Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.37 KB, 4 trang )

Vấn đề 6 : Phân tích mối quan
hệ biện chứng giữa nguyên nhân
và kết quả. Vận dụng để phân
tích vai trò của những nguyên
nhân chủ quan, những nguyên
nhân khách quan dẫn đến tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội trước đổi mới cũng như
nguyên nhân của những thành
tựu khởi đầu, những yếu kém và
khuyết điểm sau hơn 15 năm đổi
mới (chủ yếu phân tích những
nguyên nhân chủ quan, những
yếu kém trong lãnh đạo của
Đảng)
Bài làm
Trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đất nước và
nhân dân ta đã đạt được những
thành tựu rất lớn trong công
cuộc bảo vệ đất nước và xây
dựng CNXH, tuy nhiên trong quá
trình xây dựng đất nước đã có
lúc đất nước ta trãi qua một thời
kỳ dài bị khủng hoảng kinh tế xã
hội trầm trọng và cũng như mọi
thời đại khác trong lịch sử, quá
trình quá độ tiến lên XHCN ở
nước ta là một quá trình dài đầy
khó khăn, thử thách có những


giai đoạn phát triển mạnh mẽ
nhưng cũng có lúc thoái trào, có
bước tiến nhưng cũng có bước
lùi.
Theo phép biện chứng
duy vật bất kỳ một sự vật hiện
tượng nào trong thế giới đều tồn
tại trong mối liên hệ nhân quả vì
thế giới là một chuỗi liên hệ nhân
quả trong thời gian vô tận. Do
đó, trên cơ sở phương pháp
luận của phép biện chứng duy
vật, việc tìm hiểu những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng khủng
khoảng kinh tế - xã hội kéo dài ở
nước ta trước thời kỳ đổi mới
(1986) có ý nghĩa đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay - giai đoạn mà
đất nước đang đứng trước
những thử thách lớn lao của thời
đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi
Đảng và Nhà nước ta phải
không ngừng đổi mới và không
cho phép mắc phải những sai
lầm như đã có trước đây
Theo triết học duy vật biện
chứng, nguyên nhân là phạm
trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt trong 1 sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau, gây

nên những biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù dùng để chỉ
những biến đổi xuất hiện do sự
tác động lẫn nhau giữa các mặt
bên trong sự vật hoặc giữa các
sự vật với nhau.
Trong mối liên hệ nhân -
quả ấy, nguyên nhân là cái có
trước và sinh ra kết quả, kết quả
chỉ xuất hiện sau khi nguyên
nhân đã xuất hiện và có sự tác
động. Do đó, nguyên nhân là cái
quyết định các tính chất đặc
điểm, nội dung của kết quả. Tuy
nhiên, không phải mọi quan hệ
nối tiếp nào về thời gian và
không gian cũng là mối liên hệ
nhân quả, chỉ có mối quan hệ
trước sau về mặt thời gian có
quan hệ sản sinh mới là mối
quan hệ nhân quả. Vì vậy, nếu
có một sự kiện nào đó trực tiếp
xảy ra trước kết quả và có liên
hệ với kết quả, nhưng là mối liên
hệ bên ngoài, không cơ bản,
không sinh ra kết quả thì sự kiện
đó chỉ là nguyên cớ mang tính
chất chủ quan và tuy không gây
ra kết quả nhưng nguyên cớ góp
phần xúc tiến gây ra kết . Do đó,

trong thực tiễn khi xem xét SVHT
ta phải phân biệt giữa nguyên
nhân với nguyên cớ.
Trong thực tế, mối liên hệ
nhân quả biểu hiện rất phức tạp,
có thể cùng một nguyên nhân
dẫn đến nhiều kết quả, tùy theo
từng hoàn cảnh cụ thể. Ngược
lại, một kết quả cũng có thể do
nhiều nguyên nhân tác động ở
những mức độ điều kiện khác
nhau; nếu các nguyên nhân tác
động cùng chiều với nhau dẫn
đến kết quả nhanh hơn, nếu tác
động ngược chiều thì làm cho
tiến trình hình thành kết quả
chậm hơn, thậm chí triệt tiêu tác
động của nhau.
Khi một kết quả do nhiều
nguyên nhân tạo ra thì tác động,
vai tròi của từng nguyên nhân
không như nhau. Do đó cần
phân loại và xác định vai trò của
từng loại nguyên nhân. Triết học
duy vật biện chứng đưa ra nhiều
hình thức nguyên nhân : nguyên
nhân bên trong và nguyên nhân
bên ngoài, nguyên nhân cơ bản
và nguyên nhân không cơ bản,
nguyên nhân chủ yếu và nguyên

