Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tài liệu thi triết học lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.47 KB, 2 trang )

HỌC PHẦN II. TRIẾT HỌC DUY VẬT
LỊCH SỬ.
Đề : Bằng lý luận hình thái kinh tế xã hội
và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng
chí hãy phân tích luận điểm sau đây của
Đảng ta: “Xây dựng CNXH bỏ qua chế
độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là
sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho
nên phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có
tính chất quá độ”. (Văn kiện Đại hội
Đảng cộng sản Việt nam lần thứ IX,
NXB CTQG, HN-2001, tr 85).
Bài làm

Học thuyết macxit về hình thái kinh tế
xã hội là nội dung cơ bản của CNDVLS
của triết học Mác – Lênin; nó chẳng
những chỉ rõ kết cấu của các xã hội cụ
thể, mà còn vạch rõ những quy luật nội
tại, cơ bản chi phối sự vận động phát
triển của đời sống xã hội nói chung,
cũng như xã hội trong những giai đoạn
lịch sử cụ thể. Như vậy học thuyết
Macxit về HTKT-XH là cơ sở phương
pháp luận của các khoa học xã hội là
hòn đá tảng cho mọi nguyên cứu về xã
hội, và do đó là 1 trong những nền tảng
lý luận của CNXH khoa học


Theo quan điểm Mác xít, “hình thái
kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội
ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó phù hợp với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất và với một
kiểu trúc thượng tầng tương ứng được
xây dựng trên những quan hệ sản xuất
ấy”. Hình thái kinh tế - xã hội là sự khái
quát dùng để phân biệt giữa giai đoạn
lịch sử này với giai đoạn lịch sử khác.
Cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội
bao gồm 3 yếu tố cơ bản là: lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Giữa các yếu tố cơ bản đó
có quan hệ biện chứng với nhau tạo
thành các quy luật cơ bản chi phối sự
vận động, phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội và trở thành tiêu chuẩn
khách quan khoa học cho việc phân loại
xã hội.
Xã hội nào cũng tồn tại và phát triển
trên cơ sở sản xuất vật chất. Chủ nghĩa
duy vật lịch sử chỉ ra rằng sản xuất vật
chất là nền tảng của đời sống xã hội bởi
qua lao động sản xuất vật chất con
người mới tự tách mình ra khỏi thế giới
loài vật để trở thành người và hình thành
nên xã hội loài người. Sản xuất vật chất

cũng tạo tiền đề vật chất để duy trì sự
sống và tồn tại của con người xã hội,
suy cho cùng nó quyết định tất cả các
lĩnh vực hoạt động khác của con người
và xã hội
Trong quá trình sản xuất vật chất của
xã hội, con người hình thành mốt quan
hệ song trùng : quan hệ giữa người với
tự nhiên goi là lực lượng sản xuất và
quan hệ giữa người với người đó là
quan hệ sản xuất. Đây là hai mặt của
quá trình sản xuất vật chất thống nhất
với nhau trong một chỉnh thể gọi là
phương thức sản xuất, trong đó lực
lượng sản xuất là nội dung và quan hệ
sản xuất là hình thức của quá trình sản
xuất vật chất. Phương thức sản xuất là
cách thức con người thực hiện trong
quá trình sản xuất vật chất ở một giai
đoạn lịch sử xã hội nhất định. Chủ nghĩa
duy vật lịch sử khẳng định rằng : mỗi
hình thái kinh tế - xã hội có một phương
thức sản xuất tương ứng, giữ vai trò chủ
đạo, quy định bản chất, sự tồn tại và vận
động phát triển của bản thân hình thái
kinh tế - xã hội đó.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp
thống nhất giữa người lao động với tư
liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao
động) để tạo thành sức sản xuất xã hội.

Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát
triển mạnh mẽ và được vận dụng nhanh
chóng, rộng rãi, trực tiếp vào trong quá trình
sản xuất thì cùng với công nghệ hiện đại,
khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, độc lập và hiệu quả của quá trình
sản xuất mới hình thành nên nền kinh tế tri
thức của nhân loại. Văn kiện Đại hội Đảng
lần 9 cũng đã chỉ rõ nước ta đang từng
bước xây dựng và phát triển nền kinh tế tri
thức : ”Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là
nghệ công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng
nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ
biến hơn những thành tựu mới về khoa
học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế trí thức” (Trang 91 – VK ĐH Đảng
lần IX).
Còn quan hệ sản xuất nó là một chỉnh
thể thống nhất của 3 quan hệ : quan hệ sở
hữu đối với các tư liệu sản xuất của xã hội,
quan hệ quản lý (quan hệ giữa người với
người) trong việc tổ chức sản xuất, trao đổi
hoạt động cho nhau và quan hệ phân phối
những sản phẩm mà xã hội làm ra.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là hai mặt của quá trình sản xuất,
giữa chúng có mối quan hệ biện chứng,

thường xuyên, lặp lại trong suốt quá
trình sản xuất vật chất hình thành nên
quy luật kinh tế - xã hội tất yếu, phổ biến,
quyết định sự vận động và phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quy
luật “quan hệ sản xuất phải phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất”. Quy luật này chỉ ra rằng: lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất và quan hệ sản xuất sau khi hình
thành và tồn tại nó có tác động trở lại đối
với lực lượng sản xuất.
Trong một phương thức sản xuất, lực
lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ
sản xuất là hình thức. Nội dung quyết
định hình thức. Lực lượng sản xuất
quyết định quan hệ sản xuất thể hiện
qua việc trình độ lực lượng sản xuất
đang tồn tại đặt ra yêu cầu quan hệ sản
xuất phải phù hợp với nó mà không đòi
hỏi cao hơn hoặc thấp hơn nó. Ăngghen
khẳng định :”xét đến cùng thì mọi sự
thay đổi từ chế độ chiếm hữu này sanh
chế độ chiếm hữu khác, từ chế độ xã hộ
này sang chế độ xã hội khác đều là kết
quả tất yếu của việc tạo nên những lực
lượng sản xuất mới”.
Song, quan hệ sản xuất vừa phụ
thuộc, vừa có vai trò độc lập tương đối
và tác động trở lại lực lượng sản xuất.

Sự tác động của quan hệ sản xuất đối
với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai
hướng : phù hợp hoặc không phù hợp.
Quan hệ sản xuất tác động phù hợp
với lực lượng sản xuất, nghĩa là quan hệ
sản xuất sau khi hình thành và tồn tại, nó
đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của lực
lượng sản xuất và sau đó nó có vai trò
tạo ra sự liên kết, kết hợp có hiệu quả
hơn giữa các yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất, làm cho tất cả các yếu
tố ấy phát huy tất cả tiềm năng, sức
mạnh vốn có của nó, nhờ vậy mà tạo ra
năng suất lao động cao hơn.
Khi quan hệ sản xuất hình thành và tồn
tại không phù hợp với đòi hỏi tất yếu của
lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm, phá
hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất
dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội
nghiêm trọng. Biểu hiện của sự không phù
hợp thể hiện ở 2 khía cạnh : một là khi quan
hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu so với trình
độ mới của lực lượng sản xuất, hai là
trường hợp chủ thể dùng ý chí chủ quan
của mình áp đặt một “mô hình” quan hệ sản
xuất “cao hơn” trình độ lực lượng sản xuất.
Thực tế cách mạng ở nước ta cho
thấy rằng trong giai đoạn đầu xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước
(1975-1985), do hiểu một cách giáo

