Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

sự phát triển của thị trường chứng khoán của việt nam & ảnh hưởng của nó tới tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.8 KB, 29 trang )

1
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA
VIỆT NAM & ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.
I. Tổng quan về thị trường chứng khoán
1. Thị trường tài chính:
Thị trường chứng khoán (TTCK) là một bộ phận quan trọng của thị
trường tài chính (TTTC). Như chúng ta đã biết, TTTC là nơi diễn ra sự chuyển
vốn từ những người thừa vốn sang những người thiếu vốn. Trong nền kinh tế thị
trường, sự tồn tại và phát triển của TTTC là tất yếu khách quan.
TTTC được phân loại thành các thị trường bộ phận căn cứ theo nhiều tiêu
thức khác nhau.
Căn cứ theo phương thức huy động vốn: TTTC bao gồm thị trường nợ và
thị trường vốn cổ phần. Thị trường nợ là thị trường mà hàng hóa được mua bán
tại đó là các công cụ nợ. Các công cụ này có thời hạn xác định, có thể là ngắc
hạn, trung hạn hay dài hạn. Thị trường vốn cổ phần là nơi mua bán các cổ
phiếu, giấy xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông.
Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn, TTTC đươc chia thành thị trường
tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tiện tệ là thị trường tài chính trong đó các
công cụ ngắn hạn (có kỳ hạn dưới 1 năm) được mua bán. Thị trường vốn là thị
trường giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn (gồm các công
cụ vay nợ dài hạn và cổ phiếu).
Căn cứ vào tính chất việc phát hành các công cụ tài chính, TTTC được
chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp hay còn
gọi là thị trường phát hành là thị trường trong đó các công cụ tài chính được
mua bán lần đầu tiên. Thị trường thứ cấp là thị trường giao dịch các công cụ tài
chính sau khi chúng đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thi trường thứ
cấp làm cho các công cụ tài chính có tính lỏng và tính sinh lợi cao hơn và do đó
2
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trên thị trường sơ cấp. Vì vậy, có thể
nói thị trường thứ cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường sơ cấp.
2. Thị trường chứng khoán:


Thị trường chứng khoán (TTCK) là hình ảnh đặc trưng của TT vốn, tức là
giao dịch tất cả các công cụ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Phân loại TTTC theo thời gian lưu chuyển vốn
Đồng thời, TTCK là hạt nhân trung tâm của TTTC, tức là giao dịch cả
các công cụ nợ: trái phiếu, tín phiếu và các công cụ sở hữu như cổ phiếu.
Phân chia TTTC theo hình thức huy động vốn
Thị trường chứng khoán
CK
ngắn hạn
CCTC
trung,
dài hạn
TT tiền tệ
TT Vốn
Thị trường chứng khoán
TT
trái phiếu
TT
cổ phiếu
TT nợ
TT Vốn cổ phần
3
a, Khái niệm chung và phân loại thị trường chứng khoán:
Hiện nay đang tồn tại nhiều quan điểm về khái niệm chung cho TTCK,
trong Giáo trình TTCK đưa ra khái niệm: TTCK là nơi diễn ra các giao dịch
mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Bản chất của TTCK là thị trường thể
hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của TTCK
chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. TTCK là hình
thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Có nhiều tiêu chí khác nhau phân loại TTCK:

Theo loại hàng hoá giao dịch, người ta có thể phân chia TTCK thành thị
trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ dẫn xuất. Trong
đó thị trường trái phiếu là thị trường mà hàng hóa được mua bán tại đó là trái
phiếu. Thị trường cổ phiếu là nơi giao dịch, mua bán, trao đổi các giấy tờ xác
nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Thị trường công cụ dẫn xuất là nơi các
chứng khoán phát sinh được mua và bán: như hợp đồng tương lai, hợp đồng
quyền chọn…
Theo quá trình luân chuyển vốn TTCK được phân thành thị trường sơ cấp
và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là nơi mua bán các chứng khoán lần
đầu tiên với giá phát hành. Thị trường thứ cấp là nơi trao đổi các chứng khoán
nhằm thu lời, giá cả ở thị trường này định giá các công ty.
4
Trên thực tế TTCK được tổ chức theo 2 hình thức: thị trường tập trung
(sở giao dịch) và thị trường phi tập trung (OTC). Tại Sở giao dịch, người bán và
người mua gặp nhau tại một địa điểm nhất định để giao dịch dưới sự quản lí
chặt chẽ của Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Tại thị trường OTC, không có địa
điểm chính thức chủ yếu thông qua điện thoại hoặc mạng nhưng khối lượng
giao dịch lớn hơn nhiều so với Sở giao dịch.
b. Các chủ thể tham gia TTCK:
Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK được chia làm ba nhóm chính:
chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hành hóa của thị
trường chứng khoán. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh
nghiệp và một số tổ chức khác như: Các Quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung
gian.
Chủ thể đầu tư là những người có tiền, là các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp đầu tư mua bán chứng khoán với mục đích kiếm lời.
Các tổ chức có liên quan bao gồm tổ chức giám sát- quản lí, tổ chức lưu
kí CK, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, các công ty đánh giá độ tín
nhiệm.

c. Vai trò của TTCK:
* Vai trò tích cực:
TTCK, với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ,
tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế.
TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc
buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải tỏa sự
tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn song vẫn tập trung vốn cho phát
triển kinh tế. Việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường sự
giám sát của xã hội đối với quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn
5
tới một xã hội công bằng và dân chủ. Việc giải tỏa tập trung quyền lực kinh tế
cũng tạo điều kiện cạnh tranh cong bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng
trưởng kinh tế.
TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giưẫ sở hữu và quản lưyư doanh
nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doạnh trở nên
phức tạp hơn, nhu cầu về quản lưí chuyên trách cũng tăng theo. TTCK tạo điều
kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế thông tin haòn hảo khả năng giám
chặt chẽ của thị trường chứng khoán đã làm giảm tác động của các tiêu cực
trong quản lí, tạo điều kiện kết hợp hài hòa giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà
quản lí và những người làm công.
Hiệu quả của quốc tế hóa TTCK. Việc mở ra của TTCK làm tăng tính
lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể
huy động nguồn vốn rẻ hơn tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài,
đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh
doanh của các công ty trong nước.
TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không
tạo áp lực về lạm phát, đòng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách
tài chính tiền tệ của Chính phủ.

TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong
tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh
doanh cho phép Chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng
như việc phân bổ các nguồn lực của họ. TTCK cũng tạo điều kiện tái cấu trúc
nền kinh tế.
*Vai trò tiêu cực:
Ngoài những tác động tích cực trên đây, TTCK cũng có những tác động
tiêu cực nhất định. TTCK hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song ở các
thị trường mới nổi, thông tin được chuyển tải tới các nhà đầu tư không đầy đủ
và không giống nhau. Việc quyết định giá cả, mua bán chứng khoán của các nhà
6
đầu tư không dựa trên cơ sở thông tin và sử lí thông tin. Như vậy, giá cả chứng
khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thàng cơ
sở để phân phối một cách có hiệu quả nguồn lực.
Một số tiêu cực khác của TTCK như hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung
đột quyền lực làm thiệt hại cho quyền lợi của các cổ đông thiểu số, việc mua
bán nội gián, thao túng thị trường làm nản lòng các nhà đầu tư và như vậy, sẽ
tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư. Nhiệm vụ của các nhà quản lí thị
trường nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo cho tính hiệu quả
của thị trường.
Như vậy, vai trò của TTCK được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác
nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của TTCK có thực sự được phát huy
hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào chủ thể tham gia thị trường và quản lí của
Nhà nước.
II. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán
1. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán trên thế giới.
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 15 ở tại thành phố trung tâm buôn bán của
Phương Tây, các thương gia thướng tụ tập ở một số khu như quán cà phê để trao
đổi mua bán các loại hàng hóa như nông sản, khoáng sản, tiền tệ và các chứng
từ có giá. Điểm đặc biệt ở đây là các thương gia chỉ giao dịch với nhau bằng lời

nói, không có hàng hóa thật. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất
với nhau các hợp đồng trao đổi, mua bán ngay hoặc cho tương lai.
Những cuộc trao đổi này ban đầu chỉ là một nhóm người và sau đó đông
dần cho đến khi nó thực sự trở thành một khu chợ riêng. Thời gian họp chợ lúc
đầu là hàng tháng, sau đó hàng tuần rồi rút ngắn còn hàng ngày. Trong các
phiên họp chợ tại đây các thương gia thống nhất với nhau các quy ước cho việc
thương lượng và sau này trở thành những quy tắc có giá trị bắt buộc đối với
những ai muốn tham gia thị trường và thị trường chứng khoán hình thành từ đó.
Như vậy, thị trường chứng khoán xuất hiện từ thế kỷ 15. Sự hình thành thị
7
trường chứng khoán cũng đồng thời với thị trường hối đoái và một số thị trường
khác.
Sự hình thành thị trường chứng khoán đầu tiên tại Vương quốc Bỉ. Năm
1453, tại một lữ quán của gia đình Vanber tại thành phố Bruges có một bảng
hiệu vè 3 túi da và chữ Bourse tượng trưng cho 3 nội dung của thị trường: Thị
trường hàng hóa, thị trường ngoại tệ và thị trường chứng khoán động sản; chữ
Bourse có nghĩa là “mậu dịch thị trường”. Đến năm 1547, thị trường ở đậy bị
sụp đổ do cửa biển Evin – nơi dẫn các tàu thuyền vào buôn bán tại thành phố bị
cát biển lấp mất. Tuy nhiên, vào năm 1531, thị trường này đã được dời tới thành
phố cảng Anvers (Bỉ), từ đó, thị trường này phát triển nhanh chóng. Một thị
trường như vậy cũng được thành lập ở London vào thế kỷ 18 và sau đó là một
loạt thị trường tại Pháp, Đức, Y và một số nước Bắc Âu và Mỹ
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thế giới đã
trải qua những giai đoạn thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm
1875 đến 1913, thị trường chứng khoán trong thời kỳ này phát triển mạnh cùng
với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến “ngày thứ năm đen tối”, 29-10-
1929 là ngày mở đầu cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán New York,
từ đó cuộc khủng hoảng kéo sang các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu
và Nhật Bản. Sau thế chiến thứ hai, thị trường chứng khoán phục hồi và phát
triển mạnh. Nhưng rồi cuộc khủng hoảng tài chính 19-10-1987, “ngày thứ hai

đen tối”, một lần nữa đã làm cho thị trường chứng khoán thế giới suy sụp nặng
nề. Cuộc khủng hoảng này để lại hậu quả nghiêm trọng hơn cuộc khủng hoảng
năm 1929. Nhưng chỉ sau 2 năm, thị trường chứng khoán thế giới tiếp tục đi vào
hoạt động ổn định, phát triển và trở thành một định chế không thể thiếu trong
đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo định hướng
thị trường.
Hiện nay ở các quốc gia trên thế giới, thị trường chứng khoán được hình
thành theo 2 cách: TTCK được hình thành một cách tự phát phù hợp với kinh tế
thị trường; TTCK được hình thành với sự hỗ trợ của Nhà nước. Đối với các
8
quốc gia thuộc khu vực Châu á, TTCK được hình thành một cách có y thức với
sự hỗ thợ ngay từ ban đầu của Nhà nước. Để TTCK được xây dựng ổn định và
tăng trưởng nhanh, Chính phủ của mỗi nước đã có những chủ trương, chính
sách cụ thể và bước đi phù hợp để hình thành các điều kiện về kinh tế, pháp lí,
kỹ thuật, nhân lực một cách đầy đủ và đồng bộ.
Kinh nghiệm của nhiều nước Châu Á cho thấy, việc tạo môi trường pháp
lí đầy đủ và phù hợp là yếu tố rất quan trọng làm cho TTCK có thể duy trì và
phát triển. Nói chung, luật pháp ở các nước này được ban hành từng bước phù
hợp với giai đoạn phát triển của TTCK. Với quan điểm điều hành TTCK rất linh
hoạt, nhà nước Hàn Quốc đã có những thay đổi phù hợp với thực tế để điều
chỉnh trong khuôn khổ pháp lí, nhằm giải quyết được yêu cầu của TTCK, đồng
thời tránh được xu hướng cứng nhắc, bị động… ở Trung quốc, từ năm 1990
chính phủ đã soạn thảo luật và thành lập cơ quan Nhà nước về quản lí TTCK.
Ngoài ra còn đề ra nhiều chính sách khác nhau, tác động trực tiếp đến TTCK
như chính sách tín dụng ưu đãi, tư nhân hóa doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư
nước ngoài…
Về mô hình một số nước châu Á cũng đã thành công trong việc xây dựng
mô hình cho TTCK như Hàn Quốc từ năm 1998 có khoảng 95% khối lượng
giao dịch và thực hiện lệnh ở Sở Giao dịch chứng khoán, đã được tự động hóa.
Sở GDCK Trung quốc cũng được tự động hóa khâu giao dịch và thanh toán. ở

