Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn kinh nghiệm sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử bậc thpt yên định 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.27 KB, 22 trang )

I - ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới
phương pháp dạy học lịch sử nói riêng là một quá trình được
thực hiện thường xuyên, trong đó có nhiều yếu tố có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Để đạt được kết quả trong đổi mới phương
pháp dạy học, luật giáo dục việt nam công bố năm 2005, điều
28.2 có ghi “phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính
tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho học sinh”
Vậy sử dụng phương pháp dạy học như thế nào để phát huy
tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử? Có rất nhiều
phương pháp (phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan, phương
pháp sử dụng hệ thống câu hỏi, phương học theo góc, phương
pháp học theo hợp đồng, tiến hành công tác ngoại khóa…),
trong đó không có phương pháp nào là “vạn năng”. Mỗi
phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế của nó, nhưng
việc sử dụng hệ thống câu hỏi là một trong những biện pháp
quan trọng, có ưu thế để phát triển tư duy của học sinh. Việc
xây dựng đơn vị kiến thức cho học sinh ở một phần bài học, bài
học nào đó yêu cầu giáo viên phải: chuẩn bị hệ thống câu hỏi từ
dễ đến khó, câu hỏi mang tính trọng tâm và phải luôn đạt
chuẩn, từ đó sẽ làm cho học sinh học tập hứng thú hơn, đồng
thời phát triển năng lực của các em, giúp các em nắm chắc
được kiến thức bài học và hiểu sâu hơn các sự kiện, hiện tượng,
nhân vật lịch sử…, hình thành kĩ năng và bồi dưỡng phẩm chất
đạo đức, hình thành nhân cách cho các em.
Trong thực tế giảng dạy tại trường Yên Định 2, việc sử


dụng hệ thống câu hỏi đã mang lại những hiệu quả nhất định, vì
vậy tôi mạnh dạn xin trình bày đề tài “ Sử dụng hệ thống câu
hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử
THPT”
1
2. Mục đích nghiên cứu
- Gây hứng thú học môn lịch sử đối với học sinh bậc THPT.
- Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà tôi áp dụng đề tài học sinh ở các lớp 12B11,
12B12, 12B9, 12B10 của trường THPT Yên Định 2.
II - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở khoa học
Đai-ri nhà giáo dục Liên Xô cũ đã từng nói “Dạy học lịch sử
cũng như bất cứ dạy cái gì đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cái
thông minh chứ không phải là bắt buộc các trí nhớ làm việc, bắt
nó ghi chép rồi trả lại”.
Như vậy mục đích của việc dạy học lịch sử ở trường là người
giáo viên không chỉ giúp học sinh hình dung được những kết
quả của quá khứ biết và ghi nhớ các sự kiện hiện tượng của
lịch sử mà quan trọng hơn là hiểu được lịch sử tức là phải nắm
đựơc bản chất của sự kiện. Có rất nhiều cách để giáo viên giúp
học sinh hiểu và nắm được bản chất sự kiện lịch sử nhưng trong
đó việc sử dụng hệ thông câu hỏi là phù hợp với đối tượng học
sinh là rất quan trọng. Việc hỏi và trả lời phù hợp với trình độ
của học sinh sẽ đưa lại kết quả tốt; Hỏi và trả lời chính là đặt
tình huống có vấn đề rồi tìm cách giải quyết vấn đề.
Việc hỏi và trả lời câu hỏi có ý nghĩa giáo dục và phát triển
lớn, nó phát huy tính tích cực của học sinh.
2. Thực trạng của vấn đề