nhân thứ yếu, nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ
quan
Nguyên nhân khách
quan và nguyên nhân chủ
quan thường gắn liền với những
kết quả xuất hiện do có sự tham
gia của con người. Nguyên
nhân khách quan là sự tác
động các mặt, các yếu tố của
hiện thực độc lập với ý thức của
chủ thể trong quá trình tạo ra kết
quả. Nguyên nhân chủ quan.
Nếu nguyên nhân khách quan
tồn tại với tính cách là khả năng
gây ra kết quả thì nguyên nhân
chủ quan sẽ quyết định việc biến
1
kết quả ấy thành hiện thực hay
không. Ngược lại, nếu nguyên
nhân khách quan có thể tự phát
huy tác dụng tạo ra kết quả thì
nguyên nhân chủ quan có thể
làm cho kết quả ấy đạt đến trình
độ cao hơn hay thấp hơn, nên
nó sẽ tác động cùng chiều hay
khác chiều với nguyên nhân
khách quan. Vì vậy, muốn tạo ra
kết quả trước hết phải tạo ra
nguyên nhân và điều kiện sản

sinh ra nó. Ngược lại, muốn xóa
bỏ một hiện tượng thì phải xóa
bỏ nguyên nhân và điều kiện sản
sinh ra nó, đồng thời quan tâm
sự tác động trở lại của kết quả
đối với nguyên nhân và sự
chuyển hóa giữa nguyên nhân
và kết quả.
Mối liên hệ nhân - quả là
mối liên hệ cơ bản và quan
trọng, thường gắn với tính chất
của sự vật hiện tượng là tính
khách quan, tính tất yếu, tính
phổ biến. Theo CNDV biện
chứng, nguyên nhân của mọi sự
vật, hiện tượng là khách quan
nằm ngay trong sự vận động và
tồn tại của thế giới sự vật, không
phụ thuộc vào việc con người có
nhận thức được nó hay không,
không có SVHT nào là không có
nguyên nhân. Con người chỉ có
thể phát hiện và vận dụng mối
liên hệ khách quan của nhân quả
chứ không thể xóa bỏ nó. Do đó,
một trong những nhiệm vụ hàng
đầu của các nhà khoa họ, xã hội
học là vạch ra được những mối
liên hệ nhân quả để có một
phương pháp phân tích khoa

học, phân biệt các loại nguyên
nhân và tìm ra nguyên nhân của
các sự vật.Trong mối liên hệ
nhân quả, kết quả do nguyên
nhân gây ra phụ thuộc vào
những điều kiện nhất định,
những điều kiện này là những
hiện tượng cần thiết cho một
biến cố nào đó xảy ra, nhưng
bản thân chúng không gây ra
những biến cố ấy. Tuy nhiên,
nếu thiếu chúng thì nguyên nhân
không gây nên những kết quả
được. Vì vậy, trong những điều
kiện nhất định thì những nguyên
nhân nhất định sẽ tạo ra những
kết quả nhất định. Những điều
kiện thế nào thì kết quả như thế
ấy hay nói cách khác đó là tính
tất yếu của mối liên hệ nhân quả.
Như đã nói ở trên, mối liên
hệ nhân quả thể hiện trong thực
tế rất phức tạp, đa dạng và cùng
một sự việc xảy ra có thể có
nhiều nguyên nhân khác nhau.
Vì vậy, khi chúng ta giải quyết
một vấn đề nào đó trước hết
phải từ nguyên nhân cơ bản để
có biện pháp giải quyết đúng
đắn, thích hợp, đồng thời phải

