Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

giảm nghèo theo hướng bền vững ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.16 KB, 91 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quan tâm đến việc trợ giúp nhân dân thoát khỏi đói nghèo là một
nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta luôn đặt lên hàng đầu trong
suốt gần 70 năm qua (từ tháng 9 năm 1945).
Trải qua hai cuộc chiến tranh, sau một thời gian mắc một số sai lầm chủ
quan, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới (năm 1986) với nhiều khó khăn,
thách thức. Trong đó phải kể đến tình trạng một bộ phận nhân dân liên tục bị
thiếu lương thực, bị đói trong thời gian dài. Trước thực tế đó, nhiều địa
phương đã chủ động tìm cách cải thiện đời sống người dân mà đi đầu là
Thành phố Hồ Chí Minh (năm 1991), sau đó được triển khai trên diện rộng,
lan tỏa ra nhiều địa phương khác và trở thành phong trào xóa đói giảm nghèo
trên phạm vi cả nước.
Từ thực tiễn phong trào xóa đói giảm nghèo ở các địa phương, đến năm
1998, Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo được Chính phủ
phê duyệt. Đây là lần đầu tiên xóa đói giảm nghèo trở thành một chính sách được
đưa vào lập kế hoạch thường kỳ và được thực hiện như một phần quan trọng của
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước cũng như của các địa phương.
Từ đó đến nay, công cuộc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã trải
qua ba giai đoạn: 1998 - 2000, 2001 - 2005 và 2006 - 2010 với những thành
công nhất định, tỷ lệ hộ đói nghèo của cả nước giảm xuống còn 13% năm
2000, 7% năm 2005 với chuẩn nghèo tương ứng. Từ 2006 đến nay với việc
thực hiện nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo như Chương trình mục tiêu
quốc gia giai đoạn 2006 - 2010, Chương trình 135, Nghị quyết 30a của Chính
phủ… chúng ta đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ trong công tác xóa
đói giảm nghèo, được cộng đồng quốc ghi nhận và đánh giá cao; đã nâng cao
đáng kế đời sống nhân dân nói chung và người nghèo nói riêng.
1
Tuy nhiên, công cuộc giảm nghèo ở Việt Nam vẫn đang đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức, trong đó đặc biệt kể đến tính không bền vững của
công tác giảm nghèo. Nguy cơ tái nghèo rất cao, hơn nữa có nhiều hộ gia đình


không thuộc nhóm hộ nghèo nhưng thu nhập bình quân của họ nằm sát ngay
trên chuẩn nghèo, chỉ cần một rủi ro như ốm đau, dịch bệnh, thiên tai, lạm
phát… Thì ngay lập tức có hàng vạn hộ “rơi” vào nhóm hộ nghèo. Điều này
đặt ra vấn đề phải làm thế nào để tăng tính bền vững trong công tác giảm
nghèo và đảm bảo sự bền vững của kết quả nghèo trong thời gian tới, tính
theo giai đoạn 2010 - 2015 và giai đoạn 2015 - 2020 khi nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp.
Thực tế trên đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc cần phải tiếp tục nghiên
cứu cả về lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện và tăng cường tính bền vững
trong xây dựng, thực hiện các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo,
cũng như công tác triển khai, tổ chức thực hiện. Cần có những phân tích, đánh
giá để tìm nguyên nhân của những thành công, thất bại trong quá trình thực
hiện công tác giảm nghèo để từ đó nâng cao tính bền vững của công cuộc xóa
đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Hơn thế nữa, mặc dù ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu
về các vấn đề lien quan đến xóa đói giảm nghèo nhưng các công trình chưa
hoặc không nhấn mạnh vào giảm nghèo theo hướng bền vững.
Vì vậy, “Giảm nghèo theo hướng bền vững ở Việt Nam” được tác giả
chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về công tác xóa đói
giảm nghèo nói chung, đề ra các cơ chế, chính sách cũng như tổ chức thực
hiện các chương trình giảm nghèo. Một số công trình như sau:
Những giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của hộ nông dân nghèo
vùng bằng Sông Hồng, luận án TS của nghiên cứu sinh Lê Thị Nghệ, Bộ NN
và PTNT bảo vệ năm 1995 tại Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội.
2
Đóng góp: Đã đưa ra những giải pháp giảm nghèo mang tính vùng
miền dầu tiên ở nước ta.
Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động để góp phần xóa đói giảm

