Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Ôn thi triết học có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.73 KB, 36 trang )

Câu 1 : Nội dung của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất vời trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Vận dụng để phân tích khuyết điểm, yếu kém trong việc nhận thức và vận dụng quy luật này trong thời kỳ
trước đổi mới và để phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta “Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện
đại hóa
1
, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
2
, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất


3
, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
4
theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” (VK 9-Tr 87)
Trả lời
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và một trong những quy luật đó
là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất vời trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên cơ sở
nghiên cứu, vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lên nin về quy luật này trong định hướng đổi mới, Đảng
ta đã xác định : “Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước
ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây chính là sự vận dụng quy luật đúng đắn về sự phù hợp
của QHSX với trình độ phát triển của LLSX vào sự phát triển nền kinh tế ở nước ta. Để làm rõ luận điểm trên,
sau đây chúng ta sẽ đi sâu phân tích về nội dung của quy luật quan hệ sản xuất là lực lượng sản xuất và sự vận
dụng của Đảng ta trong quá trình cách mạng Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới.
Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng : phương thức sản xuất là cách thức con người tiến
hành sản xuất vật chất của con người trong giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức SX là chỉnh thể thống
nhất bởi 2 mặt của quá trình sản xuất vật chất : đó là lực lượng SX và quan hệ SX.
Lực lượng sản xuất là biểu hiện quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp thống nhất giữa người lao động với tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao


động) để tạo thành sức sản xuất xã hội. Ngày nay, khi khoa học phát triển mạnh mẽ và nó được vận dụng
nhanh chóng, rộng rãi, trực tiếp vào trong quá trình sản xuất thì cùng với công nghệ hiện đại nó đã trở thành
một thành tố mới trong lực lượng sản xuất, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của lực lượng sản xuất của nhân loại
và quy định nội dung mới của sức sản xuất xã hội trong thời đại ngày nay. Chính vì lẽ đó mà Đảng ta quan
niệm “cùng với giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ phải được coi là quốc sách hàng đầu “.
Quan hệ sản xuất dùng để chỉ quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất
của xã hội. Nó là một chỉnh thể thống nhất của 3 quan hệ : mối quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu
đối với tư liệu sản xuất (gọi tắt là quan hệ sở hữu), quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý
sản xuất vào trao đổi cho nhau trong sản xuất (gọi tắt là quan hệ quản lý), quan hệ giữa người với người trong
việc phân phối sản phẩm xã hội (gọi tắt là quan hệ phân phối). Trong chỉnh thể quan hệ sản xuất, quan hệ sở
hữu giữ vai trò quyết định đối với các quan hệ khác, nó chính là mặt pháp lý của quan hệ sản xuất, nhưng quan
hệ quản lý và phân phối cũng rất quan trọng, vai trò của nó biểu hiện ở chỗ nó có thể củng cố quan hệ sở hữu
nhưng cũng có thể làm xói mòn, đổ vỡ quan hệ sở hữu. Vì vậy, nhận thức quan hệ sản xuất trong quan hệ với
lực lượng sản xuất phải thấy rõ tính chỉnh thể của nó, không được có quan điểm thiếu đồng bộ.
Khi chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng : phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội thi điều đó có nghĩa là phải nhận thức sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ SX. Mối quan hệ cơ bản và biện chứng giữa 2 yếu tố này hình thành nên quy luật kinh tế - xã hội tất
yếu, phổ biến, quyết định sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quy luật “về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX thể hiện trước hết ở vai trò quyết
định của LLSX đối với QHSX. Điều này thể hiện qua việc lực lượng sản xuất ở trình độ và tính chất nào thì nó
yêu cầu tất yếu một kiểu quan hệ sản xuất thích ứng phù hợp với nó mà không đòi hỏi cao hơn hoặc thấp hơn
1
1
nó. Mối quan hệ sản xuất chỉ tồn tại chỉ hình thành và tồn tại trên cơ sở một lực lượng sản xuất nhất định và
chịu sự quyết định của lực lượng sản xuất ấy. Điều đó cũng có nghĩa là quan hệ quan hệ sản xuất mang tính
khách quan, do vậy, con người không có quyền tự do lựa chọn quan hệ sản xuất theo ý muốn chủ quan của
mình.Ví dụ : nếu lực lượng sản xuất ở trình độ thủ công thì nó chỉ đòi hỏi quan hệ sản xuất cá thể, tư hữu, tự
cung tự cấp, tự quản lý theo sản xuất nhỏ. Nhưng nếu lực lượng sản xuất ở trình độ cơ khí hóa, tính chất xã hội
hóa cao (do dây chuyền công nghệ khép kín, có sự chuyên môn hóa cao) thì nó đòi hỏi tất nhiên phải có hình

thức quan hệ sản xuất mang tính xã hội hóa cao thì quá trình sản xuất mới trôi chảy được. đương nhiên là
quan hệ SX có đáp ứng đúng đòi hỏi của lực lượng sản xuất hay không thì còn do nhiều nguyên nhân từ phía
bản thân của quan hệ sản xuất.
Ở đây cần hiểu rằng xác định lực lượng sản xuất ở trình độ nào để xem xét quan hệ sản xuất phù hợp
với nó chỉ là tương đối và lực lượng sản xuất luôn ở trạng thái vận động phát triển liên tục. Trong thực tiễn sản
xuất thường không xuất hiện sự không trùng khớp giữa đòi hỏi của lực lượng sản xuất và sự đáp ứng của quan
hệ sản xuất, điều đó là do sự can thiệp của chủ thể trái với tính tất yếu kinh tế. Song tính tất yếu kinh tế bao
giờ cũng tự vạch đường đi cho mình, do đó con người phải biết phát hiện và giải quyết những xung đột đó để
đưa sản xuất phát triển tiến lên.
Mặt khác, trong sự vận động biến đổi không ngừng của sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất là yếu tố
biến đổi trước, , vừa mang tính cách mạng, vừa mang tính chất kế tục lịch sử, năng động hơn quan hệ sản xuất
do phải thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và tiên tục của con người. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi
hỏi quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi phát triển theo để phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất.
Mỗi khi xuất hiện quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất thì cũng có nghĩa là phương thức sản
xuất mới ra đời thay thế cho phương thức sản xuất cũ, thúc đẩy xã hội tiến lên 1 bước cao hơn. Ăng Ghen đã
từng khẳng định “Suy đến cùng thì mọi sự biến đổi từ chế độ chiếm hữu này sang chế độ chiếm hữu khác đều
là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”. Mác cũng khẳng định “do có được những
lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản
xuất cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả các quan hệ xã hội của mình.
Ngày nay, trên thế giới khi mà lực lượng sản xuất đã mang tính quốc tế rộng lớn và sâu sắc thì tất yếu
đòi hỏi trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia, dân tộc cũng phải phát triển theo xu hướng đó. Việc
hình thành các khối liên kết kinh tế quốc tế và khu vực, các hình thức công tất yếu đa quốc gia, xuyên quốc gia
hay việc điều chỉnh ở những phạm vi, mức độ nhất định của quan hệ sản xuất trong các nước tư bản phát triển
đều thể hiện đúng yêu cầu của quy luật quan hệ SX phù hợp với trình độ của lực lượng SX trong điều kiện quốc
tế hiện nay.
Mặc dù khẳng định lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định đối với quan hệ SX, Triết học Mác Lênin
cũng chỉ ra rằng quan hệ SX không hoàn toàn phụ thuộc một cách thụ động vào lực lượng SX, nó có vai trò độc
lập tương đối trong sự tác động trở lại lực lượng SX. Sự tác động của quan hệ SX đối với lực lượng SX diễn ra
theo 2 hướng : phù hợp hoặc không phù hợp, điều này do quan hệ SX mang tính ổn định tương đối và biến đổi
chậm hơn so với lực lượng SX, mặt khác còn do trình độ năng lực của chủ thể SX, do quan hệ lịch sử giai cấp

chi phối
Sự tác động của quan hệ SX gọi là phù hợp với lực lượng SX nghĩa là quan hệ sản xuất sau khi hình
thành và tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất và sau đó nó có vai trò tạo ra sự liên
kết, kết hợp có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, làm cho tất cả các yếu tố ấy phát
huy tất cả tiềm năng, sức mạnh vốn có của nó, nhờ vậy tiềm năng của người lao động và tư liệu SX được khai
thác tốt hơn, tạo ra năng suất lao động cao hơn. Với ý nghĩa đó, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển, là địa
bàn rộng lớn, là động lực phát triển thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ngược lại, nếu quan hệ SX tác động không phù hợp với đòi hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất thì nó sẽ
kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng.
2
2
Biểu hiện của sự không phù hợp thể hiện ở 2 khía cạnh : một là khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu so với
trình độ mới của lực lượng sản xuất, hai là trường hợp chú thể dùng ý chí chủ quan của mình áp đặt một “mô
hình” quan hệ sản xuất”, “cao hơn” trình độ lực lượng sản xuất. Cả 2 trường hợp này đều kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất, nhưng không có nghĩa là lực lượng sản xuất đứng im tại chổ với lực lượng SX thì
nó sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại đối với lực lượng sản xuất. Tình hình đó làm cho SX có thể bị đình đốn, có
khi dẫn đến khủng hoảng KT-XH nghiêm trọng
Tóm lại, thực chất của quy luật là lưc lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ SX phải luôn phù hợp với tính
chất và trình độ của LLSX. Song do nhiều yếu tố bản thân quan hệ SX chi phối cho nên QHSX phù hợp hoặc
không phù hợp với LLSX. Do vậy, hiểu phù hợp ở đây là bao trùm mâu thuẫn, sự giải quyết mâu thuẫn giữa
LLSX và QHSX là thường xuyên và theo yêu cầu phù hợp, thúc đẩy LLSX phát triển : đó chính là nguồn động lực
của sự phát triển phương thức SX, các hình thái KT-XH.
Đảng ta đã nhận thức và vận dụng quy luật này như thế nào ? Ở đây chúng ta có thể tóm tắt thành 2
thời kỳ lớn : thời kỳ trước Đại hội 6 (Đại hội đổi mới toàn diện của Đảng) và thời kỳ sau Đại hội 6 đến nay
Trong thời kỳ trước Đại hội 6, Đảng ta đã có những sai lầm thiếu sót trong việc nhận thức và vận dụng
quy luật XH, đặc biệt là sai lầm trong việc nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ SX phù hợp với trình độ của
lực lượng SX.
Những sai lầm thiếu sót ấy được biểu hiện tập trung trong quan điểm chỉ đạo và chính sách cải tạo
quan hệ SX cũ, xây dựng quan hệ SX mới. Do nóng vội, nhận thức chưa đúng quy luật khách quan, Đảng ta đã
sai lầm khi cho rằng đối với một nước lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp như nước ta để tiến lên