Thực tế ở trường THPT Yên Đinh 2 đa số học sinh chỉ chú
trọng học các môn tự nhiên, bởi các em cho rằng lịch sử là môn
phụ, là môn có quá nhiều sự kiện khô cứng nên các em còn
chưa có sự say mê môn học, và việc ghi nhớ các sự kiện, hiện
tượng, nhân vật lịch sử…còn rất yếu.
2
Đa số các em học chỉ mang tính đối phó, vì vậy chưa độc lập
suy nghĩ để trả lời một câu hỏi, mà thường là bê nguyên si trong
sách giáo khoa hay chỉ nêu được mốc thời gian mà không diễn
tả được thời gian đó nói lên sự kiện gì …Bởi vậy bản thân các
em nên có một phương pháp học như thế nào để chiếm lĩch
kiến thức từ bài giảng của giáo viên.
Mặt khác giáo viên giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường tuy
cũng rất tích cực đổi mới dạy học như lồng việc giảng kết hợp
với việc cho các em xem hình ảnh minh họa. Trên thực tế có
gây được hứng thú cho các em, giờ học sôi nổi nhưng sau đó
khi kiểm tra bài cũ các em lại không trả lời được vì ở bài học
hôm trước các em không ghi bài chỉ tập trung xem hình ảnh.
Đồng thời để giảm bớt tình trạng mất cân bằng trong dạy và
học lịch sử, giảm bớt học sinh yếu kém và nâng cao chất lượng
dạy và học của nhà trường bản thân tôi nhận thấy cần phải cố
gắng đưa ra các phương pháp để phát huy tính học tập tích cực
của học sinh. Một trong những biện pháp mà tôi thấy hiệu quả
đó là sử dụng: “phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi để phát
huy tính tích cực của học sinh trong tiết dạy lịch sử bậc THPT”
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
Để đạt hiệu quả cao trong sử dụng hệ thống câu hỏi nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh tôi đã thực hiện các bước
sau:
3.1) Các bước tiến hành cụ thể

a) Nêu câu hỏi đặt vấn đề:
Trước khi vào bài mới, để thu hút sự chú ý của học sinh bất
kể là bài nào khối lớp nào giáo viên nên nêu ngay câu hỏi vừa
là hình thức đặt vấn đề, đồng thời định hướng nhận thức cho
học sinh. Các câu hỏi đưa ra vào đầu giờ nhằm động viên sự
chú ý, huy động các năng lực nhận thức của học sinh vào việc
theo dõi bài giảng để tìm câu trả lời. Những câu hỏi này là
những vấn đề cơ bản của bài học mà học sinh phải nắm. Đương
3
nhiên với loại câu hỏi này, giáo viên không yêu cầu học sinh trả
lời ngay, mà chỉ trả lời sau khi giáo viên cung cấp đầy đủ sự
kiện thì học sinh mới trả lời được. Tức là trả lời vào cuối bài
học.
Ví dụ
Khi dạy bài 13 tiết 2.“Phong Trào Dân Tộc Dân Chủ ở Việt
Nam”(1925-1930) ( sách giáo khoa lịch sử 12 trang 83). Giáo
viên nêu câu hỏi đầu giờ: Tại sao nói Đảng Cộng Sản Việt Nam
ra đời đã tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt
Nam? Để lí giải được câu hỏi này cô mời các em chuyển sang
II Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời.
Dạy bài 31”Cách Mạng Tư Sản Pháp cuối thế kỉ XVIII”
(trang 159 sách giáo khoa lịch sử 10 cơ bản) ở phần đặt vấn đề
giáo viên đưa ra nhận định của C.Mác:”…Cuộc cách mạng năm
1789 không phải chỉ là cuộc cách mạng của Pháp. Đó là cuộc
cách mạng có phạm vi Châu Âu…” Dựa trên cơ sở nào C.Mác
có thể đưa ra được nhận định đó, để hiểu rõ hơn về cuộc cách
mạng này cô mời các em theo dõi nội dung của bài 31: Cách
mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII.
Như vậy trong quá trình dạy học, giáo viên vẫn tuân thủ trình
tự của sách giáo khoa, song cần khai thác nhấn mạnh,giúp học

sinh trả lời câu hỏi nêu trên. Học sinh trả lời được câu hỏi này
tức là đã nắm và hiểu được kiến thức của bài.
b) Xác định mối liên hệ, xâu chuỗi giữa các câu hỏi với các
sự kiện, hiện tượng trong bài học.
Một trong những biện pháp sư phạm là xác lập mối liên hệ
giữa câu hỏi các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài.
Ví dụ:
Sau khi học xong bài 8: “ Ôn tập lịch sử thế giới cận đại” (
lịch sử 11 cơ bản trang 44 ). Chúng ta có thể tổ chức trò chơi
cho các em xâu chuỗi các sự kiện, hiện tượng lịch sử lại với
4
nhau để các em khắc sâu hơn kiến thức và có hứng thu học tập
thông qua các câu hỏi gợi ý.
Tổ chức trò chơi giải ô chữ hàng dọc:
Câu 1: Cuộc chiến tranh lớn nhất trong lịch sử thế giới cận
đại? ( 18 chữ cái ).
Câu 2: Một khối quân sự hình thành ở châu âu đầu thế kỉ XX,
bao gồm các nước tư bản Anh-Pháp –Nga? ( 7 chữ cái ).
Câu 3: Một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất
nước pháp ở thế kỉ xi x?( 6 chữ cái).
Câu 4: Giai cấp nắm quyền lãnh đạo phong trào ở Ấn Độ đầu
thế kỉ xx ? ( 5 chữ cái ).
Câu 5: Cuộc cách mạng đánh dấu bước chuyển lớn trong cục
diện chính trị thế giới thời cận đại? ( 17 chữ cái ).
Câu 6: Nhà nước vô sản kiểu mới đầu tiên trên thế giới ( 10
chữ cái )
Câu 7: Cuộc cách mạng tiêu biểu ở Trung Quốc diễn ra vào
năm 1911?( 14 chữ cái ).
Câu 8: Chế độ chính trị tồn tại trước năm 1968 ở Nhật Bản (
6 chữ cái).