điều, sách vở về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và vận dụng chưa đúng
các quy luật khách quan đang tác động
trong thời kỳ quá độ ở nước ta trong đó
có quy luật về quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất .
Giai đoạn này, chúng ta “chưa nắm
vững và vận dụng đúng quy luật về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản
xuất” . Xuất phát từ nhận thức khá phổ
biến rằng “xây dựng quan hệ sản xuất
mới để mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển” nên mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và nhà
nước đều tập trung xây dựng một quan
hệ sản xuất cao mà không chú ý đến sự
phát triển trình độ lực lượng sản xuất
tương ứng. Chúng ta xây dựng CNXH
xuất phát từ một nền kinh tế nông
nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, phổ biến là
sản xuất nhỏ, “con trâu đi trước cái cày”.
Vì vậy lực lượng sản xuất của ta trình độ
thấp, sản xuất thủ công là chủ yếu, đầu
óc tư hữu, phong cách làm việc lề mề,
kém kỷ luật là đặc điểm chung của đại
bộ phận nhân dân lao động, đặc biệt là
nông dân. Mặc khác, chiến tranh kéo dài
không chỉ tàn phá khốc liệt cơ sở hạ
tầng kỹ thuật của đất nước, ảnh hưởng

đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội
mà còn làm cho đội ngũ cán bộ - đảng
viên không có điều kiện học tập trình độ
khoa học công nghệ, nền tri thức mới
dẫn đến năng lực quản lý không đáp
ứng đầy đủ những yêu cầu của công
cuộc xây dựng đất nước. Về tư liệu sản
xuất, chúng ta đầu tư không đúng
hướng, dàn đều, tràn lan và không tính
hiệu quả. Lẽ ra phải tập trung đầu tư cho
khôi phục nông nghiệp để đảm bảo nhu
cầu thiết thực về lương thực thực phẩm
cho người dân nhằm ổn định kinh tế thì
chúng ta lại đầu tư tập trung vào công
nghiệp nặng. Những thành tựu khoa
học kỹ thuật, những quy luật của sản
xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan
không được vận dụng để đưa vào trong
các chế định, chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế của ta.
Trong quan hệ phân phối lợi ích, nhất
là lợi ích người lao động, duy trì quá lâu
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã
làm hạn chế, thậm chí triệt tiêu động lực
phát triển sản xuất và tǎng nǎng suất lao
động; nhấn mạnh quá mức tính tập thể,
tính cộng đồng trong quan hệ sản xuất
mới mà không coi trọng đúng mức nhân
tố cá nhân, làm triệt tiêu tính tích cực của
cá nhân trong chủ nghĩa xã hội, có

những chủ trương sai trong việc cải
cách giá cả, tiền tệ, tiền lương.
Trong việc tổ chức quản lý, chúng ta duy
trì một chính sách kinh tế đóng cửa, một cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp, trong hình
thức tổ chức sản xuất, có xu hướng tổ chức
quá nhanh mô hình sản xuất, tập đoàn, hợp
tác xã … với quy mô lớn mà không tính đến
khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý
và năng lực của cán bộ. .
Đến Đại hội lần thứ VI của Đảng, với
tư duy mới, chúng ta nhận ra rằng, quan
hệ sản xuất là vật cản của lực lượng sản
xuất không chỉ trong trường hợp quan
hệ sản xuất đi sau mà còn cả trong
trường hợp vượt lên trước, tách rời lực
lượng sản xuất. Chính vì vậy, từ đó đến
nay chúng ta luôn luôn cố gắng thiết lập
sự đồng bộ giữa các yếu tố trong quan
hệ sản xuất, trong lực lượng sản xuất và
giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất
Thay đổi đầu tiên là sự nhận thức lại
về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, Kinh nghiệm đã
qua cho thấy không thể bằng mọi giá
xây dựng quan hệ sản xuất mới bất
chấp tình trạng thấp kém của lực lượng
sản xuất. Vì vậy, quan điểm chỉ đạo của
Đảng là ưu tiên hàng đầu cho phát triển