biết khai thác, vận dụng các kết
quả đã đạt được để nâng cao
nhận thức, tiếp tục thúc đẩy sự
vật phát triển. Do đó, trong nhận
thức và hành động của con
người cần phải xem xét hiện
tượng một cách toàn diện và tích
cực để chống lại những quan
niệm siêu hình, chật hẹp, phiến
điện và áp đặt mối quan hệ nhân
quả. Trong hoạt động thực tiễn,
phải phân tích sâu sắc những
hạn chế của yếu tố chủ quan và
đề ra những giải pháp khắc
phục, để trên cơ sở đó tác động
một cách có hiệu quả làm biến
đổi những nguyên nhân khách
quan theo hướng có lợi.
Trên cơ sở nhận thức
nguyên tắc và phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật.
Đảng ta đã vận dụng khá thành
công trong cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, trên cơ sở đánh
giá phân tích tình hình một các
toàn diện, cụ thể vận dụng đúng
quy luật khách quan, nắm vững
mối liên hệ nhân quả, nhờ đó đã
tạo nên những thắng lợi to lớn.
Tuy nhiên, trong công cuộc xây

dựng CNXH ở nước ta trong
những năm trước đổi mới, bên
cạnh những thành tựu đã đạt
được, Đảng ta đã phạm những
sai lầm, khuyết điểm trong sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý
Nhà nước, dẫn đến làm cho nền
KT-XH của nước ta lâm vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng,
đời sống nhân dân gặp nhiều
khó khăn.
Như bất kỳ sự kiện nào
trong thế giới khách quan, sự
khủng hoảng kinh tế xã hội giai
đoạn này có những nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ
quan. Những nguyên nhân
khách quan có thể kế như : do
xuất phát điểm của nước ta quá
thấp, nền SX nhỏ với trình độ SX
lạc hậu, do hậu quả của chiến
tranh kéo dài ảnh hưởng rất lớn
đến không chỉ đến tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội mà còn làm
cho đội ngũ cán bộ - đảng viên
không có điều kiện để học tập
nên trình độ KH công nghệ, tri
thức không đáp ứng đầy đủ
những yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng, do tác động của

thiên tai, hạn hán kéo dài và do
sự nghiệp xây dựng CNXH là 1
sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ của
thế giới.
Tuy nhiên, tình trạng
khủng hoảng kinh tế xã hội
không phải đều do nguyên nhân
khách quan quyết định đánh giá
về nguyên nhân của tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội thời
kỳ này, ĐH lần VI của Đảng đã
2
xác định “những sai lầm khuyết
điểm ấy có những nguyên nhân
khách quan và những nguyên
nhân chủ quan, trong đó nguyên
nhân chủ quan chi phối nguyên
nhân của những sai lầm ấy là
chủ quan duy ý chí, vi phạm quy
luật khách quan trong cải tạo
XHCN, trong tiến trình CNH và
trong cơ chế quản lý kinh tế .
Những sai lầm đó cùng với sự trì
trệ trong công tác tổ chức cán
bộ, đã kìm hãm lực lượng sản
xuất và triệt tiêu nhiều động lực
phát triển”. Do tư tưởng chủ
quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ
nên khi đề ra, định ra những chủ
trương, đường lối, chính sách,

Đảng và Nhà nước ta đã có
những sai lầm, vi phạm các quy
luật khách quan, biểu hiện qua
một số lĩnh vực cụ thể được nêu
văn kiện Đại hội VI như sau :
“Trong những năm 1976-1980,
trên thực tế chúng ta chủ trương
đẩy mạnh CNH trong khi chưa
có đủ các tiêu đề cần thiết. Mặt
khác chậm đổi mới cơ chế kinh
tế đã lỗi thời”, trong bố trí cơ
cấu kinh tế, cải tạo XHCN, quản
lý kinh tế và lĩnh vực phân phối
lưu thông đã có những sai lầm
“duy trì quá lâu cơ chế quản lý
kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp” - một cơ chế "gắn liền với
tư duy kinh tế dựa trên những
quan niệm giản đơn về chủ
tệ “, ”, “chưa nắm vững và vận
dụng đúng quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ SX với tính
chất và trình độ SX” nên “có lúc
đẩy mạnh quá mức việc xây
dựng công nghiệp nặng mà
không chú ý phát triển công
nghiệp nhẹ”, bỏ qua không thừa
nhận và vận dụng những quy
luật khách quan của phương
thức sản xuất, của nền kinh tế

