đào tạo và nội dung chương trình
giảng dạy được thực hiện đầy đủ, đúng thời gian và nội dung, quán triệt
được các yêu cầu về mục tiêu đào tạo.
b, Quản lý GV và hoạt động của GV
Quản lý GV và quản lý việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của đội
ngũ GV, của từng giảng viên bao gồm:
Quản lý về cơ cấu, số lượng, chất lượng đội ngũ GV, đánh giá các ưu
khuyết điểm, sự tiến bộ về các mặt chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức,
năng lực chuyên môn của từng GV.
Quản lý bồi dưỡng, đào tạo phát triển đội ngũ GV …
Chỉ đạo, theo dõi việc hoàn thiện các hồ sơ, sổ sách chuyên môn
nghiệp vụ.
Theo dõi đôn đốc việc thực hiện kế hoạch và chương trình giảng dạy
theo thời khóa biểu.
18
Theo dõi đôn đốc việc thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện các
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục của toàn thể đội ngũ GV và của từng GV.
Theo dõi đôn đốc việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện việc
học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp
sư phạm của toàn thể đội ngũ GV và của từng GV.
Đánh giá các ưu, khuyết điểm sự tiến bộ về các mặt chính trị tư tưởng,
phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn của GV.
c, Quản lý HS
Quản lý HS thực chất là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ học tập,
nghiên cứu khoa học và rèn luyện của HS trong quá trình đào tạo.
Quản lý HS có các nhiệm vụ sau:
Theo dõi tìm hiểu để nắm bắt được những biểu hiện tích cực và tiêu
cực trong thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện cũng như những biến đổi về
nhân cách của HS nói chung và của từng HS nói riêng, từ đó đưa ra các giải
pháp phù hợp trong giảng dạy và giáo dục HS.
Theo dõi và giúp đỡ HS, khuyến khích HS phát huy các yếu tố tích
cực, khắc phục các yếu tố tiêu cực, phấn đấu vươn lên để đạt kết quả học tập
và rèn luyện ngày càng tốt hơn.
Công tác quản lý HS còn được tiến hành đồng bộ cả trong giờ lên lớp
và ngoài giờ lên lớp, trong nhà trường và ngoài nhà trường, trong cả hoạt
động học tập và rèn luyện, tu dưỡng đạo đức…
d, Quản lý cơ sở vật chất và phương tiện dạy học
Quản lý cơ sở vật chất và phương tiện dạy học bao gồm các công
việc: Xây dựng phòng học, nhà lưu trú của HS và GV, nhà xưởng…Quản lý
mua sắm các phương tiện, trang thiết bị, đồ dùng học tập, tài liệu giảng dạy
và tham khảo. Ngoài ra, việc quản lý cơ sở vật chất và phương tiện dạy còn
bao gồm cả quản lý việc sử dụng, bảo quản, phát hiện kịp và sửa chữa thời
19
những hỏng hóc của cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy và học của
GV và HS, cán bộ công nhân viên trong quá trình đào tạo.
1.2.3 Quản lý hoạt động dạy học thực hành
Trong quá trình dạy học, đặc biệt là trong đào tạo nghề thường được
phân chia một cách tương đối thành hai quá trình là dạy học lý thuyết và dạy
học thực hành. Đặc điểm quan trọng để phân biệt giữa dạy học thực hành và
dạy học lý thuyết chính là dạy học không phải chủ yếu là truyền đạt, cung
cấp thông tin mà chủ yếu là hình thành kỹ năng, rèn luyện kỹ xảo, phát triển
khả năng tìm tòi, phát hiện, quản lý và sử lý thông tin thành sản phẩm có ý
nghĩa đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp.