nghèo ở nông thôn Việt Nam, luận án TS của nghiên cứu sinh Vũ Thị Biểu,
Bộ LĐTB và XH, bảo vệ năm 1996 tại Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
Đóng góp: Đã đưa ra những đề xuất giảm nghèo thông qua việc nâng
cao hiệu quả sử dụng lao động.
Tín dụng cho người nghèo các quỹ xóa đói giảm nghèo ở nướ ta hiện
nay, luận án tiến sĩ của NCS Nguyễn Trung Tăng, bảo vệ tại Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2002.
Đóng góp: Đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
tín dụng cho nông dân nghèo.
Shanks, Edwin, và Carrie Turk, 2002, "Policy Recommendations
from the Poor", tổng hợp các kết quả điều tra, báo cáo khoa học chuẩn bị cho
Nhóm hành động chống nghèo đói, đưa ra các khuyến nghị chính sách ban
đầu cho việc xây dựng Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Xoá đói giảm
nghèo (CPRGS) của Việt Nam.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo ở vùng Tây bắc
giai đoạn 2006 - 2010, luận văn Thạc sĩ của học viên cao học Ngô Xuân
Quyết, bảo vệ tại Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2006.
Đóng góp: Đã đưa ra những giải pháp xóa đói giảm nghèo mang tính
khu vực.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu, bài báo, tạp chí, đề tài
nghiên cứu khác bàn về nhiều khía cạnh khác nhau của XĐGN.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề
xóa đói, giảm nghèo, tuy nhiên các công trình đó đều nghiên cứu hoặc một
phạm vi rất rộng hoặc đi vào nghiên cứu một lĩnh vực rất cụ thể của đói
nghèo hay nghiên cứu đưa ra giải pháp mang tính đặc thù ở một vùng kinh tế
hoặc tại một địa phương. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu
3
một cách tổng thể về công cuộc giảm nghèo, trên cơ sở đó đề xuất những giải
pháp mang tính bền vững cao và định hướng chúng phục vụ những định
hướng xuyên suốt, lâu dài phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội đất

nước từ nay đến năm 2020. Đặc biệt, quan niệm, nội dung của thuật ngữ
“giảm nghèo bền vững” cho đến nay vẫn là một khoảng trống trong nghiên
cứu khoa học, mặc dù nó đã được sử dụng khá phổ biến và rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng và tại nhiều cuộc hội thảo, hội nghị và các
nghiên cứu khoa học bàn về vấn đề nghèo đói.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công cuộc giảm nghèo và giảm
nghèo theo hướng bền vững ở Việt Nam trong thời gian qua. Tổng kết, đánh
giá, phân tích tình hình thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là
giảm nghèo theo hướng bền vững ở Việt Nam thời gian qua. Từ đó đề xuất
một số giải pháp tác động đến công tác giảm nghèo ở Việt Nam nhằm đạt
hiệu quả giảm nghèo cao và bền vững trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về giảm nghèo và giảm nghèo
bền vững.
- Làm rõ sự cần thiết và tính tất yếu phải giảm nghèo và giảm nghèo
theo hướng bền vững; những nhân tố ảnh hưởng đến giảm việc thực hiện công
tác giảm nghèo và mục tiêu giảm nghèo bền vững.
- Tìm hiểu kinh nghiệm giảm nghèo ở một số quốc gia trên thế giới, từ
đó rút ra bài học cho Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện công tác giảm nghèo và giảm
nghèo theo hướng bền vững ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó tổng
kết những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp để công tác giảm nghèo đạt hiệu quả cao và
đảm bảo mục tiêu giảm nghèo bền vững trong thời gian tới.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giảm nghèo và giảm nghèo theo
hướng bền vững ở Việt Nam.