hàng hóa Bên cạnh đó, việc
buông lỏng chuyên chính vô sản
trong quản lý KT-XH, trong đấu
tranh tư tưởng văn hóa, trong
việc chống lại những âm mưu
thủ đoạn phá hoại thâm độc của
kẻ thù…cũng là nguyên nhân
chủ quan dẫn đến sự khủng
hoảng trên.
Đánh giá những nguyên
nhân, sai lầm chủ quan, Đảng
cho rằng đó những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách về chỉ đạo
chiến lược, về tổ chức thực hiện
và để giải quyết những khó khăn
do sai lầm khuyết điểm trên việc
khắc phục những hạn chế chủ
quan được Đảng đặc biệt xem
trọng “Chúng ta không đánh giá
thấp những nguyên n hân khách
quan, những khó khăn đó rất
lớn. Song điều quan trọng là
phân tích sâu sắc những nguyên
nhân chủ quan, nêu rõ những sai
lầm khuyết điểm trong hoạt động
của Đảng và Nhà nước” (VK ĐH
Đảng VI). Như vậy, nguyên nhân
chủ yếu và cũng là nguyên nhân
cơ bản dẫn đến kết quả là tình

hình khủng hoảng KT-XH trong
thời kỳ trước đổi mới ở nước ta
là những nguyên nhân chủ quan,
nguyên nhân bên trong.
Trên cơ sở quán triệt mối
quan hệ biện chứng giữa nguyên
nhân và kết quả, rút kinh nghiệm
từ những sai lầm chủ quan, Đại
hội VI của Đảng (1986) Đảng đã
chỉ rõ bài học kinh nghiệm và đề
ra phương hướng, biện pháp
khắc phục nhằm từng bước sửa
chữa những sai lầm, đưa đất
nước ra khỏi cuộc khủng hoảng
bẳng việc khởi xướng vã lãnh
đạo công cuộc đổi mới toàn diện
sâu sắc trên tất cả lĩnh vực của
đời sống. Cũng từ những sai
lầm khuyết điểm chủ quan, ĐH
VI của Đảng đã rút ra 4 bài học
kinh nghiệm :
Một là, toàn bộ hành động
của mình Đảng ta phải có những
tư tưởng “lấy dân làm gốc” xây
dựng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn
xuất phát từ thực tế tôn trọng và
hành động theo quy luật khách
quan, năng lực nhận thức và

hành động theo quy luật là điều
kiện cho sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp
sức mạnh của dân tộc và sức
mạnh của thời đại trong điều
kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng
Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính
trị của một Đảng cầm quyền lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc
CM-XHCN.
Từ sau khi bắt đầu công
cuộc đổi mới đến nay, qua quá
trình thực hiện, nước ta đã đạt
được những thành tựu rất quan
trọng. Đến ĐH VIII, đất nước ta
đã khắc phục được tình trạng
khủng hoảng KT-XH và chuyển
sang thời kỳ mới - thời kỳ CNH-
HĐH đất nước.Văn kiện Đại hội
VIII của Đảng (tháng 6-1996)
nhận định: “Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, tuy
còn một số mặt chưa vững
chắc”.
Đến ĐH Đảng lần IX, sau
15 năm đổi mới, đất nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn
và rất quan trọng đó là :