Câu 9: Triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung
Quốc ( 8 chữ cái ).
Câu 10: Nhà văn hóa lớn ở Ấn Độ ( 4 chữ cái ).
Câu 11: Người có công lớn đưa Nhật Bản từ nước phong kiến
trở thành một nước tư bản chủ nghĩa?( 7 chữ cái ).
Câu 12: Tên cũ của nước Mianma? ( 8 chữ cái )
Câu 13: Một trong những nước có nhiều thuộc địa nhất ở Mĩ
latinh?( 8 chữ cái )
5
* Phần đáp án ô chữ:
C H I Ê N T R A N H T H Ê G I Ơ I
H I Ê P Ư Ơ C
B A N Z A C
T Ư S A N
C A C H M A N G T H A N G M Ư Ơ I
C Ô N G X A P A R I
C A C H M A N G T Â N H Ơ I
M A C P H U
M A N T H A N H
T A G O
M I N H T R I
M I Ê N Đ I Ê N
T Â Y B A N N H A
Từ hàng dọc: Tư bản chủ nghĩa- đây là một hình thái kinh tế
xã hội chủ đạo ở thời cận đại (13 chữ cái)
Những kiến thức này được sắp xếp trình diễn trên màn hình,
để các em có thể quan sát được câu hỏi và hệ thông kiến thức,
học sinh tự tìm ra câu trả lời, tìm ra mối liên hệ giữa chúng.
Trong học sinh sẽ có cuộc tranh luận đâu là từ chìa khóa của ô
chữ và học sinh sẽ phát hiện ra từ chìa khóa là” tư bản chủ

nghĩa”. Cách lập bảng như vậy hợp với cách sử dụng câu hỏi sẽ
có hiệu quả không chỉ về nắm kiến thức mà còn có tác dụng
giáo dục, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy cho học
sinh và giúp các em tránh nhàm chán trong các tiết học.
Như vậy việc xây dựng bảng các sự kiện qua các câu hỏi trò
chơi và mối liên hệ giữa chúng là một trong những biện pháp
giúp học sinh nhớ ngay sự kiện cơ bản ở trên lớp, đồng thời
kích thích tính tích cực của các em.
6
c) Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp
Trong quá trình giảng dạy ở trên lớp, giáo viên còn phải
biết đặt ra và giúp học sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất
nhận thức kiến thức. Một hệ thống câu hỏi tốt nêu ra trong quá
trình giảng dạy phù hợp với khả năng của các em, kích thích tư
duy phát triển. Đồng thời tạo ra mối liên hệ bên trong của học
sinh và giữa học sinh với giáo viên. Tức là mỗi câu hỏi đưa ra,
mỗi học sinh và cả giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời được?
Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời.
Trong sách giáo khoa, sau mỗi mục mỗi bài thường có từ 1
đến 3 câu hỏi, những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định
kiến thức trong sách, đồng thời bổ sung để xây dựng hệ thống
câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sư chuẩn bị từ khi soạn giáo
án, phải có dự kiến lúc nào hỏi? Phải có dự kiến câu trả lời của
học sinh? Và phải chuẩn bị đáp án cụ thể.
Như vậy việc đặt câu hỏi cũng được coi là một nghệ thuật.
Căn cứ vào nội dung của từng bài cụ thể để giáo viên đưa ra
các dạng câu hỏi phù hợp với kiểu bài. Có thể phân thành
những dạng như sau:
Dạng câu hỏi về nguyên nhân, bối cảnh, hay hoàn cảnh lịch
sử: loại này thường xuất hiện ở phần đầu bài giảng, thường áp