Dạy học thực hành nghề có nhiệm vụ chủ yếu là truyền đạt và tiếp thu
kĩ năng, kĩ xảo, hình thành ý thức thái độ nghề nghiệp và những kinh
nghiệm thực tiễn của xã hội. Dạy thực hành là một quá trình giáo dục và
giáo dưỡng được tổ chức có kế hoạch; là một quá trình giảng dạy, học tập và
lao động. Quá trình ấy cùng với quá trình giảng lý thuyết và hoạt động ngoài
giờ tạo nên một thể thống nhất trong đào tạo nghề. Rõ ràng, sự phân chia
tương đối giữa dạy lý thuyết và dạy thực hành trong đào tạo nghề là dựa vào
chức năng, nhiệm vụ của dạy lý thuyết và dạy thực hành nghề. Hai quá trình
này thường bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau, được tổ chức thực hiện
xen kẽ, thay đổi và kế thừa nhau.
Hiện nay, tại các trường trung cấp, cao đẳng nghề đang có xu hướng
thực hiện thống nhất hai quá trình dạy lý thuyết chuyên môn nghề với quá
trình dạy thực hành nghề (dạy học tích hợp). Hình thức đào tạo theo Modul
và MES mà các trường đang triển khai thực hiện chính là làm cho quá trình
dạy lý thuyết chuyên môn nghề với quá trình thực hành nghề gắn bó chặt
chẽ với nhau. Tuy nhiên sự khác nhau trong phương pháp lĩnh hội, nhận
20
thức đối với các tri thức lý thuyết và các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp vẫn
tồn tại khách quan trong quá trình dạy học ở đào tạo nghề.
Quản lý dạy học thực hành nghề bao gồm những nội dung sau:
1.2.3.1 Quản lý kế hoạch hoạt động dạy học thực hành
Quản lý kế hoạch hoạt động dạy học thực hành nằm trong quá trình
quản lý kế hoạch đào tạo chung. Quản lý kế hoạch bao gồm việc thu thập
thông tin, tổ chức lập kế hoạch, giám sát thực hiện mục tiêu, điều chỉnh nội
dung, nguồn lực, biện pháp, tiến độ hoạt động và kiểm tra việc thực hiện các
yêu cầu dạy học thực hành. Nội dung của kế hoạch dạy học thực hành phải
thể hiện được:
- Mục tiêu đào tạo thực hành và mục tiêu đào tạo chung.
- Thời gian và phân bố thời gian cho khóa học.
- Thời gian thực học tối thiểu trong hoạt động thực hành.
1.2.3.2 Quản lý nội dung, kế hoạch, chương trình dạy học thực hành
Quản lý nội dung kế hoạch giảng dạy thực hành là một biện pháp quan
trọng trong quá trình đào tạo nhằm đảm bảo chất lượng và mục tiêu đào tạo về
mặt kỹ thuật và chuyên môn, thường gọi là công tác giáo vụ, bao gồm:
- Quản lý thực hiện kế hoạch tiến độ thời gian và các hoạt động giảng
dạy, học tập và các hoạt động khác. Tức là theo dõi, điều tiết để đảm bảo
hoạt động giảng dạy, học tập, lao động, thể dục, quân sự được thực hiện đủ
nội dung và đúng thời gian quy định, bảo đảm cho khóa học kết thúc theo
đúng thời gian. Việc theo dõi phải được dựa trên cơ sở bảng tiến độ năm học
và lịch học tập của toàn khóa. Trong quá trình triển khai thực hiện có thể do
điều kiện khách quan hoặc chủ quan mà kế hoạch có thể bị thay đổi, lúc này
người quản lý phải hết sức nhạy bén, chủ động, sáng tạo nhằm giữ vững
được các quy định đã ghi trong kế hoạch đào tạo, đảm bảo được chất lượng,
thời lượng đào tạo.
21
- Quản lý nội dung, kế hoạch giảng dạy, học tập thực hành
Yêu cầu của công tác quản lý là tổ chức và điều khiển để thực hiện
đúng và tốt các chương trình môn học để đảm bảo khối lượng và chất lượng
kiến thức cho HS theo đúng với mục tiêu đào tạo, làm cho HS tích cực học
tập, lao động; biến kiến thức do thầy giáo truyền thụ thành kiến thức của
minh, từ đó vận dụng được vào thực tiễn.