Nghiên cứu tình hình thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt
Nam nói chung.
Nghiên cứu tính bền vững trong công tác giảm nghèo của Việt Nam.
Nghiên cứu nguyên nhân tác động đến tính bền vững trong công tác
giảm nghèo ở Việt Nam và những giải pháp để có thể thực hiện mục tiêu
giảm nghèo bền vững.
* Phạm vi nghiên cứu: Công tác giảm nghèo (qua việc thực hiện các
chính sách, chương trình, dự án) cấp Trung ương. Trong đó tập trung vào việc
giảm nghèo hướng đến đảm bảo tính bền vững, phù hợp với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
* Thời gian nghiên cứu: Từ năm 1998 đến năm 2010 và xu hướng của
công tác giảm nghèo đến năm 2015, 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp chặt chẽ với phương pháp logic;
phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, phương pháp so
sánh, hệ thống hóa cũng được sử dụng để thực hiện mục đích của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về giảm nghèo, giảm
nghèo theo hướng bền vững.
- Phân tích, đánh giá tổng thể tình hình thực hiện công tác giảm nghèo
theo hướng bền vững của Việt Nam từ năm 1998 đến nay và rút ra những
thành tựu đạt được, hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số giải pháp để công tác giảm nghèo trong thời gian tới
đạt hiệu quả cao và đảm bảo mục tiêu giảm nghèo bền vững.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của giảm nghèo theo hướng bền
vững.
Chương 2: Tình hình thực hiện công tác giảm nghèo theo hướng bền

vững ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm, định hướng và một số giải pháp giảm nghèo
theo hướng bền vững ở Việt Nam.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIẢM NGHÈO
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
1.1. Lý luận chung về đói nghèo
1.1.1. Quan niệm về vấn đề đói nghèo, ngưỡng nghèo và các chỉ tiêu
về mức độ nghèo
1.1.1.1. Quan niệm của một số tổ chức quốc tế và Việt Nam về vấn đề
nghèo đói
Mặc dù trên thế giới hiện nay có rất nhiều quan niệm về nghèo đói
được các thiết chế kinh tế quốc tế, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ đưa
ra. Mỗi một quan niệm đưa ra đều dựa trên những nguyên tắc và cách tiếp cận
riêng về nghèo đói, song nhìn chung có thể chú ý vào một số quan niệm chủ
yếu sau:
Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen (Đan Mạch) năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa về nghèo đói
như sau: "Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la
(USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản
phẩm thiết yếu để tồn tại" - đây được coi là quan niệm đói nghèo tuyệt đối.
Bảng 1.1: Tỷ lệ dân số sống dưới 1 đô la Mỹ một ngày ở một số nước
Đầu những năm 90 (%) Cuối những năm 90 (%)
Trung Quốc 31.3 (90) 15.3 (2000)
Mông Cổ 13.9 (95)
Hàn Quốc dưới 2 (2000)
Cam- pu- chia 48.3 (90) 35.5 (2000)
Indonesia 20.6 (90) 8.3 (2000)
Lào 53 (90) 34.6 (2000)