dụng cho học sinh yếu kém.
Ví dụ:
Nguyên nhân dẫn đến cuộc nội chiến ở Mĩ năm 1861? ( bài
33-trang 167 sách giáo khoa 10 cơ bản).
Trình bày hoàn cảnh ra đời của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên? ( bài 13 trang 83, tiết 1 sách giáo khoa lịch sử 12 cơ
bản).
Đây là dạng câu hỏi dễ nhưng lại rất cần thiết bởi vì nếu các
em không nắm được sự kiện hiện tượng lịch sử xuất hiện trong
hoàn cảnh lịch sử nào thì các em sẽ không nắm được tiến trình
7
tiếp theo của lịch sử. Đây cũng là một đặc điểm tư duy cần hình
thành cho học sinh.
Dạng câu hỏi trình bày diễn biến, phát triển, quá trình của
hiện tượng lịch sử:
*Ví dụ:
Hãy trình bày nội dung của hội nghị IANTA(2-1945)? ( bài 1-
trang 4 lịch sử 12 cơ bản)
Hãy trình bày diễn biến của chiến dịch Biên giới thu đông
1950 ( tiết 3 bài 18 trang 136 lịch sử 12 cơ bản).
Trình bày quá trình hoạt động của Nguyễn Aí Quốc trong
thời gian (1919-1925)? ( mục 3 phần 2 bài 12 trang 81 lịch sử
12 cơ bản).
Tuy đây là dạng câu hỏi ít suy luận song lại đòi hỏi trí nhớ,
phải biết nhiều sự kiện, địa danh, nhân vật để giúp học sinh
phát triển trí nhớ nên cần phải chia câu hỏi thành nhiều câu hỏi
nhỏ, đồng thời lập các bảng niên biểu, mối liên hệ giữa các sự
kiện.
Ví dụ sau khi đặt câu hỏi: Trình bày hoạt động của Nguyễn
Aí Quốc từ(1919-1925)? Giáo viên để học sinh nêu xong rồi

giáo viên có thể cũng cố bằng bảng niên biểu do giáo viên
chuẩn bị trước:
Mốc thời
gian
Hoạt động của NAQ
T6/1919 Gửi tới hội nghị véc xai bản yêu sách 8 điểm
đòi quyền cho nhân dân An Nam…
T7/1920 Đọc” Bản sơ thảo lần thứ nhất luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của LêNin”…
T12/1920 Tham dự đại hội tua ở pháp, bỏ phiếu tán
thành và ra nhập quốc tế III và thành lập đảng
cộng sản Pháp…
1921 Sáng lập ra hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa
8
ở Pa Ri….
1922 Tham gia viết nhiều bài cho báo ” nhân đạo
“……
T6/1923 Dự hội nghị quốc tế nông dân………
T11/1924 Về Quãng Châu Trung Quốc để trực tiếp đào
tạo cán bộ cách mạng…
T6/1925 Thành lập hội việt nam cách mạng thanh
niên……
Câu hỏi theo cấp độ nhận thức nêu lên đặc trưng bản chất
của các hiện tượng lịch sử, bao gồm sự đánh giá và thái độ học
của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy. Loại câu hỏi
này thường dùng cho học sinh khá giỏi khi thảo luận để bổ trợ
kiến thức cho các đối tượng yếu kém.
Ví dụ:
Tại sao nói, ngay sau khi ra đời nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa ở vào tình thế hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”?