chủ nghĩa xã hội thì QHSX XHCN tiên tiến có thể đi trước mở đường cho LLSX lạc hậu phát triển nhanh lên hiện
đại. Từ nhận thức sai lầm này, thực tế đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn này chỉ chú ý
đến việc xây dựng quan hệ SX mới mà không quan tâm đến việc phát triển lực lượng sản xuất, do đó đã kéo
dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ công, đầu tư công nghiệp nặng không đúng hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan,
không chú ý đầu tư chiều sâu mà chỉ đầu tư chiều rộng, không phát huy tiềm năng vốn có về tư liệu sản xuất
(đất đai), lợi thế tự nhiên từng vùng … lực lượng sản xuất đặc thù (đa thành phần), phương thức sản xuất vẫn
ở trình độ thủ công, cơ cấu tỷ trọng nông nghiệp trong GDP còn cao, không phát huy và khôi phục ngành nghề
truyền thống
Trong quan hệ sản xuất, Đảng và Nhà nước ta đã đưa QHSX lên quá cao so với trình độ lạc hậu của
LLSX ở nước ta làm cho LLSX không phát triển được và SX bị đình trệ. Văn kiện Đại hội VI đánh giá như sau:
“Trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu KT nhiều thành phần ở nước
ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài nên đã nóng vội muốn nhanh chóng xóa bỏ KT tư bản tư nhân,
KT cá thể để sớm có KT XHCN chiếm ưu thế tuyệt đối. Việc xác lập quan hệ SX còn không đồng bộ và có yếu tố
đẩy quá xa, vượt lên trên trình độ của LLSX thể hiện ở chỗ : không đồng bộ trong các ngành, trong cơ cấu kinh
tế, trong bản thân 3 mặt của quan hệ SX. Trong việc tổ chức hình thức sản xuất, chúng ta đã có xu hướng tổ
chức quá nhanh mô hình sản xuất, tập đoàn, hợp tác xã … với quy mô lớn mà không tính đến khả năng trang bị
kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ. “Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối”.
Mặt khác chúng ta cũng không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Do đó
không chấp nhận kinh tế thị trường, đa dạng hoá hình thức sở hữu, quản lý phân phối. Không thấy được đòi
hỏi của lực lượng SX đang ở trong tình trạng đan xen những trình độ, tính chất khác nhau để mà xác lập quan
hệ SX. Bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng lại không thấy tính chất quá độ là đan xen tồn tại lâu dài của cả lực
lượng SX, quan hệ SX và kiến trúc thượng tầng. Một sai lầm thiếu sót khác là ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản
lý kinh tế quan liêu bao cấp vào quan hệ SX vốn đã xác lập không phù hợp với lực lượng SX, do đó cơ chế này
đã làm ngưng động tính sáng tạo của người lao động, kìm hãm LLSX và đã coi thường tính tất yếu kinh tế của
SX nhỏ đang chuyển sang SX lớn, nghĩa là thông qua SX hàng hoá thị trường mới đi lên được
3
3
Cương lĩnh xây dựng đất nước đã nêu rõ : “Trong cách mạng XHCN Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối xác định đúng mục tiêu và phương hướng XHCN. Nhưng Đảng đã

phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, nóng vội cải tạo XHCN, xóa bỏ ngay nền KT
nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu, cơ chế quản lý
KT tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác
tư tưởng và tổ chức các bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng”.
Từ những sai lầm đó đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, lạm phát đạt đến mức
khủng khiếp 774% (những năm 80) sản xuất bị đình trệ. Qua thực tiễn cuộc sống, Đảng ta đã rút ra được
những bài học thấm thía là không thể nóng vội, làm trái với quy luật khách quan.
Để khắc phục những sai lầm trên và vận dụng hiệu quả quy luật này, Đại hội 6 của Đảng đã đề xuất
quan điểm đổi mới toàn diện, trong đó đặc biệt chú ý đổi mới nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan,
trong đó quy luật quan hệ SX phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng SX. Quan điểm ấy đã được ĐH IX
tiếp tục khẳng định “Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (VK 9-Tr 87)
Như vậy, từ Đại hội VI đến nay, Đảng đã căn cứ vào thực trạng lực lượng sản xuất hiện có của đất
nước ta đối chiếu với lý luận quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất để xây dựng chế độ quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta. Thực tiễn cho thấy hệ thống trình độ lực lượng sản xuất nước ta
nhìn chung còn thấp, sản xuất nhỏ ở nước ta còn phổ biến. Do đó để bắt đầu xây dựng một chế độ xã hội mới
nhất thiết bắt đầu từ việc đẩy mạnh lực lượng sản xuất phát triển trước rồi sau đó mới phát triển quan hệ sản
xuất theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, tuy nhiên chúng ta không chờ quan hệ sản xuất phát triển một
cách tự nhiên mà tạo điều kiện cho ra đời quan hệ sản xuất mới phù hợp
Cái thiếu lớn nhất của đất nước ta kề từ khi bước vào thời kỳ quá độ hiện nay là thiếu một lực lượng
SX phát triển, hiện đại, đủ đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Việc phát triển lực lượng
SX chỉ có thế thực hiện được khi chúng ta tăng cường tính khoa học và hiện đại vào trong lực lượng sản xuất
hiện tại, vì vậy Đảng đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa và xem đây là trọng tâm của suốt
thời kỳ quá độ. Bởi vì CNH thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, đó là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế gắn đổi mới căn bản về công nghệ, chuyển từ nền SX nhỏ thủ công sang nền SX lớn có trình
độ chuyên môn hóa và công nghiệp hóa cao, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và lâu bền cho
nền KT quốc dân. Với con đường CNH-HĐH đất nước và chính sách mở cửa về đối ngoại, chúng ta có thể tận
dụng mọi khả năng để tiếp cận, học tập những thành tựu trên thế giới nhằm đạt được trình độ tiên tiến, hiện
đại về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, từng bước phát triển nền

kinh tế tri thức. Văn kiện Đại hội Đảng lần 9 cũng đã chỉ rõ nước ta đang từng bước xây dựng và phát triển nền
kinh tế tri thức : ”Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên
tiến, đặc biệt là nghệ công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở
mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh
tế trí thức” Trang 91 – VK ĐH Đảng lần IX). Việc phát huy nguồn lực trí tuê và sức mạnh của lực lượng SX được
thực hiện song song với việc coi trọng phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ xem đây là nền tảng
và là động lực cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Song song đó, do toàn cầu hóa kinh tế đang là xu thế tất yếu trong điều kiện của cuộc Cách mạng hiện
đại ngày nay nên Đảng đã xác định phải kết hợp chặt chẽ việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mà mục tiêu
trước mắt là hội nhập APTA và là thành viên chính thức của WTO với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
theo những phương hướng “độc lập, tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh,
có mức tích lũy ngày càng cao với .từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh, kết cấu
hạ tầng ngày càng hiện đại và có một ngành công nghiệp nặng then chốt, có năng lực nội sinh về KH-CN ”
4
4
Về quan hệ SX. Đại hội VII đã nêu : để phù hợp với sự phát triển của LLSX, chúng ta phải
thiết lập từng bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng đã đề ra chủ trương : “Nếu CNH, HĐH
tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ XH mới thì việc phát triển nền KT nhiều thành phần chính là để
xây dựng hệ thống QHSX phù hợp”. Các văn kiện Đại hội Đảng cũng đã khẳng định các thành
phần kinh tế là những bộ phận cấu thành phần kinh tế thống nhất, được phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh với nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành phần kinh tế Nhà
nước phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển. Chủ trương này đã
khơi dậy tiềm năng SX , khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản
xuất kinh doanh, thúc đẩy SX phát triển. Văn kiện ĐH IX còn xác định “Phát triển LLSX hiện đại
gắn liền với xây dựng QHSX mới phù hợp cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối”. Đảng ta đã
thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu và các loại hình tổ chức kinh tế gắn liền với các
hình thức sở hữu đó do lịch sử để lại, phù hợp với từng thành phần kinh tế. Về quản lý văn kiện
Đại hội VI và Đại hội IX cũng đã nêu chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng

XHCN có sự quản lý của Nhà nước là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ. Việc quản lý
nền kinh tế của Nhà nước phải bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và
sử dụng cơ chế thị trường. Về phân phối, Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh “thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn
liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”
Tóm lại, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất cùng các hệ thống, các quy luật KT-XH khác của nền kinh tế hàng hoá thị trường dưới sự lãnh
đạo của Đảng, quản lý Nhà nước theo định hướng XHCN, nhất định chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ văn minh. Những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được sau gần
19 năm đổi mới là những minh chứng xác thực nhất cho điều đó.
5
5
Câu 2 : Nội dung của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất vời trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Vận dụng để phân tích khuyết điểm, yếu kém trong việc nhận thức và vận dụng quy
luật này trong thời kỳ trước đổi mới và để phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta
“Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất trên cả 3 mặt : sở
hữu, quản lý và phân phối” (VK 9-Tr 87)
Trả lời
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và một trong những
quy luật đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất vời trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lên nin về quy luật này, Đảng ta
đã xác định : “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất trên cả
3 mặt : sở hữu, quản lý, phân phối” ”. Đây chính là sự vận dụng đúng đắn về sự phù hợp của QHSX
với trình độ phát triển của LLSX vào sự phát triển nền kinh tế ở nước ta. Để làm rõ luận điểm trên, sau
đây chúng ta sẽ đi sâu phân tích về nội dung của quy luật quan hệ sản xuất là lực lượng sản xuất và sự
vận dụng của Đảng ta trong quá trình cách mạng Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng : phương thức sản xuất là cách thức con người tiến
hành sản xuất vật chất của con người trong giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức SX là chỉnh thể
thống nhất bởi 2 mặt của quá trình sản xuất vật chất : đó là lực lượng SX và quan hệ SX.

Lực lượng sản xuất là biểu hiện quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất
vật chất. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp thống nhất giữa người lao động với tư liệu sản xuất (trước
hết là công cụ lao động) để tạo thành sức sản xuất xã hội. Ngày nay, khi khoa học phát triển mạnh mẽ
và nó được vận dụng nhanh chóng, rộng rãi, trực tiếp vào trong quá trình sản xuất thì cùng với công
nghệ hiện đại nó đã trở thành một thành tố mới trong lực lượng sản xuất, làm thay đổi sâu sắc bộ
mặt của lực lượng sản xuất của nhân loại và quy định nội dung mới của sức sản xuất xã hội trong thời
đại ngày nay. Chính vì lẽ đó mà Đảng ta quan niệm “cùng với giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ
phải được coi là quốc sách hàng đầu “.
Quan hệ sản xuất dùng để chỉ quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất
vật chất của xã hội. Nó là một chỉnh thể thống nhất của 3 quan hệ : mối quan hệ giữa người với người
trong việc sở hữu đối với tư liệu sản xuất (gọi tắt là quan hệ sở hữu), quan hệ giữa người với người
trong việc tổ chức quản lý sản xuất vào trao đổi cho nhau trong sản xuất (gọi tắt là quan hệ quản lý),
quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản phẩm xã hội (gọi tắt là quan hệ phân phối).
Trong chỉnh thể quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định đối với các quan hệ khác, nó
chính là mặt pháp lý của quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ quản lý và phân phối cũng rất quan trọng,
vai trò của nó biểu hiện ở chỗ nó có thể củng cố quan hệ sở hữu nhưng cũng có thể làm xói mòn, đổ
vỡ quan hệ sở hữu. Vì vậy, nhận thức quan hệ sản xuất trong quan hệ với lực lượng sản xuất phải thấy
rõ tính chỉnh thể của nó, không được có quan điểm thiếu đồng bộ.
Khi chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng : phương thức sản xuất là nhân tố quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội thi điều đó có nghĩa là phải nhận thức sự tác động biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ SX. Mối quan hệ cơ bản và biện chứng giữa 2 yếu tố này hình thành
nên quy luật kinh tế - xã hội tất yếu, phổ biến, quyết định sự vận động và phát triển của các hình thái
6
6
kinh tế - xã hội. Đó là quy luật “về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX thể hiện trước hết ở vai trò
quyết định của LLSX đối với QHSX. Điều này thể hiện qua việc lực lượng sản xuất ở trình độ và tính
chất nào thì nó yêu cầu tất yếu một kiểu quan hệ sản xuất thích ứng phù hợp với nó mà không đòi
hỏi cao hơn hoặc thấp hơn nó. Mối quan hệ sản xuất chỉ tồn tại chỉ hình thành và tồn tại trên cơ sở