các nước này, xu hướng thống nhất các Sở Giao dịch chứng khoán với nhau để
hình thành một thị trường chứng khoán thống nhất đã trở nên rõ ràng. Cách làm
này vừa thực hiện được năng lực sẵn có, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện đại hóa
và tích kiệm chi phí.
Quá trình mở cửa TTCK được áp dụng ở các nước châu Á cũng là kinh
nghiệm tốt, mang lại hai lợi ích : Sở giao dịch chứng khoán thu được nhiều phí
giao dịch hơn, nhờ tăng hoạt động giao dịch của các đối tác nước ngoài; Việc
lưu thông nguồn vốn giữa trong nước và quốc tế, có tác dụng tốt trong việc tận
9
dụng tiềm năng vốn trong nước và quốc tế TTCK của các nước đang phát triển
đã thực hiện việc mở cửa để thu hút vốn nước ngoài.
Các nước phát triển TTCK thành công như Hàn quốc, Thái lan, Trung
quốc đều áp dụng chính sách khuyến khích các công ty niêm yết ở sở GDCK.
Ví dụ như Hàn quốc đã phát triển thị trường vốn, trong đó thực thi một loạt các
biện pháp khuyến khích các công ty ra công khai ở TTCK như cho phép sử
dụng chứng khoán của công ty niêm yết là phương tiện đặt cọc hay bảo lãnh
thanh toán với doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước; có chế độ ưu đãi cho công
ty niêm yết trên TTCK, tiếp cận dễ dàng với ngân hàng… đồng thời, để tăng
nguồn cung cấp hàng hóa cho TTCK, nhà nước các nước này đã đẩy mạnh cổ
phần hóa và khuyến khích các công ty đăng kí giao dịch chứng khoán trên thị
trường chứng khoán; giảm thuế cho các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa;
giảm các loại thuế hành chính liên quan đến việc phát hành và mua bán chứng
khoán cho các công ty có chứng khoán đăng kí trên thị trường. Trong những
năm qua, TTCK Trung quốc đã tạo nguồn hàng hóa phong phú với các cổ phiếu
B,H,N cho người nước ngoài và có cơ chế tự điều hành, do Nhà nước quản lí.
Kinh nghiệm của Singgapo và Indonêxia như thành lập TTCK không chính thức
để khuyến khích việc phát triển cổ phiếu ra công chúng. để nâng cao năng lực
của trung tâm giao dịch chứng khoán và công ty chứng khoán, chính phủ các
nước này đã áp dụng phổ biến công nghệ thông tin và tổ chức quản lí TTCK.
2.Lịch sử phát triển và hình thành TTCK ở Việt Nam.

2.1. Các điều kiện khách quan và chủ quan hình thành thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Thị trường chứng khoán có thể ra đời và hoạt động bình thường khi các hội tụ
đủ các điều kiện tất yếu về kinh tế, chính trị, xã hội. Các yếu tố đó ở Việt Nam
được thể hiện như sau:
Về mặt kinh tế: Thứ nhất, Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam vừa tạo điều kiện vừa đặt ra yêu cầu phải xây dựng thị trường chứng
10
khoán. Một loạt các cải cách quan trọng được tiến hành đã từng bước tạo điều
kiện làm xuất hiện thị trường vốn nói chung và TTCK nói riêng như: Việc cổ
phần hoá và chuyển các DNNN sang chế độ hạch toán kinh doanh làm xuất hiện
các yếu tố đầu tiên của TTCK như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu ; Quốc hội đã
thông qua nhiều bộ luật như Hiến pháp 1992, Luật Đất Đai, Luật Đầu tư nước
ngoài,Luật thuế, Luật Doanh nghiệp từng bước pháp lý hoá các quyền về tài
sản tạo điều kiện phát triển đồng bộ các thị trường trong đó có TTCK; quá trình
mở cửa nền kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã đòi hỏi phải hoàn thiện
thị trường vốn, đặc biệt là xây dựng TTCK để đáp ứng yêu cầu lưu động vốn
trong và ngoài nước. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất tạo điều kiện thúc đẩy sự
ra đời của TTCK VN là nhờ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế 10 năm của thập
niên 1990 luôn ở mức cao, lạm phát được kiềm chế, đó chính là điều kiện tiên
quyết để TTCK vận hành và phát triển tốt. Thứ hai, Quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoáđẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế với nhu cầu vốn khổng lồ của
nó là động lực thúc đẩy TTCK phát triển. Các kênh huy động vốn truyền thống
như Ngân hàng và các tổ chức tín dụng tỏ ra không bao quát hết các yêu cầu về
vốn. Do đó, yêu cầu thúc bách đặt ra là phải có hình thức huy động hấp dẫn các
nhà đầu tư trong và ngoài nước- đó chính là TTCK. Thứ ba, quá trình hình
thành và phát triển công ty cổ phần với tư cách là chủ thể phát hành chứng
khoán ở VN- đây là yếu tố căn bản đề duy trì và phát triển TTCK. Với số lượng
các công ty cổ phần không nhỏ (tính đến thời điểm 31/2/2001, có 1457 công ty
cổ phần) TTCK VN có thể nói đã có cơ sở ban đầu cung cấp hàng hoá cho thị

trường giao dịch thứ cấp. Tuy nhiên hệ thống công ty cổ phần vẫn chưa sẵn
sàng hoà nhập với TTCK. Thứ tư, lượng tiền tiết kiệm của dân cư Việt Nam có
xu hướng tăng dần với đà tăng trưởng và mở cửa của nền kinh tế cộng với
lượng ngoại tệ không nhỏ từ Việt kiều và những người làm ăn ở nước ngoài
chuyển về đã tạo ra tiềm năng đầu tư vào Chứng khoán.
Về mặt xã hội: Một là,ở thập niên 90 Việt Nam đã cơ bản tạo được một môi
trường chính trị xã hội ổn định, đây cũng là một điều kiện để thị TTCK ra đời
11
và hoạt động bình thường. Sự cam kết của Đảng và Nhà nước trong việc thực
thi nhất quán chính sách kinh tế đa thành phần cộng với hiệu lực quản lý của
nhà nước đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vào một TTCK ổn định, trung thực.
Hai là,mặc dù còn nhiều ngỡ ngàng nhưng dân cư Việt Nam về cơ bản ủng hộ
và đã tham gia TTCK tuy nhiên số lượng các nhà đầu tư có tri thức và kĩ năng
về chứng khoán chưa nhiều. Ba là, trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm
2000, Nhà nước ta đã chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ ngành chứng
khoán chuẩn bị sẵn sàng cho sự ra đời của TTCK ở Việt Nam.
Tuy các tiền đề cho sự ra đời và phát triển TTCK mới chỉ nhen nhóm mà chưa
được tạo lập một cách đầy đủ và đồng bộ nhưng chúng ta lại có lợi thế là một
nước đi sau có thể rút ra từ những nước đi trước những bài học thành công và
thất bại, vận dụng vào nước mình một cách phù hợp. TTCK Việt Nam được xây
dựng và vận hành chính là kết quả của tư duy đó, phản ánh quyết tâm “thoát
khỏi tụt hậu” của Việt Nam so với khu vực và thế giới.
2.2. Cơ sở thành lập và những vấn đề sự kiện nổi bật qua 5 năm hoạt
động thị trường chứng khoán Việt Nam.
Với chủ trương phát triển kinh tế thị trường , hình thành đồng bộ các loại
thị trường theo định hướng XHCN, ngay từ những năm đầu của thập kỷ 1990,
Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ ngành như Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước
nghiên cứu và xây dựng đề án phát triển TTCK ở Việt Nam. Ngày 28/11/1996,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/NĐ-CP về việc thành lập Uỷ ban chứng
khoán Nhà nước (UBCKNN) để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc ra đời