lực lượng sản xuất xã hội, văn kiện Đại
hội Đảng lần IX đã khẳng định “Đẩy
mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa,
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản
xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp theo định hướng xã hội
chủ nghĩa” (VK 9-Tr 87) và “Phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với
xây dựng quan hệ sản xuất trên cả 3
mặt : sở hữu, quản lý và phân phối”. Cái
thiếu lớn nhất của đất nước ta kề từ khi
bước vào thời kỳ quá độ là thiếu một lực
lượng SX phát triển, hiện đại, đủ đảm
bảo cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh
và bền vững. Việc phát triển lực lượng
SX chỉ có thế thực hiện được khi chúng
ta tăng cường tính khoa học và hiện đại
vào trong lực lượng sản xuất hiện tại, vì
vậy Đảng đã chủ trương đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa và xem đây là
trọng tâm của suốt thời kỳ quá độ. Với
con đường CNH-HĐH đất nước và
chính sách mở cửa về đối ngoại, chúng
ta có thể tận dụng mọi khả năng để tiếp
cận, học tập những thành tựu trên thế
giới, đi trước đón đầu nhằm đạt được
trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông

tin và công nghệ sinh học, từng bước
phát triển nền kinh tế tri thức. Bên cạnh,
việc phát huy nguồn lực trí tuê và sức
mạnh của lực lượng SX được thực hiện
song song với việc coi trọng phát triển
giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ
xem đây là nền tảng và là động lực cho sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước
Về quan hệ sản xuất, văn kiện Đại
hội Đảng lần VII đã nêu “để phù hợp với
sự phát triển của lực lượng sản xuất,
chúng ta phải thiết lập từng bước quan
hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với
sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng XHCN, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước”.
Đại hội VIII của Đảng đã đề ra chủ
trương : “Nếu CNH - HĐH tạo nên
LLSX cần thiết cho chế độ XH mới thì
việc phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần chính là để xây dựng hệ thống
QHSX phù hợp”. Các văn kiện Đại hội
Đảng cũng đã khẳng định các thành
phần kinh tế là những bộ phận cấu
thành phần kinh tế thống nhất, được
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh với nhau. Thực tiễn chứng
minh chính sách phát triển kinh tế nhiều

thành phần là sự phản ánh đúng đặc
điểm xuất phát của nước ta từ một nền
kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ
chưa qua giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa tư bản, nhằm giải phóng mọi tiềm
nǎng kinh tế, khơi dậy năng lực sáng
tạo, chủ động của các chủ thể lao động
trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy SX
phát triển huy động mọi nguồn lực đặc
biệt là nguồn vốn cất giữ trong nhân
dân, lao động nông nhàn cho sản xuất.
Về quan hệ phân phối, Đại hội IX
cũng đã nhấn mạnh “thực hiện phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối
theo mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác vào sản xuất kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng
kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước
phát triển” khuyến khích người lao động
tǎng thu nhập và làm giàu chính đáng,
chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập
do nǎng suất và hiệu quả lao động, tạo
động lực cho sự phát triển và nâng cao
mức sống chung của xã hội.
Về tổ chức quản lý, Đảng chủ trương
chuyển một nền kinh tế khép kín, nhập
khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở,
chủ động hội nhập, hướng mạnh về

xuất khẩu và đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô đến các đơn
vị cơ sở theo hướng mở rộng quyền tự
chủ về sản xuất, kinh doanh, đã tạo điều
kiện phát huy tính chủ động sáng tạo
của các đơn vị kinh tế và của người lao
động. Bộ máy nhà nước từng bước
chuyển sang thực hiện chức nǎng quản
lý nhà nước, khắc phục dần sự can
thiệp vào điều hành sản xuất - kinh doanh
của các đơn vị cơ sở. Việc xây dựng pháp
luật kinh tế được đẩy mạnh.
Nhìn lại những sai lầm trong thời kỳ
trước đổi mới, Văn kiện ĐH Đảng lần VI
đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là
một quá trình lịch sử tương đối dài, phải
trải qua nhiều chặng đường và do tư
tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn
1
bỏ qua những bước đi cần thiết , Đại hội
IV chưa xác định những mục tiêu của
chặng đường đầu tiên”. Việc sai lầm do
“bỏ qua những bước đi cần thiết” không
chỉ thể hiện ở việc vi phạm các quy luật
khách quan mà còn ở việc bỏ qua bước
trung gian quá độ kinh tế hàng hóa
TBCN, phủ nhận các hình thức, bước đi
mang tính quá độ từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn - nội dung mà trước đây