một lực lượng sản xuất nhất định và chịu sự quyết định của lực lượng sản xuất ấy. Điều đó cũng có
nghĩa là quan hệ quan hệ sản xuất mang tính khách quan, do vậy, con người không có quyền tự do lựa
chọn quan hệ sản xuất theo ý muốn chủ quan của mình.Ví dụ : nếu lực lượng sản xuất ở trình độ thủ
công thì nó chỉ đòi hỏi quan hệ sản xuất cá thể, tư hữu, tự cung tự cấp, tự quản lý theo sản xuất nhỏ.
Nhưng nếu lực lượng sản xuất ở trình độ cơ khí hóa, tính chất xã hội hóa cao (do dây chuyền công
nghệ khép kín, có sự chuyên môn hóa cao) thì nó đòi hỏi tất nhiên phải có hình thức quan hệ sản xuất
mang tính xã hội hóa cao thì quá trình sản xuất mới trôi chảy được. đương nhiên là quan hệ SX có
đáp ứng đúng đòi hỏi của lực lượng sản xuất hay không thì còn do nhiều nguyên nhân từ phía bản
thân của quan hệ sản xuất.
Ở đây cần hiểu rằng xác định lực lượng sản xuất ở trình độ nào để xem xét quan hệ sản xuất
phù hợp với nó chỉ là tương đối và lực lượng sản xuất luôn ở trạng thái vận động phát triển liên tục.
Trong thực tiễn sản xuất thường không xuất hiện sự không trùng khớp giữa đòi hỏi của lực lượng sản
xuất và sự đáp ứng của quan hệ sản xuất, điều đó là do sự can thiệp của chủ thể trái với tính tất yếu
kinh tế. Song tính tất yếu kinh tế bao giờ cũng tự vạch đường đi cho mình, do đó con người phải biết
phát hiện và giải quyết những xung đột đó để đưa sản xuất phát triển tiến lên.
Mặt khác, trong sự vận động biến đổi không ngừng của sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất
là yếu tố biến đổi trước, , vừa mang tính cách mạng, vừa mang tính chất kế tục lịch sử, năng động hơn
quan hệ sản xuất do phải thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và tiên tục của con người. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi phát triển theo để phù hợp với
trình độ mới của lực lượng sản xuất. Mỗi khi xuất hiện quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng
sản xuất thì cũng có nghĩa là phương thức sản xuất mới ra đời thay thế cho phương thức sản xuất cũ,
thúc đẩy xã hội tiến lên 1 bước cao hơn. Ăng Ghen đã từng khẳng định “Suy đến cùng thì mọi sự biến
đổi từ chế độ chiếm hữu này sang chế độ chiếm hữu khác đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên
những lực lượng sản xuất mới”. Mác cũng khẳng định “do có được những lực lượng sản xuất mới,
loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất cách kiếm
sống của mình, loài người thay đổi tất cả các quan hệ xã hội của mình.
Ngày nay, trên thế giới khi mà lực lượng sản xuất đã mang tính quốc tế rộng lớn và sâu sắc
thì tất yếu đòi hỏi trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia, dân tộc cũng phải phát triển theo
xu hướng đó. Việc hình thành các khối liên kết kinh tế quốc tế và khu vực, các hình thức công tất yếu
đa quốc gia, xuyên quốc gia hay việc điều chỉnh ở những phạm vi, mức độ nhất định của quan hệ sản

xuất trong các nước tư bản phát triển đều thể hiện đúng yêu cầu của quy luật quan hệ SX phù hợp với
trình độ của lực lượng SX trong điều kiện quốc tế hiện nay.
Mặc dù khẳng định lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định đối với quan hệ SX, Triết học Mác
Lênin cũng chỉ ra rằng quan hệ SX không hoàn toàn phụ thuộc một cách thụ động vào lực lượng SX, nó
có vai trò độc lập tương đối trong sự tác động trở lại lực lượng SX. Sự tác động của quan hệ SX đối với
lực lượng SX diễn ra theo 2 hướng : phù hợp hoặc không phù hợp, điều này do quan hệ SX mang tính
ổn định tương đối và biến đổi chậm hơn so với lực lượng SX, mặt khác còn do trình độ năng lực của
chủ thể SX, do quan hệ lịch sử giai cấp chi phối
7
7
Sự tác động của quan hệ SX gọi là phù hợp với lực lượng SX nghĩa là quan hệ sản xuất sau khi
hình thành và tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất và sau đó nó có vai trò
tạo ra sự liên kết, kết hợp có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, làm cho tất
cả các yếu tố ấy phát huy tất cả tiềm năng, sức mạnh vốn có của nó, nhờ vậy tiềm năng của người lao
động và tư liệu SX được khai thác tốt hơn, tạo ra năng suất lao động cao hơn. Với ý nghĩa đó, quan hệ
sản xuất là hình thức phát triển, là địa bàn rộng lớn, là động lực phát triển thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Ngược lại, nếu quan hệ SX tác động không phù hợp với đòi hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất
thì nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến những hậu quả kinh tế xã
hội nghiêm trọng. Biểu hiện của sự không phù hợp thể hiện ở 2 khía cạnh : một là khi quan hệ sản
xuất đã lỗi thời, lạc hậu so với trình độ mới của lực lượng sản xuất, hai là trường hợp chú thể dùng ý
chí chủ quan của mình áp đặt một “mô hình” quan hệ sản xuất”, “cao hơn” trình độ lực lượng sản
xuất. Cả 2 trường hợp này đều kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng không có nghĩa là
lực lượng sản xuất đứng im tại chổ với lực lượng SX thì nó sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại đối với lực
lượng sản xuất. Tình hình đó làm cho SX có thể bị đình đốn, có khi dẫn đến khủng hoảng KT-XH
nghiêm trọng
Tóm lại, thực chất của quy luật là lưc lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ SX phải luôn phù hợp
với tính chất và trình độ của LLSX. Song do nhiều yếu tố bản thân quan hệ SX chi phối cho nên QHSX
phù hợp hoặc không phù hợp với LLSX. Do vậy, hiểu phù hợp ở đây là bao trùm mâu thuẫn, sự giải
quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là thường xuyên và theo yêu cầu phù hợp, thúc đẩy LLSX phát

triển : đó chính là nguồn động lực của sự phát triển phương thức SX, các hình thái KT-XH.
Đảng ta đã nhận thức và vận dụng quy luật này như thế nào ? Ở đây chúng ta có thể tóm tắt
thành 2 thời kỳ lớn : thời kỳ trước Đại hội 6 (Đại hội đổi mới toàn diện của Đảng) và thời kỳ sau Đại
hội 6 đến nay
Trong thời kỳ trước Đại hội 6, Đảng ta đã có những sai lầm thiếu sót trong việc nhận thức và
vận dụng quy luật XH, đặc biệt là sai lầm trong việc nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ SX phù
hợp với trình độ của lực lượng SX.
Những sai lầm thiếu sót ấy được biểu hiện tập trung trong quan điểm chỉ đạo và chính sách
cải tạo quan hệ SX cũ, xây dựng quan hệ SX mới. Do nóng vội, nhận thức chưa đúng quy luật khách
quan, Đảng ta đã sai lầm khi cho rằng đối với một nước lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp
như nước ta để tiến lên chủ nghĩa xã hội thì QHSX XHCN tiên tiến có thể đi trước mở đường cho LLSX
lạc hậu phát triển nhanh lên hiện đại. Từ quan điểm sai lầm này, thực tế đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta giai đoạn này chỉ chú ý đến việc xây dựng quan hệ SX mới mà không quan tâm
đến việc phát triển lực lượng sản xuất, do đó đã kéo dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ công, đầu tư
công nghiệp nặng không đúng hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan, không chú ý đầu tư chiều sâu mà chỉ
đầu tư chiều rộng.
Trong quan hệ sản xuất, Đảng và Nhà nước ta đã đưa QHSX lên quá cao so với trình độ lạc
hậu của LLSX ở nước ta làm cho LLSX không phát triển được và SX bị đình trệ. Văn kiện Đại hội VI đánh
giá như sau: “Trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu KT nhiều
thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài nên đã nóng vội muốn nhanh
chóng xóa bỏ KT tư bản tư nhân, KT cá thể để sớm có KT XHCN chiếm ưu thế tuyệt đối. Việc xác lập
quan hệ SX còn không đồng bộ và có yếu tố đẩy quá xa, vượt lên trên trình độ của LLSX thể hiện ở chỗ
: không đồng bộ trong các ngành, trong cơ cấu kinh tế, trong bản thân 3 mặt của quan hệ SX. Trong
8
8
việc tổ chức hình thức sản xuất, chúng ta đã có xu hướng tổ chức quá nhanh mô hình sản xuất, tập
đoàn, hợp tác xã … với quy mô lớn mà không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và
năng lực của cán bộ. “Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối”. Mặt khác
chúng ta cũng không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Do đó

không chấp nhận kinh tế thị trường, đa dạng hoá hình thức sở hữu, quản lý phân phối. Không thấy
được đòi hỏi của lực lượng SX đang ở trong tình trạng đan xen những trình độ, tính chất khác nhau để
mà xác lập quan hệ SX. Bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng lại không thấy tính chất quá độ là đan xen tồn
tại lâu dài của cả lực lượng SX, quan hệ SX và kiến trúc thượng tầng. Một sai lầm thiếu sót khác là ta
đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp vào quan hệ SX vốn đã xác lập không phù
hợp với lực lượng SX, do đó cơ chế này đã làm ngưng động tính sáng tạo của người lao động, kìm hãm
LLSX và đã coi thường tính tất yếu kinh tế của SX nhỏ đang chuyển sang SX lớn, nghĩa là thông qua SX
hàng hoá thị trường mới đi lên được
Cương lĩnh xây dựng đất nước đã nêu rõ : “Trong cách mạng XHCN Đảng ta đã có nhiều cố
gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối xác định đúng mục tiêu và phương hướng XHCN. Nhưng
Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, nóng vội cải tạo XHCN, xóa
bỏ ngay nền KT nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì
quá lâu, cơ chế quản lý KT tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá
cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác tư tưởng và tổ chức các bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng”.
Từ những sai lầm đó đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, lạm phát đạt đến
mức khủng khiếp 774%, sản xuất bị đình trệ. Qua thực tiễn cuộc sống, Đảng ta đã rút ra được những
bài học thấm thía là không thể nóng vội, làm trái với quy luật khách quan.
Để khắc phục những sai lầm trên và vận dụng hiệu quả quy luật này, Đại hội 6 của Đảng đã
đề xuất quan điểm đổi mới toàn diện, trong đó đặc biệt chú ý đổi mới nhận thức và vận dụng các quy
luật khách quan, trong đó quy luật quan hệ SX phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng SX. Quan
điểm ấy đã được ĐH IX tiếp tục khẳng định “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý, phân phối” ”
Như vậy, từ Đại hội VI đến nay, Đảng đã căn cứ vào thực trạng lực lượng sản xuất hiện có của
đất nước ta đối chiếu với lý luận quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất để xây dựng chế độ quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta. Thực tiễn cho thấy hệ thống trình độ lực
lượng sản xuất nước ta nhìn chung còn thấp, sản xuất nhỏ ở nước ta còn phổ biến. Do đó để bắt đầu
xây dựng một chế độ xã hội mới nhất thiết bắt đầu từ việc đẩy mạnh lực lượng sản xuất phát triển
trước rồi sau đó mới phát triển quan hệ sản xuất theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, tuy nhiên
chúng ta không chờ quan hệ sản xuất phát triển một cách tự nhiên mà tạo điều kiện cho ra đời quan
hệ sản xuất mới phù hợp