TTCK. UBCKNN tập trung xây dựng khuôn khổ pháp lý, hệ thống giao dịch
ban đầu cho Trung tâm giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh (TTGDCK
Tp.HCM), Đề án thành lập CtyCK, hướng dẫn các doanh nghiệp lập hồ sơ niêm
yết, tổ chức đào tạo cán bộ Ngày 16/2/2000, Chính phủ ban hành Quyết định
số 140/CP-KTTH cho phép UBCKNN triển khai hệ thống giao dịch ban đầu,
đây được coi là cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc khởi động thị trường. Đến ngày
12
20/7/2000, TTGDCK Tp.HCM khai trương, đánh dấu sự ra đời của TTCK Việt
Nam, bước đầu đi vào hoạt động chỉ với 4 CtyCK thành viên và 2 công ty niêm
yết (CtyNY) với giá trị cổ phiếu niêm yết là 270 tỷ đồng (tính theo mệnh giá).
Cho đến nay, TTCK Việt Nam đã trải qua 5 năm hoạt động và phát triển.
Theo UBCKNN, số CtyNY hiện nay là 29, tổng giá trị chứng khoán niêm yết
trên thị trường đã đạt gần 31 nghìn tỷ đồng trong đó tổng giá trị cổ phiếu của 29
CtyNY đạt 1700 tỷ đồng ( chiếm trên 6%), còn lại là trái phiếu chính phủ, trái
phiếu địa phương và trái phiếu ngân hàng. Ngoài ra sự xuất hiện của chứng chỉ
quĩ đầu tư với giá trị 300 tỷ đồng đã làm phong phú thêm hàng hoá trên TTCK.
Đáng nói là các CtyNY đã quen dần với cơ chế công bố thông tin và bước đầu
thực hiện nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ tốt nhất.
UBCKNN đã cấp giấy phép hoạt động cho 13 CtyCK, 4 công ty quản lý quỹ
(trong đó có 1 CTyQLQ liên doanh và 2 CtyQLQ thuộc các công ty bảo hiểm
nhân thọ nước ngoài). Các CtyCK đã có mặt tại 4 tỉnh thành phố lớn là Hà Nội,
Hải Phòng, Tp.HCM, Bình Dương và có đại diện nhận lệnh tại nhiều tỉnh, thành
phố khác. Trong thời gian đầu, các CtyCK chủ yếu làm nghiệp vụ môi giới thì
đến nay đã triển khai thêm nghiệp vụ tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý
danh mục đầu tư và tư vấn tài chính với nguồn vốn điều lệ lên tới trên 660 tỷ
đồng.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được chỉ định làm Ngân hàng
Thanh toán, đảm bảo hệ thống thanh toán thống nhất. Bên cạnh đó có 2 ngân
hàng trong nước và 3 ngân hàng nước ngoài được tham gia hoạt động của
TTCK với tư cách là ngân hàng lưu ký với cơ chế lưu ký chứng khoán tập trung

tại TTGDCK thông qua hệ thống 2 cấp: TTGDCK- thành viên lưu ký. Hiện nay
đã có 8 tổ chức kiểm toán độc lập với chức năng kiểm toán các báo cáo tài
chính của tổ chức phát hành/niêm yết và CtyCk.
Qua 5 năm hoạt động, TTCKVN đã có hơn 24000 tài khoản chứng khoán
tăng 8 lần so với năm đầu mở cửa thị trường với 246 nhà đầu tư có tổ chức và
250 nhà đầu tư nước ngoài. Với công nghệ tin học chưa hiện đại, kinh nghiệm
13
quản lý hệ thống giao dịch còn hạn chế song đến ngày 30/6/2005, TTGDCK
TpHCM đã tổ chức giao dịch 1071 phiên liên tục, giá trị chứng khoán giao dịch
đạt 33679 tỷ đồng. TTGDCK đã cải tiến quy trình thanh toán từ 4 xuống còn 3
ngày, tăng phiên giao dịch lên 5ngày/tuần, giảm lô giao dịch từ 100 xuống còn
10 cổ phiếu và cung cấp thông tin thị trường theo phương thức trực tuyến qua
các CtyCK tới các nhà đầu tư. Chỉ số chứng khoán VN-Index đã có những diễn
biến phức tạp theo chu kỳ thăng trầm của TTCK, có lúc đạt 571.04 điểm (ngày
25/6/2001) song có lúc chỉ còn 130.91 điểm (ngày 24/10/2003),trong hơn một
năm qua chỉ số chứng khoán dao động quanh con số 250 điểm.
Ngày 8/3/2005, TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương, mang một ý
nghĩa quan trọng trong việc mở rộng quy mô của TTCK và đưa giao dịch cổ
phiếu của doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hoạt động có tổ chức, xoá bỏ cơ chế cổ
phần hoá khép kín trong các doanh nghiệp. Hệ thống giao dịch thứ cấp của
TTGDCK đã đi vào hoạt động từ tháng 7/2005 dành cho các doanh nghiệp chưa
niêm yết theo cơ chế giao dịch thoả thuận. có 5 công ty đăng ký giao dịch với
giá trị trên 1280 tỷ đồng.
Ngoài ra chúng ta có thể điểm thêm một vài mốc son đáng chú ý khác trong
chặng đường 5 năm hoạt động của TTCK Việt Nam:
- Ngày 26/6/2001, UBCKNN trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
quốc tế các UBCK (IOSCO) đánh dấu bước tiến trong quá trình hội nhập của
Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế giới.
- Ngày 11/6/2003, Hiệp hội các tổ chức kinh doanh chứng khoán VN chính
thức thành lập theo Quyết định số 29/2003/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ,

góp phần định hướng thị trường hỗ trợ quản lý vận hành các định chế trung gian
trên TTCK.
- Ngày 17/7/2003, Quyết định 146/2003/QĐ_TTg của Thủ tướng Chính phủ
được ban hành, nâng tỷ lệ nắm giữ tối đa tổng số cổ phiếu niêm yết của tổ chức
phát hành của nhà đầu tư nước ngoài từ 20% lên 30%.
14
- Ngày 5/8/2003 Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt theo Quyết định số
163/2003/QĐ-TTg “Chiến lược phát triển TTCK VN đến năm 2010”.
- Ngày 28/11/2003, Ban hành Nghị định số 144/2003/NĐ-CP thay thế Nghị
định số 48/1998/NĐ-CP về Chứng khoán và TTCK.
- Ngày 19/2/2004, UBCKNN chuyển vào Bộ Tài chính theo Nghị định
66/2004/NĐ-CP của Chính phủ, giúp việc hoạnh định và ban hành các chính
sách quản lý nhà nước về TTCK sẽ nhanh và hiệu quả hơn.
- Ngày 17/6/2004, Bộ tài chính ra Thông báo số 136/TB-BTC về mô hình tổ
chức và xây dựng TTCKVN, định hướng đến năm 2010, TTGDCK TpHCM sẽ
phát triển thành sở giao dịch chứng khoán còn TTGDCK Hà Nội sẽ thành thị
trường phi tập trung phù hợp với qui mô phát triển của TTCK VN.
- Ngày 7/9/2004, Ban hành Nghị định số 161/2004/NĐ-CP của Chính phủ
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK.
- Ngày 14/6/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 528/QĐ-TTg
về việc phê duyệt danh sách các công ty CPH thực hiện bán đấu giá cổ phần,
niêm yết, đăng ký giao dịch tại các TTGDCKVN. Đây được coi là cơ sở pháp lý
vững chắc giúp các nhà quản lý thị trường trong công tác tạo hàng cho TTCK
VN.
- Thông tin mới nhất là ngày 29/9/2005 vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã kí
Quyết định số 283/2005/QĐ-TTg về việc nới rộng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài trong doanh nghiệp niêm yết từ 30% lên 49% với hy vọng TTCK sẽ
đón nhận thêm sức cầu mới từ nhà ĐTNN.
Với tình hình bối cảnh còn nhiều khó khăn thì những kết quả nói trên về
hoạt dộng của TTCKVN là đáng khích lệ, góp phần hoàn chỉnh thể chế kinh tế