(bài 17 trang 121 sgk lịch sử 12 cơ bản).
Tại sao Nhật đảo chính pháp(9-3-1945)? Đảng đã có chủ
trương gì trước sự kiện đó?(bài 16-trang 112 lịch sử 12 cơ bản).
Thường dạng câu hỏi này khó đối với học sinh, nó đòi hỏi
các em phải biết phân tích, biết đáng giá, biết bày tỏ thái độ của
mình đối với sự kiện, hiện tượng lịch sử. Vì vậy trong quá trình
đặt câu hỏi giáo viên nên đưa ra câu hỏi gợi mở giúp các em có
thể trả lời câu hỏi của mình.
Ví dụ: Khi dạy bài 31: cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ
XVIII (lịch sử 10-cơ bản.
Giáo viên đặt câu hỏi:
Câu hỏi nhận thức: Tại sao nói cách mạng tư sản pháp là
cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất?
9
Câu hỏi gợi mở: Nhiệm vụ của một cuộc cách mạng tư sản là
gì? Cách mạng tư sản pháp đã giải quyết được những nhiệm vụ
đó một cách triệt để chưa?
Với loại câu hỏi nhận thức tuy hơi khó nhưng nếu câu hỏi của
gợi mở của giáo viên đưa ra hợp lí nó sẽ có một ý nghĩa rất lớn,
giúp học sinh khắc sâu kiến thức và gây được hứng thú tìm hiểu
bài của các em.
Dạng câu hỏi nêu nguyên nhân thắng lợi, kết quả và ý nghĩa
lịch sử của sự kiện đó- đây cũng là dạng câu hỏi dễ nên có thể
áp dụng cho học sinh trung bình giúp các em tự phát hiện và
lĩnh hội kiến thức một cách liên tục.
Vì lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục, đan xen nhau
giữa các sự kiện hoặc một hiện tượng hay một quá trình lịch sử
nào đó. Cần cho học sinh thấy rõ được kết quả của sự vận động
đó, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và ảnh hưởng của nó đối
với quá trình phát triển lịch sử.

Ví dụ:
Trình bày ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng tư sản Anh?
(bài 29-lịch sử 10 cơ bản-trang 144).
Em hãy nêu ý nghĩa của cuộc nội chiến ở Mĩ 1861?(bài 33 –
trang 167-lịch sử 10 cơ bản).
Trình bày nguyên nhân thắng lợi và ý nghiã lịch sử của cách
mạng tháng tám(1939-1945)?(bài 16 lịch sử 12 cơ bản).
Dạng câu hỏi so sánh đối chiếu giữa các sự kiện, hiện tượng
lịch sử này với sự kiện hiện tượng lịch sử khác. Đây là dạng
câu hỏi khó đòi hỏi học sinh phải có sự tư duy trong quá trình
tiếp thu bài. Tuy nhiên dạng câu hỏi này lại có lợi thế là: Vừa
giúp học sinh ôn lại kiến thức cũ vừa tiếp nhận kiến thức mới.
Ví dụ:
10
Khi dạy bài 14 “Phong Trào Cách Mạng 1930-1935” – trang
90 lịch sử 12 cơ bản.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi: Em hãy hoàn thành bảng so
sánh sự giống và khác nhau giữa Cương Lĩnh Chính Trị của
Nguyễn Aí Quốc (3-2-1930) với Luận Cuơng chính trị của Trần
Phú (10-1930)?
Nội dung Cương lĩnh (3-2-1930) Chính cương (10-
1930)
Tính chất
Nhiệm vụ
Lực lượng
tham gia
Lực lượng
lãnh đạo
Vị trí
Khi dạy bài 22 trang 173 “Hai miền trực tiếp chiến đấu

chống đế quốc Mĩ xâm lược. Miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản
xuất”(1965-1973) sau khi các em đã học xong phần “Chiến
Lược Chiến Tranh Cục Bộ của đế quốc Mĩ” giáo viên đặt câu
hỏi: Em hãy so sánh sự giống và khác nhau giữa 2 chiến lược
“Chiến Tranh Đặc Biệt và Chiến Lược Chiến Tranh Cục Bộ
“của Mĩ ở Miền Nam Việt Nam.
Nội dung
so sánh
Chiến lược “chiến
tranh đặc biệt “
Chiến lược “chiến
tranh cục bộ”
Hoàn
cảnh
Âm mưu
Biện pháp
Đối với dạng câu hỏi này để tránh mất thời gian giáo viên nên
có sự chuẩn bị trước, có thể sử dụng bảng phụ chuẩn bị sẵn
hoặc soạn lên máy và chiếu cho học sinh trả lời nhanh. Tóm lại
câu hỏi nêu trên sẽ tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh,
giúp cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra
11
nguyên nhân, diễn biến, kết quả, và ý nghĩa của một sự kiện
hay một quá trình lịch sử. Các em sẽ biết rút ra suy nghĩ đánh
giá riêng của mình về hiện tượng lịch sử.
Việc đặt và trả lời câu hỏi sẽ tạo ra một môi trường học tập
tích cực, có tác dụng hai chiều giữa giáo viên và học sinh.
Khắc phục được tình trạng học thụ động thầy đọc trò chép.
Theo tôi phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi cũng được
xem như một nghệ thuật vì vậy giáo viên cần phải lưu ý một số