CNTB ra đời nó đã từng thể hiện. Và
chúng ta đã phải chịu sự trả giá cho
những sai lầm chủ quan đó. Vì vậy, nhất
thiết phải có một quá trình lâu dài với
nhiều bước đi với những nội dung, hình
thức phù hợp, nhằm thực hiện từng
bước sự cải biến cách mạng sâu sắc,
toàn diện, triệt để, không được nóng vội,
chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn.
văn kiện Đại hội Đảng IX nêu : “Xây
dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo
ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất
cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó
khăn phức tạp cho nên phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội có tính chất quá độ”.
Bước sang thời kỳ đổi mới, nhận thức
lại quan niệm bỏ qua chế độ TBCN một
cách đúng đắn, đầy đủ hơn. Quan điểm
đó đã được Đại hội VII, Đại hội VIII và
Đại hội IX bổ sung hoàn thiện hơn. Văn
kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định
“Quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác
lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa“, phải chủ động kế thừa biện
chứng những nhân tố hợp lý của cơ sở
hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng của

CNTB. Đó là những thành tựu chung đặc
biệt về khoa học công nghệ mà nhân loại
đạt được.
Mỗi xã hội trong lịch sử có một kiểu
những quan hệ vật chất cơ bản nhất
ứng với những LLSX đó là những
QHSX. Phù hợp với kiểu QHSX đó là
một hệ thống những quan hệ về chính
trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ
thuật Những quan hệ chính trị, tinh thần
này được thể hiện thông qua những
thiết chế xã hội tương ứng như : Nhà
nước, Đảng phái, tòa án, giáo hội và các
tổ chức xã hội khác Sự liên hệ và tác
động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh
tế của xã hội và các quan hệ kinh tế đó
được chủ nghĩa duy vật lịch sử phản
ánh trong các phạm trù CSHT và KTTT,
trong nguyên lý về quan hệ biện chứng
giữa CSHT và KTTT
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những
quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh
tế của một xã hội nhất định. Một xã hội
đang ở trong thời kỳ quá độ thì cơ sở hạ
tầng của nó mang tính quá độ, tức là có
sự đan xen giữa quan hệ sản xuất tàn dư
tồn tại cùng với mầm móng quan hệ sản
xuất mới.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ
những quan điểm chính trị pháp quyền,

triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật
… cùng với những thiết chế xã hội
tương ứng của chúng như Nhà nước,
chính đảng, giáo hội, các đoàn thể chính
trị - xã hội hình thành nên một cơ sở hạ
tầng nhất định. Mỗi bộ phận của kiến
trúc thượng tầng có quan hệ chặt chẽ,
tác động lẫn nhau và tác động đến cơ
sở kinh tế (đặc biệt là vai trò của Nhà
nước chính đảng và hệ tư tưởng chính
trị). Kiến trúc thượng tầng cũng mang
tính giai cấp rõ rệt.
Quan điểm duy vật Mác xít khẳng
định rằng sự vận động và phát triển
hình thái KT-XH còn bị chi phối bởi quy
luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Quy luật này khẳng định rằng cơ sở hạ
tầng (kinh tế) là quan hệ cơ bản quyết
định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc
thượng tầng sinh ra từ cơ sở hạ tầng
nhưng nó có vai trò to lớn tác động mạnh
mẽ trở lại cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu
kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến
trúc thượng tầng tương ứng qui định
tính chất, cơ cấu và mục đích hoạt động
của kiến trúc thượng tầng. Khi cơ sở hạ
tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng
phải thay đổi theo nhưng sự thay đổi