Việc phát triển lực lượng SX chỉ có thế thực hiện được khi chúng ta tăng cường tính khoa học
và hiện đại vào trong lực lượng sản xuất hiện tại, vì vậy Đảng đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp
hóa hiện đại hóa và xem đây là trọng tâm của suốt thời kỳ quá độ. Văn kiện Đại hội Đảng lần 9 cũng
đã chỉ rõ nước ta quá trình từng bước xây dựng và phát triển lực lượng SX là : ”Phát huy những lợi thế
của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là nghệ công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ
biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế trí thức.
9
9
Về quan hệ SX. Đại hội VII đã nêu : để phù hợp với sự phát triển của LLSX,
chúng ta phải thiết lập từng bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội VIII của
Đảng đã đề ra chủ trương : “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ XH mới
thì việc phát triển nền KT nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù
hợp”. Các văn kiện Đại hội Đảng cũng đã khẳng định các thành phần kinh tế là những bộ
phận cấu thành phần kinh tế thống nhất, được phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh với nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành phần kinh tế Nhà nước phải
giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển. Chủ trương này đã khơi
dậy tiềm năng SX , khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong
sản xuất kinh doanh, thúc đẩy SX phát triển.
Với chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại
của nhiều hình thức sở hữu và các loại hình tổ chức kinh tế gắn liền với các hình thức sở
hữu đó do lịch sử để lại, phù hợp với từng thành phần kinh tế. Chính điều này đã tạo ra sức
sống động cho sự phát triển kinh tế, tạo ra được nhiều sản phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức
sản xuất và năng động vốn có của các thành phần kinh tế. Việc xây dựng chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất chủ yếu không thể xác lập nhanh chóng ồ ạt như trước đây mà phải là
một quá trình kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao …
Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN
là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng

xã hội.
Về quản lý, văn kiện Đại hội VI và Đại hội IX cũng đã nêu chính sách phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước là mô hình
kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ. Việc quản lý nền kinh tế của Nhà nước phải bằng
pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và sử dụng cơ chế thị trường, áp
dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”
Về phân phối, Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh “thực hiện phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh
tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Thực tế cho thấy với sự đổi mới trên phù hợp với quy luật giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất đã gắn kết các điều kiện sản xuất lại với nhau tạo ra năng suất cao,
các ngành nghề truyền thống khởi sắc, phát triển rộng và khá mạnh, nền kinh tế phát triển
và đã đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng để từng bước phát triển một cách ổn định
và bền vững.
Tóm lại, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất cùng các hệ thống, các quy luật KT-XH khác của nền kinh tế hàng hoá thị trường
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước theo định hướng XHCN, nhất định chúng ta sẽ thực
hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ văn minh. Những thành tựu to lớn
mà chúng ta đã đạt được sau gần 19 năm đổi mới là những minh chứng xác thực nhất cho điều đó.
10
10
Câu 3 : Trình bày học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế xã hội. Vận dụng để phân tích những sai lầm khuyết điểm trong việc nhận thức và vận dụng học thuyết này
trong thời kỳ trước đổi mới và để phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội
trên tất cả lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế - xã hội có tính chất quá độ”. (VK9 – Tr85)
Bài làm
Học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở thế giới quan và là căn cứ khoa học cho Cách mạng XHCN trên thế giới nói chung và ở nước ta nói

riêng. Trong thực tế hiện nay, từ khi CNXH thế giới lâm vào thoái trào nhưng nước ta vẫn kiên trì khẳng định con đường phát triển đất nước là xây dựng CNXH , vận
dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã xác định : “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực là
một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính
chất quá độ”. (VK9 – Tr85). Để làm rõ luận điểm trên, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích học thuyết Mác Xít về hình thái kinh tế - xã hội và quá trình vận dụng của
Đảng ta trong thực tế nhằm tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH ở nước ta và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm Mác xít thì “hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiểu trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế - xã hội là sự khái quát dùng để chỉ xã hội trong một giai đoạn lịch sử
nhất định, nói cách khác nó là một nấc thang của lịch sử xã hội, là sự khái quát dùng để phân biệt giữa giai đoạn lịch sử này với giai đoạn lịch sử khác.
Cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội bao gồm 3 yếu tố cơ bản cấu thành đó là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
giữa các yếu tố cơ bản đó có quan hệ biện chứng với nhau tạo thành các quy luật cơ bản chi phối sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội và trở thành tiêu chuẩn khách quan khoa học cho việc phân loại xã hội.
Một trong những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của hình thái KT-XH là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất . Quy luật này chỉ ra rằng : lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất sau khi hình thành
và tồn tại nó có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất thể hiện qua việc trình độ lực lượng sản
xuất đang tồn tại đặt ra yêu cầu quan hệ sản xuất phải phù hợp với nó mà không đòi hỏi cao hơn hoặc thấp hơn nó. Song, quan hệ sản xuất không
hoàn toàn phù hợp một cách thụ động vào lực lượng sản xuất, nó có vai trò độc lập tương đối trong sự tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác
động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng : phù hợp hoặc không phù hợp. Quan hệ sản xuất tác động phù hợp với
lực lượng sản xuất, nghĩa là quan hệ sản xuất sau khi hình thành và tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu của lực lượng sản xuất và sau đó nó có
vai trò tạo ra sự liên kết, kết hợp có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, làm cho tất cả các yếu tố ấy phát huy tất cả tiềm năng,
sức mạnh vốn có của nó, nhờ vậy mà tạo ra năng suất lao động cao hơn. Hai là khi quan hệ sản xuất hình thành và tồn tại không phù hợp với đòi hỏi
tất yếu của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng.
Biểu hiện của sự không phù hợp thể hiện ở 2 khía cạnh : một là khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu so với trình độ mới của lực lượng sản xuất,
11
11
hai là trường hợp chú thể dùng ý chí chủ quan của mình áp đặt một “mô hình” quan hệ sản xuất”, “cao hơn” trình độ lực lượng sản xuất. Cả 2 trường
hợp này đều kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng không có nghĩa là lực lượng sản xuất đứng im tại chổ
Quy luật thứ hai chi phối sự vận động và phát triển của hình thái KT-XH là quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (quan hệ sản
xuất) và kiến trúc thượng tầng. Quy luật này khẳng định rằng cơ sở hạ tầng là quan hệ cơ bản quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng
tầng sinh ra từ cơ sở hạ tầng nhưng nó có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện

thực sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng qui định tính chất, cơ cấu và mục đích hoạt động của kiến trúc thượng tầng. Khi cơ sở hạ tầng
thay đổi thì kiến trúc thượng tầng phải thay đổi theo nhưng sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra khá lâu dài, một cách biện chứng. Sự tác
động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện qua vai trò định hướng chính trị cho hoạt động kinh tế theo yêu cầu mục đích của
giai cấp thống trị, mà trong đó Nhà nước là thiết chế quan trọng nhất khi tác động trở lại kinh tế. Kiến trúc thượng tầng cũng có nhiệm vụ bảo vệ và
phát triển cơ sở kinh tế đã sinh ra nó. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng có thể diễn ra 2 khả năng sau đây : một là phù hợp với
tính tất yếu kinh tế, với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất thì có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển; hai là do yếu kém và sai lầm của kiến trúc
thượng tầng tác động không phù hợp với quy luật kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển của đời sống kinh tế. Trong những trường hợp đặc biệt, kiến trúc
thượng tầng có thể tác động làm đảo lộn nhanh chóng cơ sở hạ tầng nhưng suy đến cùng thì kiến trúc thượng tầng vẫn bị kinh tế quyết định
Đấu tranh giai cấp cũng là một trong những động lực quan trọng của sự phát triển các hình thái KT-XH khi xã hội có giai cấp đối kháng. Khi
nghiên cứu phép biện chứng duy vật, nghiên cứu quy luật mâu thuẫn ta thấy rằng mâu thuẫn nói chung là nguồn gốc, động lực cho sự phát triển. Nói
cách khác, động lực phát triển của xã hội nằm ngay trong chính phương thức SX với việc giải quyết giữa LLSX và QHSX. Về mặt xã hội, mâu thuẫn
này là mâu thuẫn giai cấp giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho lực lượng SX tiến bộ, phát triển và một bên là giai cấp thống trị,
phản động đại diện cho QHSX lạc hậu đang kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất đấu tranh với nhau. Với ý nghĩa đó, đấu tranh giai cấp là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển, đồng thời là cũng là phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ SX. Tuy nhiên, trong
XH có giai cấp thì đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất mặc dù nó là động lực vô cùng quan trọng. Ngoài đấu tranh GC ra còn cò các
động lực khác mà vai trò vị trí của mỗi động lực như văn hóa, giáo dục, KHKT, tư tưởng đạo đức đều phát huy tác dụng trong từng giai đọan lịch sử
nhất định.
Trong đấu tranh giai cấp, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhà nước là một trong những yếu tố cấu thành của kiến trúc thượng
tầng, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là từ kinh tế, từ sự phát triển của LLSX, nguồn gốc trực tiếp về KT-XH dẫn đến sự ra đời
và tồn tại của nhà nước là do có chế dộ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Nhà nước là một tổ chức của quyền lực chính trị,
một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự XH, thực hiện những mục đích để
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Trong sự vận động và phát triển của các hình thái KT-XH thì Nhà nước có tác động rất lớn trong
cuộc cách mạng xã hội, thay thế một hình thái kinh tế xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội khác.
Học thuyết Mác cũng chỉ ra rằng động lực của sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội chính là hoạt động thực tiễn của con người dưới
tác động của các quy luật khách quan. Quá trình phát triển đó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Mác viết “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh
tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Phạm trù tự nhiên được dùng đi liền với từ “lịch sử” ở đây được đề cập ở góc độ tính tất yếu của sự vận
động phát triển lịch sử. Đó là sự phát triển vận động không ngừng của lịch sử xã hội từ thấp đến cao, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người hoặc bất cứ một lực lượng xã hội nào mà nó do các quy luật kinh tế - xã hội khách quan vốn có của bản thân xã hội quyết định mà trong đó
trước hết và cơ bản là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của sự phát triển xã hội chẳng
những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những hoàn