cách ứng xử sau.
3.2) Một số cách ứng xử khi đặt câu hỏi:
Để đặt câu hỏi có hiệu quả, ngoài việc chú ý tới nội dung,
cách thức đặt câu hỏi thì giáo viên cũng cần quan tâm tới một
số cách ứng xử sau: (7 cách).
Dừng lại sau khi hỏi : mục tiêu là tích cực hóa suy nghĩ của
học sinh và đưa ra câu trả lời tốt hơn hoàn chỉnh hơn.
Tích cực hóa học sinh : giáo viên chuẩn bị trước các câu hỏi
và nói trước với học sinh các em sẽ được lần lượt trả lời các câu
12
hỏi, tạo điều kiện cho học sinh tích cực chủ động phát biểu ý
kiến, tránh chỉ tập trung vài cá nhân tích cực.
Phân phối câu hỏi cho cả lớp : tăng cường tham gia của học
sinh, giảm thời gian nói của giáo viên, thay đổi khuôn mẫu hỏi
trả lời.
Tập trung vào trọng tâm câu hỏi : nhằm buộc học sinh phải
hiểu, ghi nhớ kiến thức trong tâmcủa bài học thông qua trả lời
câu hỏi, cải thiện tình trạng học sinh đưa ra câu trả lời »em
không biết » hoặc câu trả lời không đúng.
Phản ứng với câu trả lời của học sinh: nếu câu trả lời đúng
giáo viên cần khen ngợi và công nhận câu trả lời, nếu câu trả lời
sai giáo viên vẫn ghi nhận sự tích cực phát biểu ý kiến không tỏ
thái độ tức giận hoặc trì chích.
Tránh tự trả lời câu hỏi của mình: với mục đích là tăng
cường sự tham gia của học sinh, hạn chế sự can thiệp của giáo
viên .
Tránh nhắc lại câu trả lời của học sinh: để đánh giá câu trả
lời của học sinh đúng hay sai giáo viên nên chỉ định học sinh
khác nhận xét về câu trả lời của bạn, sau đó giáo viên kết luận.
3.3) Vận dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực của

học sinh vào một mục cụ thể: Sử dụng câu hỏi gợi mở để trả lời
câu hỏi nhận thức:
Mục 3 trang 115: Bài 16: “Phong Trào Giải Phóng Dân Tộc
và Tổng Khởi Nghĩa Tháng Tám(1939-1945). Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng Hòa Ra Đời “.
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY
VÀ TRÒ
KIẾN THỨC CƠ BẢN
Đặt vấn đề: Cuối năm 1944-
đầu năm 1945 công tác chuẩn
bị cho một cuộc tổng khỡi
nghĩa đã hoàn thành.Toàn thể
3. Tổng khởi nghĩa tháng
tám năm 1945
13
dân tộc ta đã sẵn sàng chờ đón
thời cơ cách mạng xuất hiện để
đứng lên khỡi nghĩa.
Câu hỏi nhận thức: Vậy theo
em thời cơ của cách mạng
tháng tám ở đây là gì?
Câu hỏi gợi mở: thời cơ của
cách mạng tháng tám là sự kết
hợp nhuần nhuyễn của hai yếu
tố khách quan(bên ngoài) và
chủ quan(bên trong)? Căn cứ
vào sgk em hãy chỉ ra hai yếu
tố đó?
Với câu hỏi gợi mở đó học
sinh sẽ dựa vào sách giáo khoa

và phần đã học để trả lời.
Giáo viên chốt ý:……….
Như vậy điều kiện khách
quan và chủ quan đưa đến thời
cơ “chín muồi “ và hết sức
thuận lợi
a. Thời cơ:
Khách quan:
- Ngày 9/8/1945: Hồng
quân liên xô đánh tan 1triệu
quân quan đông của phát xít
nhật.
- Ngày 15/8/1945: Phát xít
nhật tuyên bố đầu hàng đồng
minh không điều kiện.
Chủ quan:
- Đảng có quá trình chuẩn
bị chu đáo trong suốt 15 năm,
qua 3 ba cuộc tập duyệt:
1930-1935; 1936-1939; 1939-
1945.
- Cùng với sự chuẩn bị của
Đảng nhân dân cũng đã sẵn
sàng nỗi dậy đấu tranh.
14
GV Tiếp tục đặt câu hỏi nhận
thức:
Tại sao nói thời cơ của cách
mạng tháng tám không những
“chín muồi” mà còn là “Thời