của kiến trúc thượng tầng diễn ra khá
lâu dài, một cách biện chứng.
Sự tác động trở lại của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể
hiện qua vai trò định hướng chính trị cho
hoạt động kinh tế theo yêu cầu mục đích
của giai cấp thống trị, mà trong đó Nhà
nước là thiết chế quan trọng nhất khi tác
động trở lại kinh tế. Kiến trúc thượng
tầng cũng có nhiệm vụ bảo vệ và phát
triển cơ sở kinh tế đã sinh ra nó. Sự tác
động của kiến trúc thượng tầng đến cơ
sở hạ tầng có thể diễn ra 2 khả năng
sau đây : một là phù hợp với tính tất yếu
kinh tế, với yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất thì có tác dụng thúc đẩy
kinh tế phát triển; hai là do yếu kém và
sai lầm của kiến trúc thượng tầng tác
động không phù hợp với quy luật kinh tế
thì sẽ kìm hãm sự phát triển của đời
sống kinh tế. Trong những trường hợp
đặc biệt, kiến trúc thượng tầng có thể tác
động làm đảo lộn nhanh chóng cơ sở hạ
tầng nhưng suy đến cùng thì kiến trúc
thượng tầng vẫn bị kinh tế quyết định
Lịch sử xã hội loài người đã trãi qua 4
hình thái KTXH, đó là : chế độ công sản
nguyên thủy, chế độ chiếm hữu nô lệ,
chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ
nghĩa và đang trãi qua thời kỳ quá độ

của CNXH, giai đoạn đầu tiên của
CNCS. Động lực của sự vận động và
phát triển của các hình thái kinh tế xã hội
đó - theo Học thuyết Mác xít - chính là
hoạt động thực tiễn của con người dưới
tác động của các quy luật khách quan.
Quá trình phát triển đó là một quá trình
lịch sử tự nhiên. Phạm trù “tự nhiên” ở
đây được đề cập đến để chỉ rõ tính tất
yếu của sự vận động phát triển lịch sử.
Đó là sự vận động, phát triển không
ngừng của lịch sử xã hội từ thấp đến
cao, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người hoặc bất cứ một
lực lượng xã hội nào mà nó do các quy
luật kinh tế - xã hội khách quan vốn có
của bản thân xã hội quyết định, mà trong
đó trước hết và cơ bản là quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất của
sự phát triển xã hội
Mác cho rằng không phải quốc gia,
dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua
tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có
trong lịch sử. Do những điều kiện khách
quan và chủ quan nhất định, một quốc
gia, dân tộc nào đó có thể bỏ qua một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào
đó để tiến lên một hình thái kinh tế - xã
hội tiến bộ hơn. Đó cũng là quá trình lịch

sử tự nhiên nhưng mang tính đặc thù,
rút ngắn lịch sử. Tuy nhiên, phát triển rút
ngắn đòi hỏi phải có những điều kiện
khách quan và chủ quan mới có thể
thực hiện được. Lê-nin cũng đã nói con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có
thể có những hình thức khác nhau; điều
đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Theo người, hình
thức quá độ trực tiếp là con đường phát
triển tuần tự từ CNTB lên CNXH; còn
hình thức quá độ gián tiếp là con đường
phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa đi lên CNXH.
Dựa vào học thuyết của Mác – Lênin
về hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã
vận dụng những lý luận này vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, chọn lựa con
đường phát triển rút ngắn - tức là đi lên
CNXH không trải qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Sự chọn lựa đó
dựa trên những yếu tố khách quan và
chủ quan như sau :
Về khách quan, thời đại ngày nay
vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới và theo
quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới CNXH. Văn kiện Đại
hội IX đã chỉ rõ mặc dù trước mắt CNTB
vẫn còn tiếp tục phát triển nhưng nó