Malaysia 0.5 (90) 0.0 (2000)
Philipines 19.1 (90) 13.2 (2000)
Thái Lan 12.5 (90) 5.2 (2000)
Việt Nam 50.8 (90) 9.6 (2000)
Ấn Độ 52.5 (92) 44.2 (97)
Nguồn: Báo cáo năm 2002 của Liên hiệp quốc.
7
Tuy vậy, cũng có quan niệm khác về nghèo đói mang tính kinh điển
hơn, triết lý hơn của chuyên gia hàng đầu của Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) - ông AbapiSen, người được giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1998
cho rằng: "Nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát
triển của cộng đồng".
Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra quan điểm: Nghèo là một khái niệm
đa chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các
chỉ số dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực
như dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có
quyền phát ngôn và không có quyền lực.
Theo Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á - Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993, "Nghèo là tình trạng
một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của
con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ
phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương". Đây có thể
coi là một định nghĩa chung nhất về nghèo, có tính chất hướng dẫn về phương
pháp đánh giá, nhận diện những nét chính phổ biến về nghèo.
Từ những quan niệm nói trên, có thể thấy rõ đói nghèo gồm những khía
cạnh cơ bản như sau:
- Đầu tiên và trên hết là sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo
một tiêu chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng.
- Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về
giáo dục và y tế.

- Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ
gia đình hay cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hay sức khoẻ.
- Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói, không được tham gia và
không có quyền lực của người nghèo.
8
Đối với Việt Nam, theo quan niệm thông thường thì nghèo đói dùng để
chỉ cả tình trạng nghèo và tình trạng đói. Nhưng thực ra vấn đề nghèo và đói là
hai vấn đề khác nhau: đói được hiểu là tình trạng không đủ nhu cầu về ăn; còn
nghèo là nói đến tình trạng khó khăn chung về việc không có khả năng đáp ứng
các nhu cầu cơ bản, song chủ yếu lại là các nhu cầu về phi lương thực thực phẩm
như nhà ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội.
Khi nghiên cứu về vấn đề nghèo theo cấp độ để xây dựng và ban hành
các chính sách, chương trình giảm nghèo cụ thể, chúng ta còn đưa ra và sử
dụng các thuật ngữ như: hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo.
Các nhà nghiên cứu và quản lý ở nước ta hiện nay cũng thừa nhận và
sử dụng khái niệm nghèo do Uỷ ban Kinh tế - xã hội khu vực châu Á - Thái
Bình Dương (ESCAP) đưa ra nói trên và đây cũng là quan điểm của tác giả
luận văn. Theo tác giả luận văn, đây là định nghĩa chung nhất về đói nghèo vì
vậy khái niệm nghèo trong luận văn này được hiểu là: tình trạng một bộ phận
dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà
những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh
tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
1.1.1.2. Quan niệm về ngưỡng nghèo
Khi nghiên cứu về vấn đề nghèo, cần có một thước đo cụ thể và phải
bao hàm 3 yếu tố: Lựa chọn tiêu chí nghiên cứu và chỉ số phúc lợi; Cần lựa
chọn một ngưỡng nghèo: là mức giới hạn mà cá nhân hay hộ gia đình nằm
dưới mức đó sẽ bị coi là nghèo; Chọn ra một thước đo đói nghèo được sử
dụng để phản ánh cho tổng thể hoặc một nhóm dân cư.
Về tiêu chí nghiên cứu, khía cạnh tiền tệ của nghèo đói được phản ánh
qua mức chi tiêu bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người.