cơ ngàn năm có một”?
GV gợi ý cho học sinh
khoảng thời gian thời cơ chìn
muồi: sau ngày 15/81945 và
trước khi quân đồng minh tràn
vào.
Sau đó đưa ra câu hỏi gợi
mở:
-Nếu diễn ra trước ngày phát
xít nhật đầu hàng đồng minh
(trước ngày 15/8/1945) cách
mạng sẽ như thế nào?
-Nếu diễn ra sau ngày quân
đồng minh tràn vào để làm
nhiệm vụ giải giáp quân đội
phát xít cách mạng sẽ như thế
nào?
Với câu hỏi gợi mở như vậy
học sinh sẽ trả lời và tự rút ra
được kết luận?
Trước thời cơ thuận lợi như
vậy đảng đã chớp thời cơ lãnh
đạo nhân dân tiến hành tổng
khỡi nghĩa như thế nào?
-Học sinh theo dõi sgk và trả
Qúa trình chớp thời cơ của
Đảng:
-Ngày 13/8/1945 trung
ương đảng và việt minh thành
lập ủy ban khỡi nghĩa toàn

quốc,ban bố quân lệnh số
15
lời
GV nhận xét và chốt ý

Em có nhận xét gì về chủ
trương chớp thời cơ của đảng?
Hs trả lời gv nhận xét: thể
hiện sự nhạy bén, kịp thời dũng
cảm, quyết tâm cao của trung
ương đảng và Hồ Chí Minh.
- Cách mạng tháng tám diễn
ra nhanh gọn và ít đổ máu.
- Đối với phần diễn biến giáo
viên chuẩn bị trước bảng niên
biểu diễn biến của cách mạng
tháng tám.
Em hãy kết hợp sgk và bảng
1,phát lệnh khỡi nghĩa trong
cả nước.
-Các ngày 14, 15/8/1945
hội nghị toàn quốc của đảng
họp ở Tân Trào(Tuyên
Quang)quyết định phát động
khỡi nghĩa trong cả nước……
-Tiếp đó từ ngày16,
17/8/1945 đại hội quốc dân ở
Tân Trào tán thành chủ trương
tổng khỡi nghĩa,thông qua 10
chíng sách của mặt trận việt

minh, cử ra ủy ban dân tộc
giải phóng.
B. Diễn biến
Thời
gian
Sự kiện tiêu
biểu
14/8/19
45
16/8/19
45
18/8/19
45
16
niên biểu sự kiện tóm tắt ngắn
gọn diễn biến chính của cách
mạng tháng tám-1945.
HS sẽ theo dõi sgk và nhìn
vào bảng niên biểu của giáo
viên để tóm tắt diễn biến?
- GV kết hợp cho học sinh
tóm tắt diễn biến kết hợp với
việc xem lược đồ tổng khỡi
nghĩa để các em dễ hình dung
các sự kiện lịch sử.
19/8/19
45
23/8/19
45
25/8/19

45
28/8/19
45
30/8/19
45
4. Những kết quả đạt được (kiểm nghiệm):
Sau khi áp dụng phương pháp này vào Tiết 25 mục 3, bài 16
(Sách giáo khoa Lịch sử 12, bản cơ bản) tôi đã kiểm nghiệm
thực tế bằng cách phát phiếu điều tra thăm dò thái độ của các
em ở 4 lớp 12 do tôi phụ trách:
- Lớp: 12B11, 12B12 là những lớp đối chứng (dạy theo
phương pháp cũ).
- Lớp 12B9, 12B10 là những lớp thực nghiệm (sử dụng hệ
gợi mở để trả lời câu hỏi nhận thức).
Kết quả như sau:
Thái độ
Rất thích
và tiếp
thu bài
rất nhanh
Rất thích

tiếp thu
bài tương
đối nhanh
Thích
nhưng
tiếp thu bài
chậm
Không

thích và
không
tiếp thu
được bài
Lớp
Số
lượ
ng
tỉ lệ
%
Số
lượ
ng
tỉ lệ
%
Số
lượn
g
tỉ lệ
%
Số
lượ
ng
tỉ lệ
%
12B11 10 21,7 20 43,5 14 30,4 2 4,4
17
(46em)
12B12 (49
em)