- Kinh tế tăng trưởng khá,
tổng sản phẩm GDP trong nước
tăng bình quân hàng năm 7%.
Hệ thống kết cấu hạ tầng được
3
tăng cường. Cơ chế quản lý KT
đã có những thay đổi cơ bản. Từ
cơ chế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp đã chuyển sang cơ
chế thị trường định hướng
XHCN; từ chổ chủ yếu chỉ có 2
thành phần KT là KT nhà nước
và KT tập thể đã chuyển sang
nền KT nhiều thành phần trong
đó KT Nhà nước đóng vai trò
chủ đạo, từ tình trạng hàng hóa
khan hiếm nghiêm trọng nay SX
đã đáp ứng được các nhu cầu
cần thiết
- Văn hóa xã hội có những
tiến bộ, đời sống của nhân dân
tiếp tục được cải thiện. Tình
hình chính trị - xã hội cơ bản
được ổn định, quốc phòng, an
ninh được tăng cường. Đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng
KT-XH, vượt qua được cơn chấn
động chính trị và sự hụt hẩn về
thị trường do những biến động ở
Liên Xô và Đông Âu gây ra; phá

được thế bao cấm vận, mở rộng
được quan hệ đối ngoại và chủ
động hội nhập KT quốc tế, không
để bị cuốn sâu vào cuộc khủng
hoảng tài chính KT ở một số
nước Châu Á mặc dù hậu quả
của nó đối với nước ta cũng khá
nặng nề, tình hình CT XH cơ bản
ổn định quốc phòng và an ninh
được tăng cường.
- Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng được chú trọng, hệ
thống chính trị được củng cố.
- Quan hệ đối ngoại không
ngừng được mở rộng, hội nhập
kinh tế quốc tế được tiến hành
chủ động và đạt nhiều kết quả.
Ngày nay, thế và lực của đất
nước ta đã lớn mạnh lên rất
nhiều
Nguyên nhân của những
thành tựu đó bao gồm nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân
khách quan, trong đó nguyên
nhân chủ quan là chủ yếu.
Nguyên nhân chủ quan là
do Đảng ta có bản lĩnh chính trị
vững vàng và đường lối lãnh đạo
đúng đắn; Đảng và Nhà nước ta
đã kiên trì đổi mới theo những

phương hướng, bước đi cơ bản,
đúng đắn, Nhà nước có cố gắng
lớn trong việc quản lý điều hành;
toàn dân tộc đã phát huy lòng
yêu nước, tinh thần dũng cảm,
đoàn kết nhất trí, cần cù, năng
động, sáng tạo…
Nguyên nhân khách quan
là tinh thần cách mạng và sự nổ
lực phấn đấu của toàn dân với
lòng yêu nước nòng nàn và niềm
tin vào sự nghiệp cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng,
chấp nhận thử thách, chịu đựng
và vượt qua những khó khăn đổi
mới làm chuyển biến tình hình.
Tuy nhiên, bên cạnh đó
chúng ta còn những yếu kém
cần khắc phục: nền kinh tế phát
triển chưa vững chắc, hiệu quả
và sức cạnh tranh thấp. Một số
vấn đề văn hóa xã hội bức xúc
và gay gắt chậm được giải
quyết. Cơ chế chính sách chưa
đồng bộ; tình trạng tham nhũng,
suy thoái ở một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên là rất
nghiêm trọng. Đây là những vấn
đề cần phải được nhanh chóng
khắc phục để đất nước phát triển

bền vững
Dựa trên việc tổng kết
những nguyên nhân chủ quan và
khách quan từ nhân của những
thành tựu khởi đầu, những yếu
kém và khuyết điểm sau hơn 15
năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra
những bài học kinh nghiệm quý
báo, đó là :
Một là, trong quá trình đổi
mới phải kiên trì mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH trên nền tảng
chủ nghĩa Mác Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa
vào nhân dân, vì lợi ích của
nhân dân phù hợp với thực tiễn,
luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
Bốn là, được lối đúng
đắn của Đảng là nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp
đổi mới.
Tóm lại, việc nhận thức
đúng mối quan hệ biện chứng
giữa nguyên nhân và kết quả,
xác định được mức độ vai trò
của những nguyên nhân ấy đối

với những thất bại cũng những
thành tựu trong công cuộc đổi
mới xây dựng đất nước để có
những biện pháp khắc phục,
những tác động thích hợp nhằm
đạt được những mục tiêu mong
muốn là những nguyên tắc đảm
bảo sự thành công của Đảng và
nhà nước ta cũng như của từng
Đảng viên, công nhân viên
chức .
4

×