cảnh lịch sử cụ thể nhất định
12
12
Bên cạnh việc khẳng định sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, Mác cũng cho rằng không phải
quốc gia, dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có trong lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ
quan nhất định, một quốc gia, dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào đó để tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội
tiến bộ hơn. Đó cũng là quá trình lịch sử tự nhiên nhưng mang tính đặc thù, rút ngắn lịch sử. V.I.Lê-nin đã cũng đã nói con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau; điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo người, hình thức quá độ
trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; còn hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn,
phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - con đường từ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong quan niệm của V.I.Lê-
nin, tất cả các loại hình khác nhau của sự phát triển xã hội - phát triển tuần tự hay phát triển rút ngắn - đều phải tuân theo quy luật khách quan và
đều là con đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Phát triển rút ngắn đòi hỏi phải có những điều kiện khách quan và chủ quan mới có thể thực hiện
được.
Dựa vào các quy luật khác quan và học thuyết của Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta đã vận dụng những lý luận này vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo sự vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội thì chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là CNXH
là sự phát triển tất yếu lịch sử của CNTB. Đối với đất nước ta một quốc gia chưa trãi qua thời kỳ phát triển TBCN thì để đi tới CNXH, Đảng ta đã chọn lựa con đường
phát triển rút ngắn - hay nói theo cách của Lênin phát triển không phải trãi qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên do trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về quá trình “phát triển rút ngắn” chưa đầy đủ, toàn diện cộng với
bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội nên việc vận dụng “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” đã có nhiều sai lầm, muốn rút ngắn thật nhanh quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội nên đã “bỏ qua” quá giới hạn, vi phạm các quy luật khách quan khi muốn tạo ra những bước nhảy vọt về kinh tế trong khi điều kiện chưa cho phép.
Văn kiện ĐH Đảng lần VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều
chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết , Đại hội IV chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu
tiên”
Việc sai lầm do “bỏ qua những bước đi cần thiết” được thể hiện trong các chủ trương chính sách lớn của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới. Trước nhất đó là
việc bỏ qua bước trung gian quá độ kinh tế hàng hóa TBCN, phủ nhận các hình thức, bước đi mang tính quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn - nội dung mà trước
đây CNTB ra đời nó đã từng thể hiện. Chính vì vậy, việc phát triển lực lượng SX không được chú trọng , đã để kéo dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ công, đầu tư công
nghiệp nặng không đúng hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan không chú ý chiều sâu. Trong việc đề ra chủ trương, chính sách, Đảng và Nhà nước ta đã bỏ qua không chú
ý vận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, những quy luật của SX hàng hóa đang tồn tại khách quan vàp việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế.
Cũng trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước ta do chủ quan, nóng vội muốn cải tạo nhanh quan hệ SX nên đã áp đặt một mô hình quan hệ sản xuất “cao hơn”
trình độ lực lượng sản xuất. Nó thể hiện qua việc “nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN” để chỉ còn lại 2 thành phần kinh tế : quốc doanh và

tập thể. Trong việc tổ chức hình thức sản xuất, chúng ta đã có xu hướng tổ chức quá nhanh mô hình sản xuất, tập đoàn, hợp tác xã … với quy mô lớn mà không tính
đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ. Đồng thời việc xác lập quan hệ SX cũng không đồng bộ “về nội dung cải tạo, thường nhấn
13
13
mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối ”. Bên cạnh đó, việc duy trì quá
lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương, chính sách kinh tế đối ngoại khép kín
đã làm kìm hãm, phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sản xuất đình trệ, kinh tế không phát triển, lạm phát gia tăng. Mặt khác trong kiến trúc
thượng tầng, đã buông lỏng chuyên chính vô sản, bộ máy nhà nước nặng nề, nhiều tầng, nhiều nấc, cồng kềnh kém hiệu lực dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đã tự phê phán nghiêm túc về những sai lầm mắc phải, nhận thức lại quan niệm bỏ qua chế độ TBCN một cách
đúng đắn, đầy đủ hơn. Quan điểm đó đã được Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX bổ sung hoàn thiện hơn. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng
định “Quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN
“Điều này có nghĩa là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, chúng ta không thể để quan hệ sản xuất tư hữu thống trị, không để cho chính quyền rơi vào
tay tư sản, không được để mất vai trò lãnh đạo của Đảng, không được để Nhà nước mất vai trò quản lý kinh tế - xã hội, kinh tế Nhà nước mất vai trò
chủ đạo. Bên cạnh việc bỏ qua những nội dung trên, khi xây dựng mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng CNXH thì phải chủ động kế thừa biện
chứng những nhân tố hợp lý của cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của CNTB.
Về lộ trình đi lên CNXH, Đại hội IX cũng đã khẳng định : “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả lĩnh vực là
một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính
chất quá độ”. (VK9 – Tr85)
Như vậy, rõ ràng nhận thức lý luận của Đảng về quá trình quá độ đi lên CNXH đã xác định đây là một quá trình lâu dài để tạo ra sự biến đổi về chất (đối với
quan hệ SX, lực lượng SX, kiến trúc thượng tầng), nó phải trải qua nhiều chặng đường, bước đi thích hợp và nhiều hình thức trung gian về tổ chức kinh tế - xã hội.
Như chúng ta biết, trong quan niệm triết học Mác - Lênin, tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại được qui định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất và do vậy, về thực chất,
phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất. Nước ta còn nghèo, lực lượng SX kém
phát triển nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là rất lớn cho nên phải tập trung sức phát triển LLSX. Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con người được
tăng lên đáng kể. Điều đó cho phép chúng ta có thể rút ngắn các giai đoạn phát triển hay hình thức công nghệ của sự phát triển lực lượng sản xuất
Đồng thời với việc tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất qua con đường CNH-HĐH, Đảng cũng đã xác định việc phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần trong giai đoạn quá độ là một tất yếu khách quan, đây là bước đi tuần tự trong việc phát triển Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta từ sau
Đại hội VI đến nay đã khẳng định : các thành phần kinh tế là những bộ phận cấu thành phần kinh tế thống nhất, được phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh với nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển. .

14
14
Sự phát triển của LLSX đòi hỏi phải có quan hệ SX phù hợp. Đại hội 9 đã xác định : “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý và phân phối”
Đại hội Đảng lần VII đã nêu : để phù hợp với sự phát triển của LLSX, chúng ta phải thiết lập từng bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với
sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Như vậy, từ việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu SX
và các loại hình tổ chức kinh tế gắn liền với các hình thức sở hữu đó do lịch sử để lại, phù hợp với từng thành phần kinh tế. Chính điều này đã tạo ra
sức sống động cho sự phát triển kinh tế, tạo ra được nhiều sản phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng động vốn có của các thành phần
kinh tế. Văn kiện Đại hội IX cũng đã xác định việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu không thể xác lập nhanh chóng ồ ạt như
trước đây mà phải là một quá trình kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao …
Song song với sự đổi mới về kinh tế là sự đổi mới về kiến trúc thượng tầng bắt đầu từ việc đổi mới về chính trị , văn kiện Đaị hội 8 đã chỉ rõ
“kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị"
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự
nghiệp rất khó khăn phức tạp, có sự đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ nghĩa xã hội và cái không phải chủ nghĩa xã
hội, phải sử dụng một số hình thức trung gian, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Hiện nay, chúng ta đang ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường phát triển rút ngắn nhằm mục tiêu
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế khách quan; khoa học và
công nghệ có bước tiến nhảy vọt; kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất đây chính là những
điều kiện khách quan vừa là thách thức nhưng cũng vừa là cơ hội đối với con đường phát triển CNH-HĐH và xây dựng CNXH ở nước ta. Mặt khác với
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhận thức và hành động đúng quy luật, chúng ta sẽ có những bước đi nhanh và vững chắc trong công cuộc xây dựng
CNXH ở nước ta.
Câu 4 : Học thuyết Mác xít về đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH và vận dụng để phân tích những khuynh hướng sai lầm
cực đoan trong việc nhận thức và vận dụng học thuyết Mác xít, về đấu tranh giai cấp và để phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta : “ Nội dung chủ
yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi CNH-HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển thực hiện công
bằng xã hội chống áp bức bất công, đấu tranh ngăn chặn khắc phục những tư tưởng, hành động, tiêu cực sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá
của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập, dân tộc, xây dựng đối với nước ta thành nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”
15
15
Trả lời

Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là một trong những động lực quan trọng của sự phát triển xã hội. Việc đấu tranh giai cấp diễn ra trên nhiều với
hình thức, nội dung khác nhau và ngày nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng ta đã xác định : “Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực
hiện thắng lợi CNH-HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển thực hiện công bằng xã hội chống áp bức bất công, đấu tranh
ngăn chặn khắc phục những tư tưởng, hành động, tiêu cực sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập, dân
tộc, xây dựng đối với nước ta thành nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”.
Trên cơ sở vận dụng học thuyết Mác xít về đấu tranh giai cấp chúng ta sẽ làm rõ luận điểm trên của Đảng về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên CNXH.
Trong xã hội có giai cấp, sự hình thành giai cấp cũng là sự hình thành các lợi ích giai cấp khác nhau. Lợi ích giai cấp không phải do ý thức
giai cấp quyết định mà do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó tạo nên một cách khách quan trong lịch sử. Theo quan điểm triết học Mác Lênin thì
đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau nhằm duy trì, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, xóa bỏ, hạn chế
lợi ích của giai cấp khác. Như vậy, đấu tranh giai cấp bắt nguồn từ đối kháng lợi ích của các giai cấp mà những lợi ích này không thể điều hòa
được, chỉ có con đường thực hiện bằng đấu tranh giai cấp.
Trong lợi ích của giai cấp, thì lợi ích kinh tế là cơ bản nhất, thiết thực nhất, đây là những giá trị khách quan cần thiết không những thỏa mãn nhu
cầu của một giai cấp mà nó còn là cơ sở, nền tảng đảm bảo cho sự ra đời và vận động, phát triển cũng như mất đi của lịch sử.
Trong xã hội có giai cấp, khi mâu thuẩn về lợi ích kinh tế thì tất yếu dẫn đến mâu thuẩn về chính trị, tư tưởng và dẫn đến đấu tranh chính trị
nhằm giành lấy quyền lực chính trị cao nhất là quyền lực nhà nước, từ đó để giải quyết lợi ích kinh tế cho giai cấp mình. Cho nên mục tiêu đấu tranh
giai cấp là giải quyết lợi ích kinh tế, nếu không giải quyết được lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị dần dần sẽ mất đi.
Mặt khác, đấu tranh giai cấp để giành quyền lực, để có được Nhà nước về tay mình thì không thể thực hiện bằng những nhóm riêng lẻ, mà phải
diễn ra trên quy mô giai cấp, giai cấp này chống giai cấp kia. Hơn nữa cuộc đấu tranh giai cấp muốn đi đến thắng lợi phải được hướng dẫn bằng một
hệ tư tưởng. Do đó, đấu tranh giai cấp cũng diễn ra trên mặt trận tư tưởng.
Tóm lại, triết học Mác Xít khẳng định rằng lợi ích giai cấp mà trong đó lợi ích kinh tế được tạo dựng cùng với quá trình hình thành giai cấp và
nó luôn luôn chi phối sự vận động, phát triển của các giai cấp trong lịch sử. Trong XH có giai cấp đối kháng, khi có mâu thuẩn lợi ích kinh tế sẽ dẫn
đến đấu tranh chính trị, vì vậy cho nên nội dung, hình thức của đấu tranh giai cấp thể hiện ở cả 3 mặt : đấu tranh kinh tế, đấu tranh về tư tưởng và
đấu tranh về chính trị.
Đấu tranh giai cấp cũng là đấu tranh nhằm giành lấy quyền lực chính trị cao nhất là quyền lực nhà nước, từ đó để giải quyết lợi ích kinh tế cho
giai cấp mình. Cho nên mục tiêu đấu tranh giai cấp là giải quyết lợi ích kinh tế. Nếu không giải quyết được lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị dần dần
sẽ mất đi.
Khi nghiên cứu phép biện chứng duy vật, nghiên cứu quy luật mâu thuẫn ta thấy rằng mâu thuẫn nói chung là nguồn gốc, động lực cho sự phát
triển. Nói cách khác, động lực phát triển của xã hội nằm ngay trong chính phương thức SX với việc giải quyết giữa mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX. Về
mặt xã hội, mâu thuẫn này là mâu thuẫn giai cấp giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho lực lượng SX tiến bộ, phát triển và một bên