9 18,4 17 34,7 18 36,7 5 10,2
********* ***
***
*
***
*
***
*
***
**
***
***
***
**
**
**
**
***
***
12B9 (47
em)
26 55,3 17 36,2 4 8,5 0 0
12B10 (49
em)
27 55,1 17 34,7 5 10,2 0 0
Qua bảng thăm dò trên đã cho thấy, việc áp dụng sáng kiến
trên đã đem lại hứng thú học tập và phát huy được tính tích cực
của học sinh từ đó kết quả học tập của các em rất khả quan.
Qua đó thấy rằng, muốn một tiết học thành công hay chất
lượng học tập học sinh được nâng cao hay không, người giáo

viên cần phải tâm huyết, phải gia công nhiều công sức cho bài
giảng và còn phải làm nhiều lần cho đến khi nhuần nhuyễn,
muốn có được như vậy người giáo viên phải tự bồi dưỡng, tự
rèn luyện và nâng cao tay nghề.
18
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ :
1. Kết luận:
Như vậy, “phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi để phát
huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử” được vận
dụng trong các tiết dạy học sẽ đạt được kết quả kết quả học tập
cao nhất. Tuy đây là một công việc cập nhật trong các tiêt học,
nhưng để có hiệu quả cao đòi hỏi người giáo viên dạy môn lịch
sử phải thực sự yêu công việc của mình, dành nhiều thời gian
để không ngừng trau dồi kiến thức và nâng cao phương pháp
dạy học. Để có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng khối từng
lớp đòi hỏi người giáo viên phải có chuyên môn nghiệp vụ
vững vàng, vận dụng linh hoạt trong quá trình dạy học.
Trên đây là những kinh nghiêm nhỏ của tôi trong quá trình
giảng dạy, chắc chắn sẽ còn rất nhiều hạn chế vì vậy rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp. Riêng
bản thân tôi sẽ tiếp tục và nỗ lực hơn nữa trong việc đổi mới
phương pháp dạy học.
2. Một số kiến nghị:
Trong phạm vi bài viết tôi xin được nêu một vài kiến nghị, đề
xuất sau:
Về phía giáo viên: không tham lam, chồng chất nhiều kiến thức
để “phủ lên bộ nhớ” các em, cuối cùng làm cho các em không
nhớ gì mà lại nảy sinh tâm lý chán học. Do đó muốn đạt được
mục đích trên người giáo viên phải biết chọn lọc tức là giản và
tinh chứ không phải ôm đồm. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải tích

luỹ nhiều kiến thức lịch sử phong phú , biết kết hợp nhuần
19
nhuyễn giữa các phương pháp để vận dụng tốt kiến thức vào bài
giảng đúng lúc, đúng nơi, đúng nội dung yêu cầu của bài.
Về phía tổ, nhóm chuyên môn: Phải thường xuyên trao đổi
kinh nghiệm, thảo luận phương pháp giảng dạy kiểu bài về
nhân vật lịch sử cho từng nhân vật trong tổng thể cấu trúc của
bài, chương, giai đoạn cụ thể.
Về phía nhà trường: Tiếp tục bổ sung vào phòng thiết bị
những tranh ảnh cần thiết. Đoàn trường cần tổ chức những tiết
học ngoài giờ lên lớp bằng những hoạt động bổ ích như việc tổ
chức các trò chơi lịch sử để khắc sâu biểu tượng nhân vật lịch
sử, giáo dục các em truyền thống yêu nước.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của ban
giám hiệu nhà trường và các bạn đồng nghiệp cùng các em học
sinh đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện đề tài này.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
……………………………
…………………………………….
……………………………………
……………………………………
…………………………………….
…………………………………….
Thanh hóa, tháng 5
năm 2013.
Tôi xin cam đoan đây
là skkn của mình viết
không sao chép của
người khác.


Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Thủy
20


MỤC LỤC
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.) Nghiên cứu các tài liệu về “phương pháp dạy học lịch
sử”
2.) Nghiên cứu tài liệu”một số phương pháp và kĩ thuật dạy
học”của Bộ GD và ĐT Dự án Việt –Bỉ
3.) Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp trao dồi rút kinh nghiệm
qua từng tiết dạy
4.) Nghiên cứu tài liệu gây hứng thú về dạy học lịch sử
5.) Nghiên cứu tài liệu :tâm lí học
6.) Sách giáo khoa, sách giáo viên lịch sử lớp 10,11,12
22

×