thị trường định hướng XHCN, trong đó thị trường vốn, TTCK là định chế bậc
cao của kinh tế thị trường.Tuy nhiên không thể nói Việt Nam đã có một TTCK
hoàn chỉnh. Chúng ta còn nhiều tồn tại và phải làm nhiều hơn nữa mới có được
một TTCK theo đúng chức năng của nó – là kênh huy động vốn dài hạn quan
trọng cho nền kinh tế.
15
III. Phân tích thực trạng TTCKVN & ảnh hưởng của TT tới nền kinh tế.
3.1 Những thành tựu đã đạt được của TTCK 5 năm qua.
Như đă trình bày ở trên, tuy đã chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK từ nhiều
năm trước nhưng những điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của TT hầu như
còn thiếu xót và ở trình độ thấp. Thế nhưng nhìn lại 5 năm hoạt động những
thành tựu mà TT này đạt được cũng không phải là nhỏ, khẳng định tính đúng
đắn trong đường lối lãnh đạo của Đảng và NN ta và những gì còn khuyết điểm,
tồn tại cũng cho phép chúng ta có những bài học kinh nghiệm quí báu cho tiến
trình phát triển tiếp theo. Trong phần này, chúng tôi xin trình bày thực trạng
TTCK VN, từ đó phân tích những ảnh hưởng cở bản của TTCK tới sự phát triển
của nền kinh tế giúp các bạn có cái nhìn chi tiết hơn về TT này.
Một là, đã xây dựng được một TTCK hoạt động theo 2 hình thức: Sở giao
dịch TP Hồ Chí Minh (tập trung) và Sàn giao dịch Hà Nội (phi tập trung_OTC).
Hoạt động của TTCK mặc dù chưa phát triển như mong muốn song bước đầu đã
được triển khai khá suôn sẻ, không gây ra những biến động lớn hoặc tác động
tiêu cực tới đời sống kinh tế-xã hội của đất nước.
Hai là, TT đã huy động một khối lượng vốn nhất định cho cả phía doanh
nghiệp cũng như cho ngân sách Nhà nước. Thể hiện ở 1050 phiên giao dịch liên
tục an toàn, giá trị chứng khoán giao dịch đạt 31.700 tỷ đồng, năm 2004 giá trị
giao dịch đạt 80 tỷ đồng/phiên (Tp HCM). TT GDCK Hà Nội đã tổ chức đấu
thầu cho 11 doanh nghiệp đạt kết quả tốt, có 6 công ty đăng kí giao dịch với giá
trị là trên 1.420 tỷ đồng. Trên TTCK có 5 công ty niêm yết phát hành thêm cổ
phiếu để mở rộng sản xuất, tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ
đồng.

Đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ trên 29.000 tỷ đồng
TPCP, trái phiếu quĩ hỗ trợ đã niêm yết trên thị trường.
Từ những số liệu này ta thấy được sự có mặt của TTCK đã có những tác
động tích cực đến sự phát triển của kinh tế bởi nó đã và đang thực hiện vai trò
16
phân phối và tái phân phối vốn. Về phía Chính phủ, với hình thức phát hành trái
phiếu, CP đã tăng nguồn thu ngân sách của mình để đầu tư vào các công trình
phúc lợi, các công trình công cộng là nền tảng để kinh tế phát triển hoặc giải
ngân cho các ngành mũi nhọn ưu tiên phát triển trong chiến lược của NN. Trái
phiếu là một công cụ nợ, một hình thức đi vay mới, huy động được vốn nhàn rỗi
trong dân và các nhà đầu tư nước ngoài. Hình thức này buộc CP phải quan tâm
nhiều hơn tới hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn. Về phía doanh nghiệp, tham
gia TTCK là một cách thức mới để huy động vốn bên cạnh việc đi vay ngân
hàng như trước. Đi vay ngân hàng, doanh nghiệp phải chịu nhiều ràng buộc chặt
chẽ để được vay và phải trả vốn vay gốc và lãi trong một thời hạn nhất định,
thường là ngắn và trung hạn. Thêm vào đó là việc phải giải trình kế hoạch đầu
tư của mình trước khi vay được vốn, khiến doanh nghiệp mất nhiều thời gian và
công sức. Ngược lại, khi tham gia vào TTCK, doanh nghiệp chuyển từ vị trí là
người nợ sang người đồng sở hữu vốn với các cổ đông nên sức ép trả nợ đã
giảm đi, bên cạnh đó doanh nghiệp cũng chủ động hơn trong việc sử dụng vốn.
Muốn có được uy tín trên TTCK, bản thân các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện
mình và công khai tình hình sử dụng tài chính cũng như các thông tin khác có
liên quan. Việc làm ăn của doanh nghiệp sẽ trở nên minh bạch hơn, đồng vốn
được sử dụng hiệu quả nhất. Tham gia TTCK phần nào tách rời chủ sở hữu và
người quản lý trong doanh nghiệp. Đối với các DNNN, hoạt động của TTCK
góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN và áp dụng những thông lệ tốt
nhất trong quản trị công ty: thực hiện công khai thông tin về hoạt động sản xuất
kinh doanh và quản trị DN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho sự phát triển bền
vững của DN. Hơn nữa khi tham gia TT này DNNN đã giảm được gánh nặng
vốn cho NN bởi đã phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên TT. Từ những thuận lợi