là giai cấp thống trị, phản động đại diện cho QHSX lạc hậu đang kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong các XH có giai cấp đối kháng, do
được giai cấp thống trị – đại diện cho QHSX đó bảo vệ bằng mọi sức mạnh, đặc biệt là bạo lực có tổ chức, QHSX không tự động nhường chổ cho
16
16
QHSX mới. Vì vậy, muốn thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phải tiến hành đấu tranh giai cấp và cách mạng XH Với ý nghĩa đó, đấu tranh giai cấp là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển, đồng thời là cũng là phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ SX. Đấu tranh giai cấp
trong các XH có giai cấp còn cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động nhằm gột rữa cho họ tinh thần nô lệ và những tập quán
xấu do chế độ người bóc lột, áp bức người sinh ra.
Tuy nhiên, trong XH có giai cấp thì đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất để thúc đẩy xã hội phát triển, mặc dù nó là động lực vô
cùng quan trọng, là “đòn bẩy vĩ đại của cuộc cách mạng hiện đại”. Ngoài đấu tranh giai cấp ra còn nhiều động lực khác như : đạo đức, tư tưởng, văn
hóa, giáo dục, vị trí, vai trò của mỗi động lực có khác nhau và tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội. Nhận thức rõ điều nay, chúng ta sẽ tránh được
tư tưởng tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, tránh quy mọi biểu hiện đời sống XH bằng đấu tranh giai cấp và cũng không có tư tưởng điều hoà giai cấp,
thỏa hiệp giai cấp đi đến ohủ nhận giai cấp.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung phải nhận thức rõ tính tất yếu của cuộc đấu tranh
giai cấp. Đó là khi giai cấp vô sản giành được chính quyền nhưng chỉ mới thắng giai cấp tư sản về mặt chính trị, trong khi giai cấp tư sản vẫn còn lực
lượng, vẫn tìm mọi cách giành lại địa vị đã mất. Vì vậy giai cấp vô sản phải tiếp tục đấu tranh để củng cố thắng lợi để xây dựng xã hội mới.
Có thế nói đặc điểm nổi bậc của thời đại ngày nay là đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, đấu tranh tôn giáo đan xen lẫn nhau diễn ra hết sức
gay go, quyết liệt nhưng cũng hết sức lâu dài. Văn kiện ĐH Đảng lần 7,8,9 đã nhận định rằng mặc dù CNXH đang đứng trước những thử thách đầy
nghiêm trọng có sự thụt lùi, thoái bộ của một số nước nhưng niềm tin vào CNXH, CNCS vẫn còn. Chủ nghĩa đế quốc, CNTB cũng đã và đang có
những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về các mặt chính trị - xã hội – văn hóa nhưng do tiềm năng, tiềm lực kinh tế rất lớn, khả năng thích nghi, điều
tiết cao nên trước mắt vẫn còn phát triển và hồi phục nhanh sau các cuộc khủng hoảng. Loài người tiến bộ ngày càng nhận thức rõ hơn giá trị đích
thực của chân lý độc lập, dân tộc dân chủ hòa bình và tiến bộ xã hội, thể hiện xu thế của thế giới đang tiến đến phát triển CNXH.
Hiện nay, ở nước ta đang quá độ đi lên CNXH bò qua chế độ TBCN với việc thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý thống nhất của nhà nước theo định hướng XHCN.
Như vậy, với nền kinh tế đan xen nhiều loại hình sở hữu khác nhau cho nên lợi ích kinh tế giữa các giai cấp cũng khác nhau. Đảng ta thừa nhận
hiện nay và cả trong suốt thời kỳ quá độ của nước ta còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Chính vì vậy sẽ là chủ quan, sai lầm nếu xóa nhòa ranh giới giữa các giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp hoặc hiểu một cách phiến diện cực
đoan về đấu tranh giai cấp, tuyệt đối hóa mặt bạo lực trấn áp của đấu tranh giai cấp., cũng không nên hiểu đấu tranh giai cấp là điều hòa lợi ích giữa
các giai cấp.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay phải nhận thức cho đúng, nó diễn ra trong điều kiện mới. Bởi vì, cùng với những biến đổi to lớn về

kinh tế - xã hội, cơ cấu giai cấp, nội dung, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta cũng đã thay đổi nhiều, nó khác thời kỳ cách mạng dân tộc
dân chủ, hay những năm đầu chúng ta mới giành được chính quyền. Mối quan hệ giữa các giai cấp, sự phát triển của các giai cấp trong sự nghiệp xây
dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước không còn như trước đây. Ngày nay, mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã
hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống bóc lột, chống nghèo nàn lạc
hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Vì vậy, trong báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng khẳng định :”Nội dung chủ yếu của đấu
tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc
17
17
phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch;
bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”.
Như chúng ta đã biết, đấu tranh giai cấp bắt nguồn từ đối kháng về lợi ích kinh tế. Chính vì vậy, nội dung quan trọng hàng đầu của đấu tranh giai
cấp ở nước ta hiện nay là cuộc đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu, chống nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Cương lĩnh xây dựng đất nước đã viết “Để thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội kém phát
triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là của các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, để thực hiện mục tiêu trên phải cải biến tình trạng kinh tế kém phát triển mà con đường chủ yếu là thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước. Chỉ với con đường CNH-HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta mới có thể nhanh chóng tạo sự đột phá trong sự phát triển lực
lượng SX, từ đó tạo sự phát triển nhảy vọt về kinh tế và đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, sớm thu hẹp khoảng cách phát
triển so với nhiều nước trên thế giới. Sự phát triển vững chắc về kinh tế là điều kiện thuận lợi cho sự ổn định về mặt chính trị.
Song song với quá trình phát triển kinh tế, cần phải khẳng định tính đấu tranh giai cấp của Đảng ta trong việc lãnh đạo, điều hành phân phối lợi
ích kinh tế giữa các giai cấp. Sự tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, vì vậy Đảng đã xác định phải gắn tăng trưởng kinh tế với
việc “từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Do lợi ích của Đảng cộng sản thống
nhất với lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân nên việc chăm lo lợi ích của nhân dân cũng là chăm lo lợi ích của giai cấp, của Đảng. Công bằng
xã hội thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu SX lẫn ở khâu phân phối kết quả SX, ở việc tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển và sử
dụng tốt năng lực của mình, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tôc “đền
ơn, đáp nghĩa”
Về mặt tư tưởng, đấu tranh giai cấp còn là cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động nhằm xóa bỏ những tập quán xấu,

tư tưởng tiêu cực như dựa dẫm, ỷ lại, tham nhũng, quan liêu đang làm suy yếu sức mạnh của giai cấp.
Về mặt chính trị, đấu tranh giai cấp phải là sự trấn áp, đập tan và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, chống âm mưu
diễn biến hoà bình trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - tư tưởng – văn hóa - đạo đức lối sống đồng thời giữ vững độc lập dân tộc và đảm bảo
định hướng XHCN trong con đường bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Đế thực hiện được điều đó, việc bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định cùng với việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta đang thực
hiện chính sách đối ngoại hòa bình, thể hiện ở quan điểm “Việt Nam muốn là bạn với các nước và các dân tộc trên thế giới”, với tinh thần đa phương
hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế nhưng phải đảm bảo giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia với tinh thần độc lập dân tộc và tự lực tự cường.
Đó là sách lược mềm dẻo mà Đảng ta đã vận dụng thành công trong cuộc đổi mới. Để nội dung đấu tranh giai cấp mới có hiệu quả, ta cũng phải vận
dụng hình thức mới, phù hợp đó là đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng, các hình thức đó biểu hiện đa dạng trong đời sống xã hội,
là quá trình gắn bó mật thiết với nhau.
Tóm lại, đấu tranh giai cấp là qui luật chung thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội có giai cấp. Việc hiểu và vận dụng đúng quy luật trong
công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước sẽ là điều kiện để đảm bảo sự thành công của chúng ta trên con đường xây dựng một nước Việt Nam XHCN
phồn vinh, hạnh phúc
Câu 5 : Học thuyết Mác về Nhà nước và vận dụng để phân tích, phê phán những yếu kém, khuyết điểm trong việc tổ chức phương thức hoạt động của
hệ thống chính trị (HTCT) nói chung của Nhà nước nói riêng thời kỳ trước đổi mới và để phân tích phương hướng sau đây của Đảng ta : “ Nhà nước ta
là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân” (VK 9 trang 131).
18
18
Bài làm
Trong sự nghiệp cách mạng hiện nay của đất nước đòi hỏi hệ thống chính trị của ta phải có thật sự vững mạnh và hiệu quả trong việc lãnh đạo đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trong hệ thống chính trị của đất nước. Khẳng định về vấn đề này, Đại hội
Đảng lần IX có viết : “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”. Để làm rõ luận
điểm trên, sau đây chúng ta sẽ đi sâu phân tích về nguồn gốc, bản chất và chức năng của Nhà nước theo lý luận triết học Mác-xít và sự vận dụng của Đảng ta trong
quá trình cách mạng Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới.
Theo triết học Mác – Lênin, Nhà nước là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện và tồn tại gắn liền với một giai đoạn nhất định trong sự phát triển của xã hội, đó
là giai đoạn xã hội có phân chia thành giai cấp đối kháng. Nhà nước xuất hiện do 2 nguyên nhân sau : Một là lực lượng sản xuất phát triển, xã hội có giai cấp, các cơ
quan quản lý xã hội trước kia không còn phù hợp nữa và để đảm bảo các công việc chung của cộng đồng, xã hội cần có một cơ quan quản lý mới đó là nhà nước. Hai
là khi giai cấp xuất hiện, mâu thuẫn về quyền lợi và cuộc đấu tranh giữa các giai cấp diễn ra không ngừng và ngày càng quyết liệt không thể điều hoà được, để bảo vệ
lợi ích giai cấp của mình, giai cấp nào mạnh hơn, có ưu thế hơn thì giai cấp đó sẽ làm chủ về mọi mặt và để củng cố quyền lực của mình đã dẫn tới sự ra đời của Nhà
nước. Lênin đã viết “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẩn giai cấp không thể điều hòa được… thì Nhà nước xuất hiện và ngược lại sự tồn tại