- Quản lý hoạt động thực tập tay nghề
Trong thực hành nghề thì công tác quản lý phải tận dụng mọi điều
kiện sẵn có, bám sát tình hình sản xuất, nhu cầu của các doanh nghiệp đảm
bảo cho HS được thực tập đầy đủ 3 khâu: Thực tập nghề liên quan, thực tập
nghề chuyên môn và thực tập kết hợp với sản xuất. Để làm tốt điều này cần
phải xây dựng được đề cương thực tập, phân công thầy có kinh nghiệm, có
tay nghề cao hướng dẫn hoặc kí kết với các doanh nghiệp, nhà máy, công ty
hợp đồng kèm cặp.
1.2.3.3 Quản lý phương pháp dạy học thực hành
Trong đào tạo, quản lý phương pháp là một khâu vô cùng quan trọng.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là nhằm hình thành cho HS năng lực tự
học, tự nghiên cứu. Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Công
tác quản lý đòi hỏi người quản lý phải tìm hiểu bản chất và cách thức áp
dụng những mô hình phương pháp dạy học hiệu quả, phù hợp với điều kiện
địa phương và HS nhưng vẫn đảm bảo qui trình đào tạo. Quản lý phương
pháp dạy học thực hành phải bảo đảm định hướng cho GV và HS áp dụng
các phương pháp hiệu quả với từng nghề. Khuyến khích GV áp dụng
phương pháp tiên tiến vào giảng dạy; sáng tạo, linh hoạt trong việc áp dụng
các phương pháp phù hợp với từng nghề, từng đối tượng HS, đảm bảo:
- Phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động của HS.
22
- Tạo ra môi trường học tập năng động, giàu tính nhân văn; các quan
hệ sư phạm có tính dân chủ.
- Tuân thủ các quy trình công nghệ, thao tác mẫu để hình thành kỹ
năng nghề nghiệp cho HS.
- Phù hợp với các phương tiện kỹ thuật dạy học, trong đó có công
nghệ thông tin hiện đại.
- Tạo ra nhiều cơ hội thực hành để HS trải nghiệm và phát huy sở
trường của mình.
1.2.3.4 Quản lý hoạt động dạy thực hành nghề của giáo viên
Quản lý giảng dạy của GV có nghĩa là một mặt nâng cao nhiệt tình,
tinh thần trách nhiệm và phương pháp giảng dạy của GV, mặt khác hướng
dẫn, kiểm tra đôn đốc để GV hoàn thành đầy đủ các khâu trong quy định về
nhiệm vụ của người GV. Nội dung quản lý bao gồm:
- Tổ chức cho GV nghiên cứu quán triệt nguyên lý phương châm,
đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước; vị trí của công tác đào tạo nguồn
lao động có kỹ thuật cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
- Đôn đốc và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện kế hoạch, nội dung
giảng dạy các môn học và phương pháp giảng dạy của GV. Chỉ đạo thực
hiện tốt kế hoạch thời gian, khối lượng và kiến thức. Kiểm tra việc thực hiện
các bước lên lớp, phương pháp giảng dạy và nội dung kiến thức giảng dạy
của GV. Thường xuyên kiểm tra việc ghi chép sổ sách mẫu biểu như sổ ghi
đầu bài, sổ tay GV, sổ chủ nhiệm, các phiếu ghi điểm, các báo cáo
- Bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ GV thông qua
việc học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy thực tế giữa GV của các
trường, hội giảng GV dạy giỏi các cấp Bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ
cho GV về phương pháp giảng dạy, nghiên cứu tài liệu, gửi đi đào tạo, bồi
dưỡng
23
1.2.3.5 Quản lý hoạt động học thực hành nghề của HS
Yêu cầu của công tác quản lý là làm cho HS hăng hái, tích cực trong
lao động, học tập, phấn đấu đạt kết quả cao trong học tập đồng thời có khả
năng vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế sản xuất.
