Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tài liệu thi triết học duy vật biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.34 KB, 3 trang )

1. HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC DUY
VẬT BIỆN CHỨNG.
Bằng lý luận triết học duy vật biện
chứng và thực tiễn cách mạng
Việt Nam, đồng chí hãy phân tích
luận điểm sau đây của Đảng ta:
“Tiến hành đổi mới xuất phát từ
thực tiễn và cuộc sống xã hội Việt
Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt
của thế giới, không sao chép bất
cứ một mô hình có sẵn nào…”.
(VK ĐH ĐCS VN lần thứ IX, Nxb
CTQG, HN-2001, tr 81).
Bài làm
Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận
và hoạt động thực tiễn luôn là một
đòi hỏi cấp bách và là một phương
thức để mang đến thành công cho
hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ
chức và của một chính đảng.
Nhận thức đúng và giải quyết hợp
lý mối quan hệ biện chứng tác
động qua lại của lý luận và thực
tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam
cho hoạt động thực tiễn, tổng kết
thực tiễn để phát triển lý luận, thực
tiễn phải là cơ sở, động lực của
nhận thức và tiêu chuẩn của chân
lý là chìa khóa để giải quyết
mọi vướng mắc trên con đường đi
đến mục tiêu đã định. Ngược lại,


nhận thức không đúng và giải
quyết không tốt mối quan hệ giữa
lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ
nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh
nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí,
tất nhiên sẽ dẫn đến những thất
bại mà đối với một chính đảng, sự
thất bại đó có thể dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng.
Thực tiễn - theo quan điểm triết
học duy vật biện chứng - là toàn
bộ hoạt động vật chất có mục đích
mang tính lịch sử xã hội của con
người làm biến đổi, cải tạo tự
nhiên và xã hội. Bản chất của hoạt
động thực tiễn đó là sự tác động
qua lại của chủ thể và khách thể,
là con người sử dụng những công
cụ vật chất tác động vào đối tượng
vật chất làm biến đổi chúng theo
mục đích của mình. Thực tiễn
cũng có quá trình vận động, phát
triển, trình độ phát triển của thực
tiễn nói lên quá trình chinh phục tự
nhiên, làm chủ xã hội của con
người. Thực tiễn mang tính lịch sử
xã hội bởi nó phát triển qua các
giai đoạn lịch sử. Hoạt động thực
tiễn có thể chia làm 3 hình thức cơ
bản : hoạt động SX vật chất, hoạt

động biến đổi chính trị xã hội và
hoạt động thực nghiệm khoa học.
Trong đó, hoạt động SX vật chất là
hoạt động có ý nghĩa quyết định
các hình thức khác, hoạt động
biến đổi chính trị xã hội là hình
thức cao nhất và hoạt động thực
nghiệm khoa học là hình thức đặc
biệt nhằm thu nhận những tri thức
về hiện thực khách quan.
Lý luận xuất phát từ hoạt động
nhận thức của con người, nó là
sản phẩm của sự phát triển cao
của nhận thức đồng thời thể hiện
trình độ cao của nhận thức. Xét về
mặt bản chất, lý luận là một hệ
thống tri thức chặt chẻ mang tính
trừu tượng, khái quát , đúc kết từ
thực tiễn thông qua các khái niệm,
phạm trù, nguyên lý, quy luật
phản ánh bản chất và xu hướng
vận động phát triển của sự vật,
hiện tượng trong thết giới khách.
Quan. Vì vậy, bản chất của lý luận
là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Theo Hồ Chí Minh
“Lý luận là sự tổng kết kinh
nghiệm của loài người, sự tổng
hợp những tri thức về tự nhiên, xã
hội đã được tích lũy lại trong quá