của Nhà nước chứng tỏ những mâu thuẩn của giai cấp không thể điều hòa được”. Như vậy, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là từ kinh tế, từ sự
phát triển của LLSX, nguồn gốc trực tiếp về KT-XH dẫn đến sự ra đời và tồn tại của nhà nước là do có chế dộ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được.
Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp đó, cho
nên bản chất Nhà nước bao giờ cũng mang tính giai cấp sâu sắc. Nhà nước bao giờ cũng là của một giai cấp nhất định, đó là giai cấp thống trị về
kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác được thể hiện dưới 3 loại quyền lực : quyền lực chính trị -
quyền lực kinh tế và quyền lực tư tưởng, trong đó quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định nhưng bản thân nó không thể duy trì được vai trò thống
trị và đàn áp được sự phản kháng của giai cấp bị trị, vì vậy phải có Nhà nước để củng cố và bảo vệ những quyền lực ấy. Với tính cách là nền
chuyên chính của một giai cấp này đối với giai cấp khác, Nhà nước của các giai cấp bóc lột không thể là kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích cho
các giai cấp trong xã hội. Như vậy, Nhà nước là một bộ máy đặc biệt để đảm bảo và thực hiện quyền lực thống trị về kinh tế, tư tưởng, chính trị.
Ngoài việc thực hiện chức năng đó, Nhà nước còn phải giải quyết tất cả các vấn đề khác nảy sinh trong xã hội, nghĩa là thực hiện chức năng xã
hội. Vì vậy, Nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, vừa mang bản chất giai cấp vừa mang tính xã hội. Theo bản chất đó Nhà nước là
một tổ chức của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự
XH, thực hiện những mục đích để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội
Cũng có thể phân biệt chức năng của Nhà nước từ phạm vi tác động của quyền lực Nhà nước ở tầm vĩ mô, theo đó Nhà nước có chức
năng đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội là duy trì trật tự kinh tế, chính trị, xã hội và các trật tự khác hiện có trong xã hội theo pháp luật, thông
qua pháp luật nhà nước bắt buộc mọi thành viên khác sức mạnh cưỡng chế phải tuân theo và sự dụng các phương tiện khác để củng cố, mở rộng
ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội. Chức năng đối ngoại là thực hiện các quan hệ về mặt Nhà nước đối với các nước khác trên các lĩnh vực
19
19
kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục, khoa học kỹ thuật, an ninh, quốc phòng,…. nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, quan hệ với các nước khác vì lợi ích
của quốc gia và của giai cấp thống trị đối với các nước khác
Trong lịch sử phát triển của mình, Nhà nước có những kiểu sau : Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước XHCN. Các kiểu Nhà
nước chủ nô, Phong kiến, tư sản mỗi kiểu Nhà nước có bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm chung, đều là những “Nhà nước theo đúng nghĩa” đuợc
xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về TLSX và là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Khác với các
kiểu Nhà nước bóc lột, Nhà nước XHCN là “nữa Nhà nước” tức là Nhà nước của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội cho tất cả công dân.
Nhà nước XHCN ra đời và tồn tại trong thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản lên xã hội cộng sản là tất yếu khách quan của lịch sử. Vì thời kỳ quá độ là thời kỳ còn
tồn tại giai cấp, còn có đấu tranh giai cấp. Đó là thời kỳ cải biến cách mạng liên tục và phức tạp để xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Để làm đuợc việc đó thì
chuyên chính của một giai cấp cách mạng (chuyên chính vô sản) là tất yếu vừa để trấn áp kẻ thù, chống lại sự kháng cự của giai cấp bóc lột, đập tan những âm mưu
chống phá hoạt động thù địch, vừa để tổ chức xã hội mới, thiết lập sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản vừa thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới : đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mặc dù vẫn mang tính giai cấp được biểu hiện qua sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản nhưng nhà nước XHCN có cơ sở cho sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân là vì lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của đông đảo quần
chúng nhân dân lao động. Bản chất của Nhà nước chuyên chính vô sản thực chất là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Tính nhân dân thể hiện ở toàn
bộ quyền lực của nhân dân lao động. Nó dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số kẻ thù của nhân dân.
Nhà nước XHCN lấy chức năng tổ chức xây dựng xã hội mới là chức năng chủ yếu. Đương nhiên Nhà nước XHCN cũng có chức năng trấn áp giai cấp bóc lột,
các lực lượng thù địch của nhân dân nhưng chức năng xây dựng là chủ yếu vì có tổ chức xây dựng thành công xã hội mới, mới bảo đảm thắng lợi hoàn toàn và triệt
để của CNXH. Mặt khác, nhà nước vô sản còn nắm các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, vì vậy phải tổ chức xây dựng từ góc đến ngọn, từ lực lượng SX đến quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Chức năng tổ chức xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ và đầy khó khăn phức tạp do đó đòi hỏi tính năng động
sáng tạo.
Song cũng phải nhận thấy rằng sự tồn tại của Nhà nước XHCN cũng chỉ là quá độ đi đến thủ tiêu vì Nhà nước vô sản (Nhà nước XHCN ) là Nhà nước đặc biệt
“Nhà nước tự tiêu vong”. Sự tiêu vong không phải là quá trình giảm vai trò và hiệu lực của Nhà nước mà là quá trình tăng cường và hoàn thiện không ngừng Nhà
nước, tăng cường và hoàn thiện chế độ dân chủ là điều kiện để Nhà nước tiêu vong. Đó là biện chứng của quá trình phát triển hoàn thiện Nhà nước thời kỳ quá độ
từ CNTB lên CNCS.
Đối với nước ta, việc xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa là vấn đề hết sức quan trọng, là đòi hỏi khách quan trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội bởi vì
vấn đề chính quyền luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ của nhân dân lao động, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội, khi có một Nhà nước thực sự vững mạnh.
20
20
Hệ thống chính trị của nước ta bao gồm Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Mỗi
thành phần trong hệ thống chính trị có vai trò riêng của mình trong sự nghiệp cách mạng nhưng trong đó Nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng - thời gian qua bên cạnh những việc đã làm được trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhà nước ta cũng còn những
thiếu sót, những nhược điểm của một Nhà nước ở thời kỳ quá độ. Tính quá độ đó thể hiện qua sự “yếu kém”, “bất cập” trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta
trước thời kỳ đổi mới.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội đất nước ta vẫn còn
đang trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn thấp, nền kinh tế lạc hậu thủ công, trình độ lực lượng sản xuất và năng lực tổ chức quản lý còn rất thấp,
đồng thời đất nước vừa mới kết thúc chiến tranh nhưng ảnh hưởng của nó vẫn còn rất nặng nề. Do đó trong giai đoạn này, việc tổ chức, xây dựng, quản lý đất nước
của hệ thống chính trị nói chung và nhà nước nói riêng còn nhiều bất cập. Tổ chức bộ máy Nhà nước cồng kềnh, kém hiệu lực, nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí
xảy ra nghiêm trọng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn yếu; sự lãnh đạo của Đảng chưa được tăng cường đúng mức, chưa có quy chế rõ ràng đảm bảo cho
việc kiện toàn và phát huy hiệu lực của bộ máy Nhà nước; hệ thống pháp lý chưa đồng bộ, chưa tạo đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết, việc xem thường pháp luật kỷ

cương vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi….
Văn kiện Đại hội VI đã chỉ rõ những yếu kém trong hoạt động lãnh đạo và điều hành đất nước của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn này trên
tất cả các mặt. Về việc thực hiện chức năng xã hội, Đảng và Nhà nước đã sai lầm “do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên CNXH là
một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chủ quan nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần
thiết nên từ Đại Hội IV của Đảng chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên , đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá
trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời.”, “đã đề ra chỉ tiêu kế hoạch quá cao
về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, thiên về xây dựng CN nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết
căn bản vấn đề lương thực thực phẩm kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp”, “chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”,
“duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp”, “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần
kinh tế phi xã hội chủ nghĩa” và “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “, chưa nhận thức và vận dụng đúng
đắn các quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật tác động trong lĩnh vực kinh tế – xã hội . Về việc thực hiện chức năng chuyên chính vô sản,
Văn kiện Đại hội VI nêu rõ những khuyết điểm đó là : “tình trạng buông lỏng chuyên chính vô sản thể hiện ở nhiều khuyết điểm chưa sử
dụng đầy đủ sức mạnh tổng hợp của chuyên chính vô sản để thiết lập và giữ vững trật tự xã hội chủ nghĩa đã để cho pháp luật và kỷ
cương nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến”
Văn kiện Đại hội VI nêu rõ : “Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo KT, XH, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư
tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân”.
Trong công tác tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Bố trí cán bộ theo
quan niệmcủ kỹ, nặng tính hình thức, thiên về nhiệt tình cách mạng, coi nhẹ tri thức khoa học. Trong bộ máy Đảng và Nhà nước còn thể hiện thiếu
dân chủ như chưa chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, phong cách và lề lối làm việc mang nặng tính quan liêu lời nói không đi đôi với
21
21
việc làm . Việc chỉ đạo điều hành thường không tập trung thiếu nhất quán, nhiều Đảng bộ và cấp uỷ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nhiều
nơi xảy ra hiện tượng Đảng bao biện làm thay công việc của nhà nước. Bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể phình ra quá lớn, chồng
chéo và kém hiệu quả. Công tác giáo dục quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ, công tác đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
cán bộ đảng viên không đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ mới, thậm chí có một số cán bộ đảng viên thoái hoá biến chất.
Tóm lại, những khuyết điểm trên đây làm suy yếu năng lực, sức sống của hệ thống chính trị XHCN ở nước ta, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả lãnh đạo của
Đảng và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng – quần chúng bị tổn thương.
Đứng trước tình hình trên đòi hỏi tất yếu phải đổi mới hệ thống chính trị. Một trong những nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện
nay được Đảng ta xác định là : “Xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh GCCN với GCND và tầng lớp tri thức làm nền tảng, do Đảng Cộng
Sản lãnh đạo”. Quan điểm đó tiếp tục được Đại Hội Đảng lần IX khẳng định : “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước

pháp quyền của dân, do dân và vì dân”.
Như vậy, việc xây dựng và đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước tà được dựa trên những nguyên tắc cơ bản bao gồm :
Một là nhà nước phải là công cụ chủ yếu thực hiện quyền lực của người dân, quyền lực của nhà nước là thuộc về nhân dân lao động. Nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải đảm bảo cho NDLĐ thật sự tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật, tham gia những
công việc trọng đại của Nhà nước : tham gia kiểm tra, giám sát, phê bình các cán bộ và cơ quan Nhà nước … Nhà nước của chúng ta do nhân dân lập
ra thông qua tổng tuyển cử toàn dân được đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân. Mọi quyền lực mà nhà nước có được đều do nhân dân ủy quyền. Mọi
chủ trương chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, nó kiên quyết đập tan mọi mưu đồ đi ngược lại ý chí của nhân dân.
Hai là nhà nước xã hội chủ nghĩa phải là nhà nước pháp quyền mà đặc trưng quan trọng là phải có hệ thống pháp luật đầy đủ, pháp luật là khuôn khổ cho
hoạt động hợp lý của nhà nước và là khuôn khổ cho hoạt động của toàn xã hội. Từ đó cũng đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ: Cùng với việc đổi mới cơ cấu tổ chức bộ
máy, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước,… thì vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải không ngừng đổi mới,
bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra những điều kiện để pháp luật phát huy sức mạnh của nó trong thực tế
Ba là quyền lực Nhà nước là thống nhất trên cơ sở có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc thực hiện 3 quyền : hành pháp, lập
pháp và tư pháp. Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền hợp pháp hành pháp và tư pháp. Trong tổ chức và hoạt động của mình, Nhà nước pháp quyền XHCN VN thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Chỉ khi đó nó mới đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân bảo đảm sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy
đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân, của cả nuớc và từng địa phương , của cả hệ thống bộ máy và từng yếu tố cấu thành nó.
Tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu cũng như phân tán cục bộ.
Bốn là Nhà nước quản lý toàn bộ hoạt động xã hội, quản lý toàn bộ nền kinh tế nhiều thành phần và nắm các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Nhà nước
phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng để thể hiện rõ bản chất giai cấp của mình, để có đủ hiệu lực quản lý nhà nước và để nhân dân thực hiện quyền làm chủ tốt
hơn.
22
22
Năm là Nhà nước CNXH VN có sự thống nhất hữu cơ chức năng giai cấp và chức năng xã hội trong tổ chức và hoạt động của mình. Càng đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân càng có khả năng phát hiện, nhận thức và giải quyết có hiệu quả những vấn đề có liên quan tới chức năng XH. Ngược lại việc thực hiện tốt
chức năng xã hội sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xã hội sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giai cấp. Chính bằng cách đó và
cũng chỉ bằng cách đó, Nhà nước XHCN mới thực sự là Nhà nước của dân do dân và vì dân và có tác động tích cực đối với sự phát triển KT-XH của đất nuớc.
Sáu là Nhà nước XHCN lấy liên minh giai cấp công nhân với GCND và tầng lớp trí thức làm nền tảng. Khối liên minh này là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn
kết dân tộc tạo nên sức mạnh mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Liên minh này góp phần giữ vững vai trò lãnh đạo cũa GCCN, phát huy cao độ
sức mạnh làm chủ của NDLĐ mà nồng cốt là CN, ND và tầng lớp trí thức. Ngày nay, trong cuộc CMKH và công nghệ, GCCN, nông dân không thể thực hiện được mục
tiêu của mình đề ra nếu không có đội ngũ trí thức và bản thân giai cấp công nhân và nông dân không dần dần đuợc tri thức hoá. Mặt khác tầng lớp trí thức chỉ có thể

có điều kiện phát huy khả năng của mình khi họ phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng của GCCN và ND, đồng thời có đủ điều kiện để thực hiện ước mơ của
mình.
Trong giai đọan trước mắt để Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, một Nhà nước trong sạch vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả
chúng ta phải thực hiện đồng bộ một loạt các nhiệm vụ : đổi mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước, đẩy mạnh cải cách nền hành chánh Nhà nước . Đồng thời với việc thực hiện những nhiệm vụ đó là đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu
tham nhũng trong bộ máy Nhà nước. Tăng cường vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước. Cũng cố khối liên minh công-nông-trí thức. Cải cách nền hành chính
quốc gia trên cả lãnh vực thể chế hành chính, bộ máy làm công tác hành chính, đội ngũ công chức hành chính…
Tóm lại, bằng việc thực hiện tổng hợp và đồng bộ những nhiệm vụ đó chúng ta chắc chắn sẽ đạt được bước tiến căn bản trong việc hoàn thiện Nhà nước CH
XHCN VN mà theo Đại Hội IX xác định : “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của ND, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”.
Câu 6 : Trình bày học thuyết Mác Xít về con người và vận dụng để phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta : “ Con người được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân .” (Cương lĩnh Đại hội 7- Trang
9).
Trả lời
23
23
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước ta hiện nay, con người đóng một vai trò quan trọng, nó vừa là mục tiêu vừa là động lực để thúc
đẩy sự phát triển đất nước và quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng CNXH trên đất nuớc ta. Để khẳng định tầm quan trọng đó trong cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Đại hội Đảng lần thứ VII ghi rõ: ““ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.”
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước
Mác vấn đề bản chất con người vẫn chưa được giải đáp vấn đề một cách khoa học. Các nhà triết học trước Mác coi bản chất con người từ sự sáng
tạo và chi phối của thần thánh hoặc từ ý thức trừu tượng (chủ nghĩa duy tâm tôn giáo) hoặc từ giác ngộ sinh vật thuần tuý tự nhiên không phân biệt
được con người với tính tầm thường của động vật (chủ nghĩa duy tâm siêu hình).
Theo quan điểm triết học Mác xít, bản chất con người được lý giải một cách khoa học, toàn diện, triệt để và mang tính nhân văn sâu sắc. Quan niệm này cho
rằng con người là khái niệm triết học dùng để chỉ những cá thể phát triển trong một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội.
Về mặt sinh vật, con người là một chỉnh thể sống là một bộ phận của giống tự nhiên và chịu sự chi phối của các quy luật sinh học tự nhiên, hoạt động động
của con người phụ thuộc không ít vào chất lượng cơ thể sinh vật tự nhiên. Khi nói con người là một thực thể sinh học, điều đó có nghĩa là con người là kết quả của sự
tiến hóa lâu dài của sự hữu sinh, con người cũng chịu sự tác động và qui định của những quy luật tự nhiên, của những quy luật sinh học . Tuy nhiên đó chưa phải là
con người theo đúng nghĩa của nó.
Tính xã hội của con người được biểu hiện qua toàn bộ nội dung sống, hoạt động giao tiếp ứng xử của con người đều mang tính xã hội. Mặt xã hội không phải

là sản phẩm của tổ chức tự nhiên mà theo Mác là sản phẩm của những điều kiện vây quanh con người suốt cả cuộc đời, nghĩa là nó được hình thành nhờ con người
tham gia vào hình thành các quan hệ xã hội từ khả năng lao động đến những hoạt động ứng xử với thế giới và với người khác, từ ngôn ngữ đến tư duy ý thức đều
được hình thành nhờ con người tham gia vào hệ thống các quan hệ xã hội. Mặt xã hội làm cho con người trở thành đúng với tư cách là con người.
Cơ sở của mặt xã hội của con người là lao động. Lao động là hoạt động cơ bản phát triển của con người và chính nhờ lao động con người mới trở thành người.
Trong lao động, con người phải quan hệ với tự nhiên, cải tạo chinh phục thế giới tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ con người. Đây là nội dung xã hội của con người,
không thể có ở con vật và cũng chính nhờ quan hệ với tự nhiên như vậy con người đã dần dần tách khỏi giới tự nhiên. Trong lao động, con người còn lao động vì mục
đích xã hội vì nhu cầu của xã hội. Vì vậy tất yếu hình thành mối quan hệ giữa người với người trong lao động. Quan hệ này là cơ sở để hình thành hàng loạt các quan
hệ xã hội khác. Đây cũng là nội dung xã hội của con người. Mặt khác lao động còn sáng tạo ra chính bản thân con người : ngôn ngữ, tư duy, ý thức đều được hình
thành trong chính quá trình lao động. Như vậy bản chất của con người là mang đậm dấu ấn của lao động và đã qui định bản chất xã hội của con người trong đó,
quyết định cái xã hội trong con người.
Về bản chất của con người, Mác viết “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội ”, ý muốn nhấn mạnh về mặt xã
hội, con người hiện thực là con người đang sống tồn tại với nội dung văn hóa tôn giáo … của nó. Tổng hoà các quan hệ xã hội tạo thành bản chất con người phát triển
24
24
nhưng trong các quan hệ xã hội thì quan hệ sản xuất là cơ bản. Ở xã hội có giai cấp con người còn mang bản chất giai cấp. Khi xem xét con người và các quan hệ xã
hội của con người phải đặt con người hiện thực trong hiện thực con người để tiếp cận.
Tóm lại, với quan điểm khoa học coi con người là một thực thể sinh vật – xã hội, triết học Mác đã khắc phục được cả hai khuynh hướng sai
lầm trong vấn đề con người : hoặc là đề cao mặt tự nhiên không thấy vai trò quyết định của mặt XH, hoặc là giản đơn con người , tuyệt đối hoá nguồn
gốc duy tâm XH, không thấy được tiền đề tự nhiên – mặt sinh vật của con người.
Quan hệ giữa cá nhân (một con người cụ thể) và XH là vấn đề có vị trí quan trọng đặc biệt trong học thuyết Mác. Mối quan hệ giữa cá nhân và
XH là mối quan hệ biện chứng, mang tính tất yếu khách quan, vừa là tiền đề vừa là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của XH và cá nhân. Cơ sở
của mối quan hệ ấy là quan hệ lợi ích. Cá nhân chỉ có thể tồn tại trong các mối quan hệ XH ngược lại sự phát triển của XH được đánh dấu bằng sự
trưởng thành của mỗi cá nhân đó thực hiện. Môi trường XH có thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển hoặc có thể làm tha hóa sự phát triển của con
người. Hoàn cảnh XH, quan hệ XH tạo nên bản chất con người. Tuy nhiên điều đó không phải là con người thụ động trước sự tác độngcủa hoàn cảnh
và tiếp nhận nó một cách có ý thức. Do đó con người có thể làm chủ trước hoàn cảnh và có khả năng tác động lại hoàn cảnh, cải tiến nó phù hợp hơn
với nhu cầu của con người. Vì thế cá nhân có vai trò thúc đẩy XH phát triển. Vai trò của cá nhân ảnh hưởng tới XH tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của
nhân cách. Những cá nhân có nhân cách lớn, phẩm chất tốt, tài năng cao và con người trách nhiệm cao với XH thì có tác dụng tích cực đến XH.
Ngược lại, những cá nhân bị suy thoái về nhân cách thì gây hậu quả xấu đến XH, trở thành gánh nặng cho XH.
Như vậy, cá nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của XH. Sự phát triển của cá nhân góp phần thúc đẩy tiến độ XH phát triển. Xã hội càng phát triển thì mỗi cá
nhân lại tiếp nhận được ngày càng nhiều những giá trị vật chất, tinh thần do XH ấy đáp ứng. Thoả mãn nhu cầu chính đáng của cá nhân là động lực liên kết mọi thành

viên XH và là mục đích của sự liên kết đó. Do đó, cơ sở của mối quan hệ giữa cá nhân và XH chỉ có thể phát triển tốt đẹp khi quan hệ lợi ích được giải quyết một cách
hài hoà. Tùy theo trình độ phát triển của nền SX XH và tính chất của chế độ XH cùng sự nhận thức vận dụng quy luật về sự kết hợp lợi ích mà mối quan hệ lợi ích giữa
cá nhận và XH được giải quyết một cách khác nhau. Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, phát huy nhân tố con người, lấy việc phục vụ
lợi ích con người là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động và là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là yêu cầu bức thiết trong công cuộc xây dựng và đổi mới XH ta
hiện nay. Ngoài cá nhân, quần chúng ND đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như Xây dựng đất nước. Bởi vì theo chủ nghĩa Mác-
Lênin quần chúng ND là những người lao động SX ra của cải vật chất, tinh thần cho XH và các lực lượng tiến bộ XH thống qua hoạt động của họ lịch sử sẽ biến đổi.
Vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề con người, trong mục tiêu, phương hướng của sự nghiệp đổi mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta đã xác định “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.”
Như vậy, trong phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH, vì nó xuất phát
từ mục tiêu chung của chủ nghĩa Mác là giải phóng con người với tư cách là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất. Giải phóng con người là mục tiêu
tự thân của CNXH là đặc trưng cơ bản của XH CNXH . Giá trị của XH XHCN là phát triển con người. Toàn bộ các hệ thống quan hệ XH phải phục vụ cho sự phát triển
con người. CNXH có mục đích là tạo ra những điều kiện KT-XH, chính trị cho phép con người ở vào vị trí trung tâm của đời sống XH.
25
25

×