mà TTCK tạo cho doanh nghiệp, khả năng phát triển và phát triển nhanh chóng
trong tương lai của các doanh nghiệp này chính là cơ sở, là nền tảng, là nhân tố
cốt yếu cho nền kinh tế phát triển. Về phía nhà đầu tư, hiện nay chủ yếu là các
cá nhân, TTCK là một hướng đầu tư mới, đầy hấp dẫn bên cạnh các thị trường
17
đầu tư truyền thống trước đây như thị trường bất động sản là một ví dụ. TT này
đã thu hút được 24 nghìn tài khoản tương đương với 24 nghìn nhà đầu tư, trong
đó có 246 nhà đầu tư có tổ chức và 251 nhà đầu tư nước ngoài. Hình thức đầu tư
chứng khoán đã giúp họ tăng thu nhập nhanh chóng, đây cũng là một nhân tố
kích cầu cho nền kinh tế.
Ba là, trong khoảng thời gian 5 năm, hàng hóa trao đổi trên TTCK - chứng
khoán là khá đa dạng và UBCK NN rất nỗ lực xây dựng kế hoạch chương trình
phát hành các loại chứng khoán mới. Ngoài cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái
phiếu chính phủ, chứng chỉ quĩ đầu tư chiếm 11%. Tổng giá trị chứng khoán
được niêm yết trên thị trường là hơn 31 nghìn tỷ đồng tương đương 0.6% GDP
của năm 2004 (gần bằng đóng góp của ngành nông lâm nghiệp vào GDP,
0.8%). Trái phiếu chính phủ được huy động và niêm yết trên TT đạt 29.000 tỷ
đồng. Gần đây nhất, UBCK NN phát hành TPQT trên TTCK phố Wall (Hoa
Kỳ) và bán hết veo sau 30s, đây là một thành công ngoài mong đợi (giá trị TP
bán được là 750 triệu USD, trong đó lượng đăng ký đặt mua lên tới 4,6 tỷ USD
nhiều gấp 6 lần so với dự kiến và hầu hết các nhà đầu tư đăng ký mua chỉ mua
được 20%). Sau lần phát hành này, nhiều kinh nghiệm đã được đúc rút và
hướng tới trong tương lai các doanh nghiệp đều có quyền phát hành TPQT trên
thị trường thế giới nếu đảm bảo được các yêu cầu nghiêm ngặt của UBCKNN.
Như vậy, TPQT mà Việt Nam phát hành- một công cụ nợ hữu hiệu đã thay thế
cho cách đi vay truyền thống từ trước tới nay. Đây sẽ là một tác nhân kích thích
chúng ta sử dụng đồng vốn hiệu quả hơn, góp phần phát triển kinh tế.
Bốn là, đã xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian hoạt động
trên thị trường chứng khoán, bao gồm các công ty chứng khoán, các tổ chức lưu
ký, ngân hàng lưu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán như NH Đầu tư phát triển.

Và có 2 NH trong nước và 3 NH nước ngoài được tham gia vào hoạt động
TTCK với tư cách là NH lưu ký, với cơ chế lưu ký chứng khoán tập trung tại
TT GDCK, tuy công nghệ chưa hiện đại song đã đảm nhận được vai trò đăng ký
sở hữu, chuyển giao chứng khoán an toàn, chính xác qua các phiên giao dịch.
18
Các trung gian tài chính đã làm tốt vai trò môi giới mua bán chứng khoán
trên thị trường tập trung, tích cực tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho
công ty trong việc niêm yết và cung cấp thông tin cho nhà đầu tư, thực hiện tốt
thanh toán, bù trừ các giao dịch chứng khoán trên thị trường.
Năm là, Chính phủ cùng Bộ Tài chính thực hiện nhiều điều chỉnh về khung
pháp lý nhằm khuyến khích TTCK phát triển.
Sự kiện đầu tiên phải kể đến là UBCK Nhà nước từ vị trí là cơ quan thuộc
Chính phủ (Nghị định số 75CP ngày 28/11/1996) chuyển sang là cơ quan thuộc
Bộ Tài chính (Nghị định 66/2004/NĐ-CP). Sự kiện này khiến cho việc quản lý,
kiểm soát và phát triển TTCK trở nên có hệ thống hơn, đặc biệt là gắn kết được
TTCK với thị trường tài chính, thị trường tiền tệ.
UBCK Nhà nước với tư cách cơ quan quản lý trực tiếp điều hành TTCK đã
có nhiều nỗ lực trong việc hoạch định chính sách, xây dựng cơ sở vật chất đào
tạo cán bộ và tuyên truyền phổ cập kiến thức ra công chúng: chính sách về thuế,
quản lý ngoại hối, kiểm toán, kế toán…Năm 2004 đánh dấu một bước chuyển
mình mới của TTCK mà một trong những điẻm đáng chú ý là sự bổ sung và
thay đổi một loạt các “luật chơi”. Trước tiên là việc ban hành thông tư hướng
dẫn Nghị định 144/2003/NĐ-CP_khung pháp lý cao nhất và quan trọng nhất về
chứng khoán và TTCK. Tiếp đến là việc ban hành Nghị đinh 187/2004/NĐ-CP
thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Những thay đổi và bổ sung này góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy TTCK phát
triển.Năm 2005, UBCK Nhà nước đã đề ra chương trình hành động tương đối
cụ thể và thiết thực. Trong đó nổi bật nhất là: rà soát, chỉnh sửa các chế độ,
chính sách để phát triển thị trường, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho thị
trường, tăng chất lượng hàng hóa cho thị trường

Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các chính sách mới ra đời cho thấy
những động thái mới nhằm thu hút nhiều hơn nữa. Để tháo bỏ giới hạn về số
lượng cổ phiếu nhà đầu tư nước ngoài được mua bán, Bộ Tài chính đã có công
văn đề xuất Chính phủ yêu cầu Bộ KH&ĐT công bố danh mục ngành nghề lĩnh
19
vực cụ thể cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia tối đa 30% vốn đầu tư theo
quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Chính phủ cũng cho phép
nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu tối đa 49% cổ phiếu của công ty niêm yết
như chất xúc tác tác động mạnh đến giá chứng khoán, đây là đòn bẩy quan trọng
trong việc vực dậy TTCK. Nếu chúng ta vẫn giữ nguyên tỷ lệ 30% có nghĩa là
các công ty niêm yết có chất lượng tốt đều hết room cho nhà đầu tư nước ngoài
(tỷ lệ này đã được lấp đầy). Các nhà đầu tư nước ngoài gần như tạm thời bị loại
khởi cuộc chơi trong lúc các nhà đầu tư cá nhân vẫn đang tiếp tục vắng bóng
trên TTCK. Các chính sách về sự tham gia của các bên giao dich nước ngoài sẽ
tiếp tục được hoàn thiện theo hướng phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
Chắc chắn trong thời gian tới TTCK sẽ sôi động vì động thái tích này từ phía
Chính phủ.
Hiệp hội chứng khoán được thành lập từ năm 2004. Với vai trò, nhiệm vụ
của mình, hiệp hội chứng khán đã tham gia với UBCKNN trong việc xây dựng
khuôn khổ pháp lý, đào tạo tuyên truyền và giám sát hoạt động của các thanh
viên.
Với tình hình bối cảnh khó khăn thì những kết quả nói trên của TTCK là
đáng khích lệ, góp phần hoàn chỉnh thể chế KTTT ở Việt Nam . Những thành
tựu đó đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận với phần thưởng cao quý là huân
chương lao động hạng nhì cho UBCKNN.
Sáu là, UBCK NN đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức quốc tế
các UBCK các nước (IOSCO) từ năm 2001, đã có quan hệ chặt chẽ với các tổ
chức quốc tế như: WB, ADB trong việc thu hút các nguồn tài trợ để phát triển
TTCK, đặt quan hệ song phương hợp tác với nhiều nước, trong đó đã kí biên
bản ghi nhớ với Trung Quốc trong việc hợp tác trao đổi thông tin cũng như hợp