trình lịch sử của con người.” .
Giữa lý luận và thực tiễn có
mối quan hệ chặt chẽ, biện
chứng, có sự tác động qua lại lẫn
nhau, thâm nhập và chuyển hóa
lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó,
thực tiễn có vai trò quyết định, vì
thực tiễn là hoạt động vật chất,
còn lý luận là sản phẩm của hoạt
động tinh thần.
Vai trò quyết định của thực tiễn
đối với lý luận thể hiện ở chổ :
chính thực tiễn là cơ sở để tổng
kết, khái quát thành lý luận, là
động lực, là mục đích, là tiêu
chuẩn để kiểm tra nhận thức và lý
luận, nó cung cấp chất liệu phong
phú sinh động để hình thành lý
luận. Mặt khác, tri thức lý luận
hình thành tổng kết khái quát kinh
nghiệm nhưng lại phải thông qua
tư duy trừu tượng của cá nhân
nhà lý luận cho nên nó cũng chứa
đựng khả năng không chính xác
xa rời thực tiễn. Vì vậy tri thức lý
luận phải được thể nghiệm trong
thực tiễn để khẳng định, bổ sung
sửa đổi hoàn thiện, và thông qua
hoạt động thực tiễn, lý luận mới
được vật chất hóa, hiện thực hóa,

mới có sức mạnh cải tạo hiện
thực. Thiếu thực tiễn thì sẽ không
có lý luận hoặc sẽ không có lý
luận hoặc lý luận sẽ khô cằn, cứng
nhắc, không được bổ sung, phát
triển, không được kiểm nghiệm
tính đúng sai, đó sẽ là lời nói
suông không có ý nghĩa. V.I Lênin
đã viết “Thực tiễn cao hơn nhận
thức, lý luận. Vì nó có ưu điểm
không những của tính phổ biến
mà còn của tính hiện thức trực
tiếp” .
Lý luận mặc dù được hình
thành từ thực tiễn nhưng nó có vai
trò tác động trở lại đối với thực
tiễn. Sự tác động của lý luận thể
hiện qua vai trò hướng dẫn, chỉ
đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch
ra mục tiêu, khuynh hướng cho
hoạt động thực tiễn, dự báo dự
đoán tình hình và phương hướng
hoạt động thực tiễn trong tương
lai, giúp hoạt động thực tiễn đi đến
thành công. Những tri thức về bản
chất và quy luật của khách thể do
lý luận đem lại có ý nghĩa to lớn
trong hoạt động thực tiễn vì hoạt
động thực tiễn chỉ có hiệu quả khi
nó tuân theo các quy luật khách

quan. Cho nên lý luận là kim chỉ
nam cho hoạt động thực tiễn. Lý
luận còn có vai trò điều chỉnh hoạt
động thực tiễn, làm cho hoạt động
thực tiễn có hiệu quả hơn. Lênin
viết “không có lý luận cách mạng
thì không thể có phong trào cách
mạng”. Tuy nhiên, nếu lý luận
phản khoa học hoặc lạc hậu,
không bắt kịp với cuộc sống thì nó
sẽ kìm hãm sự phát triển của thực
tiễn.
Như vậy, giữa lý luận và thực
tiễn có sự liên hệ, tác động qua
lại, tạo điều kiện cho nhau cùng
phát triển và gắn bó hữu cơ với
nhau. Do đó, sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn phải kết hợp
chặt chẽ công tác lý luận với công
tác thực tiễn là nguyên lý cao nhất
của triết học Mác - Lênin. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng đã từng chỉ rõ
“Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”,
“Lý luận mà không có thực tiễn là
lý luận suông”
Từ mối quan hệ biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn, ta rút ra
được quan điểm thực tiễn. Quan
điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét

sự vật hiện tượng phải gắn với
thực tiễn, phải theo sát sự phát
triển của thực tiễn để điều chỉnh
nhận thức cho sự phù hợp với sự
phát triển của thực tiễn, hiệu quả
của thực tiễn để kiểm tra những
kết luận của nhận thức, kiểm tra
những luận điểm của lý luận.
Quan điểm thực tiễn cũng đòi hỏi
những khái niệm của chúng ta về
sự vật phải được hình thành, bổ
sung và phát triển bằng con
đường thực tiễn, trên cơ sở thực
tiễn chứ không phải bằng con
đường suy diễn thuần túy, không
phải bằng con đường tự biện.
Lý luận phải được phát huy vai trò
trong mọi hoạt động thực tiễn. Do
thực tiễn luôn vận động và phát
triển nên phải thường xuyên, tổng
kết quá trình vận dụng lý luận vào
thực tiễn, xem nó thừa thiếu nhằm
bổ sung phát triển nó cho phù
hợp.
Nắm vững quan điểm thực tiễn
và lý luận có ý nghĩa quan trọng
trong việc góp phần xây dựng một
đường lối chính sách đúng đắn,
tránh được bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều trong tư duy và