không giải quyết được mâu thuẩn cơ
bản giữa quan hệ sản xuất đã lạc hậu
với lực lượng sản xuất phát triển mạnh,
từ đó làm cho lực lượng sản xuất chưa
phát triển đúng với tiềm năng của nó,
dẫn đến những suy thoái kinh tế tất yếu
xảy ra và cùng với nó là sự khủng
hoảng về chính trị. Bỡi lẽ, phương thức
sản xuất TBCN làm cho quy mô của các
công ty tư bản sẽ ngày càng lớn do hệ
quả của các cuộc khủng hoảng kinh
niên và mang tính tàn phá của nền kinh
tế tư bản. Cùng với chế độ bóc lột tư
bản chủ nghĩa, sự phân cực xã hội là vô
cùng sâu sắc, sự phân hóa giàu nghèo
được đẩy tới đỉnh điểm. Ở đây của cải
ngày càng tập trung vào một số nhỏ các
cá nhân là những triệu phú và tỉ phú; ở
cực đối lập là những người sống dưới
mức nghèo khổ ở các nước tư bản phát
triển và đông đảo những người cùng
khổ, đói rét ở các nước tư bản đang
phát triển. Mặt khác, nội dung vật chất
của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa là
giá trị thặng dư mang hình thức giá trị
trao đổi (tức là vàng bạc hay tiền tệ), làm
cho lòng thèm khát tăng lao động thặng
dư và khát vọng làm giàu trên cơ sở đó
được đẩy tới cực độ. Hệ quả của thực
tế đó chắc chắn sẽ đúng như sự tiên

đoán của C. Mác: "cùng với sự phát
triển của đại công nghiệp, chính cái nền
tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất
và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị
phá sập dưới chân giai cấp tư sản.
Trước hết, giai cấp tư sản sinh ra những
người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp
đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của
giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau".
Mặt khác, thế kỷ XXI là thế kỷ khoa
học và công nghệ có những bước nhảy
vọt, kinh tế trí thức ngày càng có vai trò
nổi bật trong sự ảnh hưởng đến quá
trình lực lượng sản xuất của các quốc
gia. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế đối với mọi nước,
nhất là các nước đang phát triển, vừa là
thời cơ vừa là thách thức. Đối với nước
ta, thời cơ lớn hơn thách thức. Chúng ta
chẳng những có khả năng tiếp cận
những tiến bộ KHKT, tranh thủ nắm bắt
và vận dụng những thành tựu khoa học
và công nghệ sản xuất, trình độ sản
xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức
và quản lý sản xuất của con người để
nhanh chóng xây dựng lực lượng sản
xuất hiện đại mà còn có khả năng tạo ra
thời cơ nếu ta có đường lối đúng, có bản
lĩnh để thực hiện đường lối đó.
Về chủ quan, Qua gần 20 năm thực

hiện những nội dung đối mới đó, nền
kinh tế nước ta đã có những bước
chuyển tích cực trong việc xây dựng nền
tảng cơ sở vật chất cho CNXH. Tăng
trưởng kinh tế nhanh, đặc biệt là trong
10 gần đây (tăng gấp hai lần từ 1991-
2000 với tỷ lệ tăng trưởng bình quân
7,5%/năm), cơ sở vật chất kỹ thuật
được tăng cường, mở rộng quan hệ
quốc tế. Tăng trưởng GDP của Việt
Nam. Tỷ lệ đói nghèo giảm với khoảng
25 triệu người thoát khỏi đói nghèo.
Song song với sự thành tựu về kinh tế là
sự đổi mới về kiến trúc thượng tầng bắt
đầu từ việc đổi mới về chính trị. Đảng
cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ một bản
lĩnh chính trị vững vàng và đường lối
lãnh đạo đúng đắn. Nhà nước đã có
nhiều cố gắng trong việc điều hành và
quản lý đất nước. Chúng ta đã có bài
học của ba mươi năm lãnh đạo xây
dựng kinh tế trong hòa bình với tư cách
của một Đảng cầm quyền duy nhất của
một nước có hơn 80 triệu dân vốn cần
cù, thông minh và giàu nghị lực sáng
tạo. Đó là những yếu tố chủ yếu đảm
bảo sự thành công cho sự nghiệp xây
dựng CNXH
Qua nghiên cứu, tổng kết thực tiển với
tư duy quan điểm mới Đảng ta đã nhìn