Quản lý hoạt động học thực hành nghề của HS bao gồm các nội dung sau:
- Xây dựng động cơ, thái độ đúng đắn cho HS. Điều này rất quan trọng
vì hầu hết HS học nghề là những HS có trình độ văn hóa yếu, ngại học lý
thuyết và có tâm lý cứ rèn tay nghề giỏi là được nên chất lượng học tập còn
hạn chế, số HS giỏi không nhiều. Cho nên trong công tác quản lý cần phải
quán triệt với đội ngũ GV trong quá trình giảng dạy phải có sự liên hệ chặt
chẽ giữa lý luận với thực tiễn để HS hiểu được bản chất của vấn đề cần làm.
- Quản lý việc chấp hành chế độ quy định của HS. Trong công tác
quản lý phải quán triệt cho HS những quy định, quy chế về đào tạo như quy
chế về tuyển sinh, quy chế kiểm tra, xét lên lớp, xét công nhận tốt nghiệp,
các văn bản qui phạm pháp luật của nhà nước.
- Quản lý việc tự học của HS, đôn đốc GV thực hiện nghiêm túc chế
độ kiểm tra bài thường xuyên, kiểm tra định kỳ và kiểm tra kết thúc môn
học.
- Nắm vững tình hình học tập, kết quả học tập và rèn luyện của HS
theo từng tháng và theo định kỳ.
1.3 Đặc điểm hoạt động dạy học thực hành ở các Trường Cao đẳng nghề
Hoạt động dạy học ở các Trường Cao đẳng nghề có những đặc điểm sau:
Hoạt động dạy học ở các Trường Cao đẳng nghề có những đặc điểm
chung như hoạt động dạy học ở các trường khác, tuy nhiên điểm khác biệt
đặc trưng chính là mục tiêu đào tạo của nhà trường, là đào tạo đội ngũ công
nhân với nguyên lý và phương châm rèn luyện kỹ năng nghề là chính.
24
Điều 4, Luật Dạy nghề đã nêu rõ: “Mục tiêu dạy nghề là đào tạo nhân
lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương
xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật,
tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học nghề
sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình
độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước”.
Trường Cao đẳng nghề là cơ sở đào tạo thuộc lĩnh vực giáo dục nghề
nghiệp nằm trong hệ thống giáo dục Quốc dân. Vì vậy, ngoài mục tiêu, tính
chất, nguyên lý, nội dung, phương pháp giáo dục chung được quy định trong
Luật giáo dục, Luật dạy nghề thì quá trình GD – ĐT ở Trường Cao đẳng
nghề có một số đặc điểm sau:
* Về mục tiêu đào tạo: Mục tiêu của dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ
thuật trực tiếp trong sản xuất dịch vụ có năng lực hành nghề tương xứng với
trình độ đào tạo, có đạo đức nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công
nghiệp, sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học nghề có khả năng tìm
việc làm, tự tạo việc làm cho bản thân hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn,
đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.
Dạy nghề ở trình độ cao đẳng nhằm trang bị cho người học nghề kiến
thức và năng lực thực hành công việc của một nghề, có khả năng làm việc
độc lập và có khả năng ứng dụng công nghệ, kỹ thuật vào công việc.
* Về chương trình đào tạo: Chương trình dạy nghề thể hiện mục tiêu
dạy nghề, quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi cấu trúc và nội dung,
phương pháp, hình thức dạy nghề; cách thức đánh giá kết quả đào tạo đối
với mỗi MODUL, với mỗi môn học và với mỗi nghề.
Chương trình dạy nghề ở trình độ cao đẳng được thực hiện ba năm đối
với người tốt nghiệp THPT. Việc xây dựng chương trình đào tạo áp dung
theo Thông tư số 21/2011/TT-BLĐTBXH ngày 29 tháng 07 năm 2011, ban
25