tác quản lý TTCK, tổ chức các cuộc gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm với các
chuyên gia cao cấp của các cơ quan có uy tín như: cơ quan phát triển quốc tế
Hoa Kỳ, Ngân hàng phát triển Châu á
3.2 Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân tồn tại hạn chế.
20
TTCK là một kênh huy động vốn hiệu quả, đảm bảo cho hệ thống tài chính
phát triển một cách vững chắc và đầy đủ nhất, góp phần tăng cao tốc độ phát
triển của nền kinh tế. Nhưng nếu TTCK không được phát triển và hoạt động
trong những điều kiện tốt nhất thì ngược lại, nó sẽ làm cản trở sự phát triển kinh
tế và gây xáo trộn trong hệ thống tài chính. Sau 5 năm hoạt động, TTCK Việt
Nam vừa xây dựng vừa hoàn thiện từng bước nên khó tránh khỏi những hạn
chế, vì vậy đóng góp của nó vào GDP còn khiêm tốn, chỉ tương đương 0,6%.
Việc tìm ra giải pháp để khắc phục những hạn chế sau đây đòi hỏi cả thời gian,
công sức của các nhà hoạch định chính sách vĩ mô.
3.2.1 Hệ thống pháp luật còn hạn chế.
Trước hết là cơ chế hoạt động của TTCK chưa thực sự hoàn chỉnh, các văn
bản pháp quy ở mức thấp vì vậy không bao trùm được hết phạm vi hoạt động
của thị trường, việc phân định trách nhiệm quản lý, giám sát hoạt động thị
trường giữa UBCKNN và các tổ chức tự quản chưa rõ ràng. Đảng và Chính phủ
chủ trương phát triển hệ thống thị trường tài chính, trong đó có thị trường vốn,
TTCK; tuy nhiên trong điều hành thực tiễn thì hệ thống thị trường bị chia cắt:
thị trường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước quản lý, thị trường bảo hiểm do Bộ
Tài chính điều hành, TTCK do UBCKNN giám sát. Các Bộ ngành đều xây
dựng chiến lược phát triển của ngành mình, song chưa có sự tổng hợp thống
nhất chiến lược phát triển thị trường tài chính nói chung. Vì vậy, định hướng và
các giải pháp thực hiện thiếu đồng bộ; chưa coi việc phát triển thị trường vốn,
TTCK là khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thêm vào đó, một nguyên nhân căn bản gây ra sự cản trở cho sự phát triển
TTCK Việt Nam là do những hạn chế trong hệ thống pháp luật và thực hiện

pháp luật bảo vệ quyền lợi cổ đông tại các công ty cổ phần. Những hạn chế này
tạo ra hai rào cản cho TTCK. Thứ nhất, nếu các quyền lợi của cổ đông (nhà đầu
tư) không được đảm bảo, nhà đầu tư sẽ không đầu tư vào cổ phiếu mà chuyển
sang các lĩnh vực đầu tư khác an toàn hơn hoặc tính rủi ro dễ kiểm soát hơn.
21
Khi việc thu hút vốn trở nên khó khăn thì các doanh nghiệp sẽ chuyển sang hình
thức huy động vốn bằng vay ngân hàng. Kết quả là hệ thống ngân hàng phát
triển thay thế cho TTCK. Thứ hai, xuất phát từ phía cung, là cổ đông chi phối,
người điều hành của các công ty cổ phần sẽ tận dụng các yếu kém của hệ thống
pháp luật hiện hành trong việc bảo vệ quyền lợi cổ đông để duy trì quyền kiểm
soát của các nhân trong công ty mình. Kết quả là chủ doanh nghiệp đó muốn
duy trì cổ phần chi phối, không muốn đa dạng hóa hình thức sở hữu thông qua
phát hành cổ phiếu. TTCK vì vậy cũng không phát triển được.
3.2.2 Hạn chế từ bản thân TTCK.
Quy mô thị trường nhỏ bé, với 0.6% GDP thì TTCK chưa góp được nhiều
cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các chứng khoán niêm yết và giao dịch
trên TTCK chưa phải là cổ phiếu, trái phiếu của các công ty lớn đại diện cho
nền kinh tế.
Cơ sở vật chất kỹ thuật đầu tư cho TTCK đặc biệt là hệ thống công nghệ
thông tin của các TTGDCK, công ty chứng khoán, NH lưu ký còn ở trình độ
thấp.
Năng lực trình độ của cán bộ quản lý, cán bộ hoạch định chính sách, các
nhân viên hành nghề chưa đáp ứng được với yêu cầu phát triển lâu dài của thị
trường. Việc đào tạo, phổ cập kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công
chúng đã làm nhiều nhưng chưa đủ.
Chi phí cố định cho hoạt động của một hay nhiều TTCK khá cao đối với một
nước phát triển như Việt Nam . Nguyên nhân có thể do: “ Đạo đức nghề nghiệp
chưa được quan tâm”. Một số công ty chứng khoán chỉ quan tâm đến chuyện
thu phí, làm sao “đánh bóng”, “thổi” DN lên để phát hành cổ phiếu giá cao rồi
“đem con bỏ chợ” với những con số thua lỗ triền miên khiến các nhà đầu tư bất

bình. Sự sống còn của TTCK phụ thuộc vào các nhà đầu tư mất niềm tin từ họ
TTCK sẽ còn gì?
Khác với các TTCK của các nước khác, ở Việt Nam còn đưa ra mức giá trần
đối với mỗi loại cổ phiếu đã được niêm yết. Chính vì thế dẫn đến tình trạng
22
“Chợ đen” xuất hiện và giá trên sàn giao dịch thấp hơn giá của chính cổ phiếu
đó ở “chợ đen”.
3.2.3 Về phía các công ty cổ phần tham gia TTCK.
DN hiện nay vẫn còn e ngại khi tham gia vào TTCK một nguyên nhân tưởng
chừng rất “vô lý” nhưng lại hết sức quan trọng là “sức ì” của DN. Việc coi
TTCK là một kênh huy động vốn vẫn là khá mới mẻ khi DN
p�������������������������������
��������������������������������
��������������������������������
��������������������������������
��������������������������������
��������������������������������
��������������������������������
��������������������������������
�hấp nếu “ lên sàn” khác nào “vạch áo cho người xem lưng”. Cuối cùng thủ
tục để các DN có thể lên sàn và được niêm yết khá phức tạp và chặt chẽ, chỉ có
số ít đáp ứng được.
Việc huy động hàng cho TTCK khó khăn, có rất nhiều công ty đã cổ phần
hoá xong nhưng chưa đủ điều kiện để ra nhập thị trường( niêm yết) trên TTCK.
Nguyên nhân do các điều kiện niêm yết “Quá cao” mà doanh nghiệp phải đối
mặt vd mức vốn điều lệ để ra nhập là 10 tỷ đồng trở lên, điều này không phải
doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được.
Về minh bạch thông tin, theo đánh giá của World Bank, nếu thang điểm
đánh giá mức độ công khai thông tin qua điều tra về môi trường kinh doanh tại
157 quốc gia là từ 1 đến 6 (càng cao thì càng minh bạch) thì Việt Nam được xếp