nhận vấn đề bỏ qua “giai đoạn” hay “thời
kỳ” đơn thuần là rút ngắn thời gian trên
cơ sở có được những điều kiện, thời cơ
và tiền đề vật chất quan trọng nhất đó là
sự phát triển của LLSX và sự trưởng
thành của giai cấp vô sản. Cụ thể hoá
nội dung “bỏ qua”, đại hội ĐBTQ lần IX
của Đảng đã nêu rõ :”Bỏ qua chế độ
TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của QHSX và KTTT TBCN,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công
nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây
dựng nền KT hiện đại”. Nghĩa là chúng
ta thừa nhận sự tồn nền KT nhiều thành
phần theo định hướng XCHN. Có tiếp
nhận, cải tạo các quan hệ sản xuất cũ
và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát
huy mọi thành phần kinh tế, nâng sức
sản xuất của XH, tạo ra thật nhiều sản
phẩm phong phú có sức cạnh tranh trên
thị trường. Đồng thời thông qua sự
nghiệp CNH-HĐH – đây là nội dung
mang tính quyết định và đột phá nhằm
nâng tầm về chất của LLSX và xây
dựng LLSX cần thiết cho chế độ mới.
Sự nghiệp CNH phải đi đôi với HĐH
nghĩa là trong xu thế tất yếu của toàn
cầu hoá kinh tế và trong điều kiện của

cuộc cách mạng khoa học công nghệ
ngày nay chúng ta tiếp tục đường lối
kinh tế đối ngoại rộng mở, hoà nhập đi
trước đón đầu, mở cửa hiện đại hoá ra
bên ngoài tiếp thu những thành tựu
khoa học hiện đại của nhân loại, chú
trọng phát triển kinh tế theo chiều sâu đó
là xây dựng LLSX phát triển với thiết bị
hiện đại, công nghệ hàng đầu, đặc biệt
là đào tạo lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn hoá cao là điều kiện cần
thiết để nền KT phát triển nhanh, bền
vững và hiệu quả. Và đây cũng chính là
tiền đề cần thiết để từng bước thiết lập
chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản
xuất chủ yếu và sẽ chiếm tuyệt đối khi
CNXH được xây dựng xong về cơ bản.
Và cũng là cơ sở để chúng ta xây dựng
một nền kinh tế độc lập tự chủ, theo định
hướng XHCN trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc.
Điều đó đồng nghĩa với việc không thiết
lập vai trò thống trị của QHSX và KTTT
TBCN.
Có như vậy chúng ta mới có thể tạo
ra sự biến đổi về chất của XH, trên tất cả
các lĩnh vực dù biết rằng đó là một sự
nghiệp rất khó khăn phức tạp trãi qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều

chặn đường để thực hiện bằng được
mục tiêu cuối cùng là ước nguyện của
cả dân tộc : xây dựng thành công CNXH
theo mô hình đã được xác định trong
Cương lĩnh ĐH7. Đó là một xã hội : “Do
nhân dân dân lao động làm chủ; Có một
nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các TLSX chủ yếu; Có nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Con người được giải phóng khỏi áp bức
bốc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động. Có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới.”.
Tóm lại ”XD CNXH bỏ qua chế độ
TBN tạo ra sự biến đổi về chất của XH,
trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất
khó khăn phức tạp, cho nên phải trãi qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặn đường, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế XH có tính chất quá độ” là quan
điểm đúng đắn của Đảng ta trong tình
hình mới. Phù hợp với tiến trình lịch sử
– tự nhiên của sự phát triển xã hội
chẳng những diễn ra bằng con đường

phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả
sự bỏ qua trong những điều kiện lịch sử
nhất định, một hoặc vài hình thánh kinh
tế – xã hội nhất định. Bỏ qua giai đoạn
TBCN ở Việt Nam là một điển hình sinh
động, đó là quá trình lịch sử – tự nhiên
đặc thù
2

×