trong hoạt động thực tiễn
Chủ nghĩa kinh nghiệm theo Hồ
Chí Minh là khuynh hướng tuyệt
đối hóa kinh nghiệm coi thường lý
luận ”chỉ biết tối ngày vùi đầu vào
công tác sự vụ” ít đào sâu suy
nghĩ, nhất là những người trình độ
văn hóa kém, ít quen đọc sách và
suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm
một cách thiếu sáng tạo. Chúng ta
coi trọng những kinh nghiệm thực
tiễn và không ngừng tích lũy vốn
kinh nghiệm quý báu đó. Tuy
nhiên nếu chỉ dừng lại ở trình độ
kinh nghiệm, chỉ dựa vào những
hiểu biết ở trình độ kinh nghiệm,
thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của
bản thân coi kinh nghiệm là tất cả,
tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng
thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập,
nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý
luận vươn lên để nắm lý luận,
không quan tâm tổng kết kinh
nghiệm để đề xuất lý luận … thì
rất dễ mắc bệnh kinh nghiệm chủ
nghĩa. Phê phán những cán bộ,
đảng viên làm theo kinh nghiệm,
Hồ Chí Minh nhận xét họ không
hiểu được rằng kinh nghiệm của
họ tuy tốt nhưng cũng chỉ là từng

bộ phận, từng mặt mà thôi và
người chỉ ra rằng ''Có kinh nghiệm
mà không có lý luận cũng như một
mắt sáng, một mắt mờ''.
Mặt khác, thái độ thực sự coi
trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn
ngừa bệnh giáo điều chủ nghĩa.
Bệnh giáo điều chủ nghĩa là tuyệt
đối hóa lý luận, coi thường kinh
nghiệm thực tiễn, xem lý luận là
bất di bất dịch, việc nắm lý luận
chỉ dừng lại ở những nguyên lý
chung trừu tượng, không chú ý
đến những hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh
giáo điều có 2 dạng : giáo điều lý
luận và giáo điều kinh nghiệm.
Bệnh giáo điều lý luận là việc
thuộc lòng lý luận, cho rằng áp
dụng lý luận áp dụng vào đâu
cũng được, không xem xét điều
kiện cụ thể của mình. Bệnh giáo
điều kinh nghiệm là việc áp dụng
nguyên si rập khuôn mô hình của
nước khác, của địa phương khác
vào địa phương mình mà không
sáng tạo, chọn lựa …
Ở Việt Nam chúng ta, một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng trì trệ, khủng hoảng của

CNXH thời kỳ trước đổi mới (giai
đoạn 1975-1985) chính là do xuất
phát từ sự lạc hậu, yếu kém về lý
luận cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự yếu kém về lý luận làm cho
chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa
Mác Lênin một cách giản đơn,
phiến diện, cắt xén sơ lược, không
đến nơi đến chốn, CNXH được
hiểu một cách giản đơn, ấu trĩ, bắt
chước rập khuôn mô hình CNXH
ở Liên Xô, từ việc thành lập các
bộ ngành của bộ máy nhà nước
(ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ,
Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ
ngành) đến việc đề ra chủ trương,
đường lối, chính sách phát triển
đất nước : Chủ trương tập trung
cho công nghiệp hóa đất nước mà
chủ lực là phát triển công nghiệp
nặng mà không chú ý đến điều
kiện vật chất và lực lượng sản
xuất của ta còn chưa tương xứng,
với xuất phát điểm còn rất thấp từ
một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất
nông nghiệp là chính, trình độ lực
lượng sản xuất không cao, sản
xuất thủ công là chủ yếu. Có thể
nói việc bố trí cơ cấu kinh tế trước
hết là sản xuất và đầu tư, chúng ta

thường chỉ xuất phát từ lòng mong
muốn đi nhanh, không tính đến
điều kiện khả năng thực tế.
Sự nhận thức giản đơn, yếu kém
trong việc vận dụng xơ cứng lý
luận vào trong còn thể hiện ở việc
hiểu và vận dụng chưa đúng các
quy luật khách quan đang tác
động trong thời kỳ quá độ ở nước
ta (quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất,
các quy luật sản xuất hàng hoá,
quy luật thị trường ), quá nhấn
mạnh một chiều vai trò của quan
hệ sản xuất, của chế độ công hữu,
chế độ phân phối bình quân,
không thấy đầy đủ yêu cầu phát
triển lực lượng sản xuất trong thời
kỳ quá độ.
Mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế
kế hoạch hóa tập trung bao cấp,
quá tập trung quyền lực nhà nước,
dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ
huy toàn bộ nền kinh tế đất nước,
bao cấp trong phân phối làm
cản trở sự sáng tạo, tạo nên sự
bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội.
Cũng trong thời kỳ này chúng ta
đồng nhất kinh tế thị trường với

chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ những
giá trị, những thành tựu mà nhân
loại đạt được trong chủ nghĩa tư
bản; muốn nhanh chóng xoá bỏ
sản xuất hàng hoá, xoá bỏ sở hữu
tư nhân và kinh tế tư nhân trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Hậu quả của những sai lầm xuất
phát sự nhận thức yếu kém về lý
luận và xa rời thực tiễn đã làm cho
đường lối chính sách của Đảng ta
đề ra không phù hợp với thực tiễn
nên đất nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế xã hội :
Nnhiều vấn đề mấu chốt và thiết
yếu nhất của cuộc sống nhân dân
(ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải
quyết đầy đủ; đất nước chưa có
những thay đổi sâu sắc và triệt để
trong phương thức phát triển; tình
trạng mất cân đối trong nền kinh tế
ngày càng trầm trọng; nhiệt tình
lao động và năng lực sáng tạo của
nhân dân, tài nguyên và các
nguồn lực chưa được khai thác,
phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói
mòn. Nhìn tổng quát, với cơ chế
kế hoạch hoá tập trung, nền kinh
tế Việt Nam vận động thiếu năng

động và kém hiệu quả. Những mất
cân đối và nguy cơ bất ổn định
tiềm tàng trong đời sống kinh tế -
xã hội bị tích nén lại Tình trạng
thiếu hụt kinh niên làm gia tăng
các căng thẳng trong đời sống xã
hội. Lòng tin của quần chúng đối
với sự lãnh đạo của Đảng và sự
điều hành của Nhà nước giảm sút.
Trên thực tế, đến cuối những năm
70, đất nước đã thực sự lâm vào
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng
cộng sản và Nhà nước Việt Nam
lúc này là tìm kiếm cách thức phát
triển mới có khả năng đáp ứng
các mục tiêu của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó
quan trọng nhất là phải tháo gỡ
các ràng buộc về cơ chế và thể
chế để giải phóng các nguồn lực
phát triển của đất nước.
Nhận thức được những sai lầm
trên, từ ĐH Đảng lần VI (1986)
Đảng đã khởi xướng công cuộc
đổi mới toàn diện tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó
có mọi phương hướng đổi mới
phải xuất phát từ thực tiễn như
Văn kiện Đại hội VI của Đảng đã

xác định “Đảng phải luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách
quan”. Đại Hội Đảng lần IX cũng
đã nhấn mạnh “Tiến hành đổi
mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc
sống xã hội Việt Nam, tham khảo
kinh nghiệm tốt của thế giới,
không sao chép bất cứ một mô
hình có sẵn nào…” (Văn kiện Đại
hội Đảng công sản Việt Nam lần
thứ IX, NXB CTQG, HN-2001, tr
81).
Những nhận định trên của Đảng
chính là sự tiếp thu và vận dụng
đúng đắn quan điểm của Hồ Chí
Minh về cách mạng XHCN phải
lấy thực tế làm điểm xuất phát để
xác định phương hướng, mục tiêu
nhiệm vụ của cách mạng, kết hợp
chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn
để xác định chủ trương, chính
sách. Theo quan điểm của người,
việc học tập và vận dụng kinh
nghiệm tốt, những mô hình hiệu
quả trong công cuộc xây dựng đất
nước của các nước XHCN trên
thế giới giúp chúng ta đỡ mò
mẫm, đỡ phạm những sai lầm của
người đi trước. Nói cách khác,