hạng 1 thấp hơn tất cả các nước trong khu vực trừ Campuchia (hạng 0). Chỉ số
23
của một số các quốc gia khác là Malaysia hạng 5, Thái lan hạng 6, Đài Loan
hạng 6, Indonexia hạng 4, Trung Quốc hạng 4, Singapore hạng 5.
Tính minh bạch của doanh nghiệp là yếu tố hết sức quan trọng đối với sự
phát triển của TTCK, nếu không muốn nói là sự sống còn của thị trường nhưng
đáng tiếc rằng yếu tố này bị coi nhẹ ở Việt Nam. Các DN ngại cung cấp thông
tin kinh doanh khi niêm yết. Lí do thứ nhất: DN là cổ đông chi phối, người điều
hành của các công ty cổ phần sẽ tận dụng các yếu kém của hệ thống pháp luật
hiện hành trong bảo vệ quyền lợi cổ đông để duy trì quyền lợi cá nhân trong
kiểm soát công ty của mình. Kết quả chủ doanh nghiệp duy trì cổ phần chi phối
và không muốn đa dạng hoá sở hữu qua hình thức phát hành cổ phiếu cũng như
công khai thông tin. TTCK do vậy không thể phát triển vì nhà đầu tư vẫn e ngại
về quyền lợi của mình chưa được đảm bảo. Thứ hai: các doanh nghiệp Việt
Nam còn mang nặng tư tưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, còn trông chờ
vào nguồn vay ưu đãi, không muốn huy động vốn trên thị trường. Nhiều doanh
nghiệp e ngại kiểm toán và công bố thông tin khi niêm yết trên TTCK. Các
doanh nghiệp niêm yết không phải là doanh nghiệp lớn, có khả năng phát triển
hấp dẫn người đầu tư. Ngoài ra, ở một số công ty niêm yết tỷ lệ vốn thuộc sở
hữu nhà nước còn khá cao do vậy khối lượng cổ phiếu thực sự đưa vào giao
dịch rất thấp. Các tổ chức niêm yết chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc
công khai thông tin nên chưa chủ động, tự giác cung cấp thông tin trên thị
trường, chính điều này phần nào ảnh hưởng đến lòng tin và quyết định tham gia
thị trường của người đầu tư.
3.2.4 Số lượng các nhà đầu tư tham gia TTCK còn khiêm tốn.
Nền kinh tế Việt Nam còn khó khăn, thu nhập của đan chúng thấp, chưa có
chính sách phù hợp để khai thác nguồn lực tài chính trong dân, nguồn vốn bị
phân tán để đầu tư vào các tài sản thay thế như tiền gửi ngân hàng, đầu tư bất
động sản ngoại tê
24

Hiện nay hiểu biết về TTCK của người dân còn hạn chế, thiếu xót hoặc
không đầy đủ nên chỉ có một nhóm nhỏ các nhà đầu tư thực sự am hiều, quan
tâm, hứng thú và tham gia thị trường này. Tỷ lệ đầu tư vào chứng khoán còn
quá nhỏ bế, tổng giá trị thị trường mới chiếm khoảng 1,6% GDP.
Hầu hết các nhà đầu tư TTCK ở VN hiện nay chủ yếu là các nhà đầu tư cá
nhân mà thiếu đi các nhà đầu tư có tư cách pháp nhân và do đó không tạo ra một
nền tảng đủ mạnh để làm tăng đáng kể số lượng các công ty được niêm yết và
giá trị luỹ kế của các cổ phiếu lưu hành trên TTCK. Thêm vào đó nhà đầu tư là
cá nhân có xu hướng đầu tư mang tính đầu cơ ngắn hạn và ít quan tâm đến
chiến lược đầu tư dài hạn hơn trên cơ sở những hiểu biết căn bản về hoạt động
kinh doanh của công ty. Điều này giải thích một phần cho sự biến động thường
xuyên của chỉ số VN-Index trong hai năm đầu hoạt động cũng như tình trạng sụt
giảm tiếp theo.
TTCK trong những năm qua chưa thật sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài và nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài. Nguyên nhân là TTCK còn
nhiều bất cập về hệ thống pháp luật và đặc biệt là vấn đề minh bạch hóa thông
tin.
Nói tóm lại, sau 5 năm đi vào hoạt động, những mặt TTCK Việt Nam đạt
được còn rất khiêm tốn. Chính vì vậy nó chưa phát huy hết vai trò và tác dụng
trong nền kinh tế, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế còn nhỏ bé (tổng giá trị thị
trường tương đương 0,6% GDP). Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng TTCK,
nhóm nghiên cứu sin đưa ra một số giải pháp cơ bản sau.
IV. Giải pháp khắc phục những hạn chế của thị trường chứng khoán.
Nhằm khắc phục những hạn chế của TTCK, nhằm đạt được những mục
tiêu đề ra cho TTCK trong tương lai như phấn đấu đến năm 2010 tổng giá trị TT
chiếm 10-15% GDP, phát triển TTCK Việt Nam theo hướng hiện đại hóa,
chúng ta cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây:
4.1 Hoàn thiện mô hình tổ chức thị trường
25
TTCK Việt Nam hiện nay hoạt động dưới sự chỉ đạo và giám sát trực tiếp

của UBCK thông qua Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Sàn
giao dịch chứng khoán Hà Nội. Tuy nhiên cho đến bây giờ hoạt động của các tổ
chức này thực sự vẫn chưa phát huy hết tiềm năng, vai trò và sức mạnh của
mình. Trong tương lai, chúng ta cần nâng cao sức mạnh của UBCK, xây dựng
phát triển trung tâm giao dịch thành phố Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch với
qui mô lớn và Sàn giao dịch Hà Nội trở thành Sàn giao dich OTC thật sự.
Nâng cao năng lực quản lý điều hành và giám sát thực thi của UBCK
thông qua hiệp hội chứng khoán
Một thực trạng chung cho các TT ở Việt Nam hiện nay đó là chịu sự can
thiệp quá sâu của Nhà nước, từ đó làm lu mờ vai trò của các hiệp hội chứng
khoán và TTCK cũng đang chịu chung số phận như thế. Nếu so sánh với các
nước khác ta thấy, ở trên thế giới, Nhà nước cùng Hiệp họi chứng khoán thực
hiện giám sát thị trường, nhưng vai trò Nhà nước chỉ dừng lại ở việc ban hành
Luật và giám sát thi hành Luật. Luật ở đây cũgn được xây dựng thông qua hiệp
hội chứng khoán. Điều này giúp cho TTCK của họ có được những quyết định
mang tính khách quan. Bởi vì, một mặt là bàn tay áp đặt chủ quan của Nhà
nước, một mặt ý kiến khách quan của thị trường tác động đến nền kinh tế. ậ Việt
Nam, hiệp hội chứng khoán chưa thực sự phát triển và có ảnh hưởng. Do đó
trong tương lai cần nhanh chóng phát triển hiệp hội chứng khoán cả về quy mô,
chất lượng lẫn mở rộng phạm vi điều hành để đưa TTCK Việt Nam đi đúng
hướng thông qua những điều chỉnh mang tính chuyên môn cao và thay Nhà
nước theo sát TTCK hàng ngày, hàng giờ. Nếu giải pháp này được thực hiện,
coi như chúng ta đã có phần khung và những chỉ dẫn cơ bản cho TTCK Việt
Nam phát triển nhanh chóng.
4.2 Hoàn thiện môi trường thể chế cho TTCK
Môi trường thể chế bao gồm hành lang pháp lý và hệ thống các chính
sách.

×