những tìm kiếm, phát triển lý luận
về CNXH, con đường và các giải
pháp xây dựng CNXH ở mỗi nước
có thể là kinh nghiệm tham khảo
chứ không thể áp dụng máy móc,
rập khuôn. Hồ Chí Minh cũng
nhấn mạnh rằng “phải có sự kết
hợp biện chứng giữa việc chú
trọng đặc điểm riêng của dân tộc
với giá trị phổ biến trong kinh
nghiệm các nước”. Người chỉ rõ
“đặc điểm to nhất của ta trong thời
kỳ quá độ là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
CNXH, không phải kinh qua giai
đoạn phát triển TBCN”, vì vậy
Người nhắc nhở rằng “đứng về
mặt xây dựng CNXH, tuy chúng ta
đã có những kinh nghiệm dồi dào
của các nước anh em, nhưng
chúng ta cũng không thể áp dụng
những kinh nghiệm ấy một cách
máy móc, bởi vì nước ta có những
đặc điểm riêng của ta”. Xuất phát
từ thực tế nước ta và quy luật về
quan hệ sản xuất - lực lượng sản
xuất, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong
giai đoạn quá độ đi lên CNXH, sự
tồn tại của nhiều thành phần kinh
tế với nhiều hình thức sở hữu

khác nhau là tất yếu, do đó cần
phải duy trì nhiều hình thức quản
lý, phân phối khác nhau. Theo
người, chúng ta bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa bởi đó là chế độ áp
bức, bóc lột, nô dịch con người.
Song, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa không có nghĩa là vứt bỏ
mọi thành tựu văn hoá, văn minh
mà nhân loại đã đạt được trong
chủ nghĩa tư bản; những thành
tựu đó cần được tiếp thu, khai
thác vì sự thành công của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ đặc điểm đó, trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (năm 1991), Đảng đã nêu :
chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý
chí tự lực tự cường, phát huy mọi
tiềm năng vật chất và trí tuệ của
dân tộc đồng thời mở rộng quan
hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước
đi, hình thức và biện pháp thích
hợp xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
làm một xã hội: do nhân dân lao
động làm chủ, có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng

sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu, có nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc
lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân, các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ, có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với nhân dân
tất cả các nước trên thế giới. Sáu
đặc trưng nêu trên thể hiện bản
chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây
dựng
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo
những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tổng kết kinh nghiệm
thành công và cả kinh nghiệm
chưa thành công trong thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta và các nước khác, đặc biệt là
những kinh nghiệm của những
năm đổi mới, Đảng ta đã nêu ra
những phương hướng cơ bản xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
gồm:

Một là, "xây dựng Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, giữ
nguyên kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích Tổ quốc và của nhân
dân".
Hai là, "phát triển lực lượng sản
xuất, công nghiệp hóa đất nước
theo hướng hiện đại gắn liền với
phát triển một nền nông nghiệp
toàn diện là nhiệm vụ trung tâm
nhằm từng bước xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, không ngừng nâng cao
năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân".
Ba là, "phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, thiết lập
từng bước quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với
sự đa dạng về hình thức sở hữu.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, vận hành theo

cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều
hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế là chủ yếu".
Bốn là, "tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư
tưởng và văn hóa làm cho thế giới
quan Mác - Lênin và tư tưởng,
đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã
hội. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của
tất cả các dân tộc trong nước, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng một xã hội dân chủ,
văn minh, vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người, với trình độ
tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm
mỹ ngày càng cao. Chống tư
tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái
với những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và những giá trị cao
quý của loài người, trái với
phương hướng đi lên chủ nghĩa
xã hội".
Năm là, "thực hiện chính sách

đại đoàn kết dân tộc, củng cố và
mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn
đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh. Thực hiện chính sách đối
ngoại hoà bình, hợp tác và hữu
nghị với tất cả các nước; trung
thành với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân, đoàn kết với
các nước xã hội chủ nghĩa, với tất
cả các lực lượng đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới".
Sáu là, "xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc là hai
nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nước, nhân dân ta luôn luôn nâng
cao cảnh giác, củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ
quốc và các thành quả cách
mạng".
Bảy là, "xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức ngang tầm
nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm
tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở nước ta"
Sau gần 20 năm thực hiện công
cuộc đổi mới đó, có thể nói rằng
mỗi Đại hội Đảng là một dịp để
Đảng và Nhà nước ta tổng kết
thực tiễn, nâng tầm lý luận, làm
căn cứ cho việc hoạch định đường
lối, chính sách phù hợp cho từng
giai đoạn. Những thành tựu tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
đã cung cấp nhiều luận cứ khoa
học cho việc hoạch định đường
lối, chính sách của Đảng; góp
phần vào những thành công rất to
lớn của Đảng và nhân dân ta trong
công cuộc đổi mới, tạo thế và lực
mới cho đất nước. Tổng Bí thư
Nông Đức Mạnh khi phát biểu bế
mạc Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp
hành Trung ương khóa IX đã
nhấn mạnh : “Nhìn lại 20 năm đổi
mới, chúng ta nhất trí rằng, thành
tựu đạt được là to lớn, toàn diện
và có ý nghĩa lịch sử, trên cả hai
mặt thực tiễn và lý luận. So với 20
năm về trước, đất nước ta đã có
sự thay đổi cơ bản và toàn diện :
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội, kinh tế tăng trưởng tương
đối nhanh, bước đầu hình thành

nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đang đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đời
sống nhân dân được cải thiện
đáng kể; hệ thống chính trị và khối
đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng
lãnh đạo được củng cố và tăng
cường; sức mạnh tổng hợp của
đất nước tăng lên nhiều; vị thế
nước ta trên trường quốc tế không
ngừng được nâng cao. Những
thành tựu to lớn đó chứng tỏ
đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn và sáng tạo; con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của nước
ta là phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Đường lối đó được nhân
dân ta tích cực ủng hộ và quyết
tâm thực hiện. Thành tựu đó được
thế giới hoan nghênh và thừa
nhận. Điều quan trọng là, sau 20
năm lãnh đạo và chỉ đạo công
cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước
ta ngày càng tích luỹ thêm được
nhiều kinh nghiệm; nhận thức về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng sáng tỏ hơn.”
Hiện nay, công cuộc đổi mới ở
nước ta càng đi vào chiều sâu,

những biến đổi trên thế giới
nhanh chóng, phức tạp, khó lường
thì những vấn đề mới đặt ra ngày
càng nhiều, trong đó có những
vấn đề liên quan đến nhận thức về
CNXH và con đường xây dựng
CNXH. Không ít vấn đề về nhận
thức lý luận còn chưa đủ rõ; không
ít vấn đề về thực tiễn, nhất là
những vấn đề bức xúc nảy sinh từ
cuộc sống, chưa được giải quyết
kịp thời và tốt nhất. Do vậy, “chỉ có
tăng cường tổng kết thực tiễn phát
triển lý luận thì công cuộc đổi mới
mới trở thành hoạt động chủ động
và sáng tạo, bớt được những sai
lầm và những bước đi quanh co
phức tạp”_Văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ VII.
Trên cơ sở đó Văn kiện Đại hội IX
tiếp tục chỉ rõ : “Đẩy mạnh tổng
kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận, thảo luận dân chủ, sớm làm
rõ và kết luận những vấn đề mới,
bức xúc nảy sinh từ thực tiễn;
từng bước cụ thể hóa, bổ sung
phát triển đường lối, chính sách
của Đảng, đấu tranh với khuynh
hướng, tư tưởng sai trái” ”(Văn
kiện Đại hội IX, trang 141). Chỉ có

như vậy con đường đến CNXH
của chúng ta mới giảm bớt gập
ghềnh, quanh co.
Tóm laị, từ những phân tích
trên cho thấy rõ phải coi trọng lý
luận nhưng không được cường
điệu vai trò của lý luận coi thường
thực tiễn trong nhận thức khoa
học và hoạt động cách mạng. Cội
nguồn của những đột phá tạo ra
những bước tiến vượt bật của xã
hội loài người có sự đóng góp của
lý luận đích thực. Tuy nhiên, lý
luận phải gắn với thực tiễn, phải
được kiểm tra, đúc kết, khái quát
từ thực tiễn thông qua việc tổng
kết thực tiễn. Trong công cuộc
XDCN xã hội ở nước ta khi đất
nước nảy sinh những vấn đề cần
được giải đáp về mặt lý luận,
Đảng ta đã đứng trên quan điểm,
phương pháp luận của CN Mác _
Lênin và TT HCM để xem xét.
Nhưng, hàng lọat các vấn đề từ
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
không thể giải quyết chỉ bằng lý
luận mà đòi hỏi Đảng ta phải thực
hiện thông qua thực tiển, tổng kết
thực tiển, chỉ có như vậy công
cuộc XD CNXH của ta mới giảm

bớt công gai, gập ghềnh.

×