Tuy vậy, hiện tại số liệu về chi tiêu được xem là ưu việt hơn vì thu nhập chỉ
làm tăng phúc lợi khi nó được sử dụng cho tiêu dùng chứ không phải tiết
9
kiệm hay trả nợ. Mặt khác, số liệu về thu nhập thường không chính xác, đặc
biệt đối với Việt Nam.
Về ngưỡng nghèo (hay còn gọi là chuẩn nghèo): Là ranh giới để phân
biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Hiện tại ở nước ta, ngưỡng
nghèo được tính bằng tiền. Có hai cách chính để xác định ngưỡng nghèo:
- Ngưỡng nghèo (chuẩn nghèo) tuyệt đối: Là chuẩn tuyệt đối về mức
sống được coi là tối thiểu cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại.
Phương pháp chung để xác định ngưỡng nghèo này là sử dụng một rổ các loại
lương thực được coi là cần thiết để đảm bảo mức độ dinh dưỡng tối thiểu cho
con người. Do vậy ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực
phẩm và thường là thấp vì nó không tính đến chi tiêu cho các sản phẩm phi
lương thực khác.
- Ngưỡng nghèo tương đối (chuẩn nghèo chung): Được xác định theo
phân phối thu nhập hoặc tiêu dùng chung trong cả nước để phản ánh tình
trạng của một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng (ví dụ
ngưỡng nghèo tương đối có thể là 50% mức thu nhập trung bình của cả nước).
Trên bình diện quốc tế, Ngân hàng Thế giới (WB) đã tính toán ngưỡng
nghèo tuyệt đối quốc tế cho các nước có thu nhập thấp là 1USD/ngày và cho
các nước có thu nhập trung bình là 2 USD/ngày. Còn ở Việt Nam, để phân tích,
đánh giá đói nghèo, chúng ta thường sử dụng 2 loại chuẩn nghèo sau:
Thứ nhất, chuẩn nghèo do Tổng cục Thống kê xác định dựa trên các
tiếp cận của WB. Theo cách tiếp cận này, ngưỡng nghèo về lương thực thực
phẩm là 107.234 đồng/người/tháng vào năm 1998 và ngưỡng nghèo chung
(được xác định trên cơ sở ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm và coi đó là
tương ứng với 70% nhu cầu cơ bản, 30% còn lại là các nhu cầu cơ bản tối
thiểu khác) là 149.156 đồng/người/tháng.
Thứ hai, chuẩn nghèo do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB

- XH) xác định mang tính chất tương đối hơn và tiếp cận từ khía cạnh thu
10
nhập, dựa chủ yếu vào khả năng của những tư liệu sẵn có, cụ thể là khả năng
tài chính hỗ trợ cho chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, trên cơ sở đó
xác định chuẩn nghèo là mức thu nhập tối thiểu của từng khu vực, căn cứ vào
nhu cầu chi tiêu và tình trạng và tình trạng giá cả hàng hóa tiêu dùng ở các
khu vực khác nhau. Trong giai đoạn 1998- 2000, Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội đã đưa ra chuẩn nghèo cho từng khu vực như sau: Nông thôn miền
núi, hải đảo: 55.000 đồng/người/tháng; Nông thôn đồng bằng 70.000
đồng/người/tháng và thành thị là 90.000 đồng/người/tháng. Trong giai đoạn
2001- 2005, chuẩn nghèo với từng khu vực như trên được nâng lên là: 80.000,
100.000 và 150.000/người/tháng.
Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006- 2010 với 2 ngưỡng dành cho
hai khu vực: Khu vực nông thôn là các hộ có thu nhập từ 200.000
đồng/người/tháng trở xuống; Khu vực thành thị là 260.000 đồng/người/tháng.
Cùng với đó, Bộ LĐTB - XH cũng đề nghị các chuẩn nghèo đưa ra chỉ là mức
sàn, các địa phương có thể đưa ra mức cao hơn trên cơ sở khả năng của mình.
Tuy nhiên, trong bối cảnh lạm phát tăng cao từ năm 2007 và năm 2008
ước tính trên 25% cho cả hai năm, để đảm bảo nhận diện chính xác hơn về
mức độ nghèo của người dân và có chính sách phù hợp, Chính phủ đã điều
chỉnh chuẩn nghèo lên hai mức là: 300.000 đồng/người/tháng đối với khu vực
nông thôn và 390.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị áp dụng
vào đầu năm 2009. Quy đổi chuẩn nghèo nói trên theo sức mua tương đương
của đồng tiền Việt Nam theo cách tính của thế giới thì chuẩn nghèo này đã
sấp xỉ là 2USD/người/ngày.
Đến đầu năm 2011, chúng ta đã đưa ra chuẩn nghèo áp dụng trong giai
đoạn 2011 - 2015 sẽ là 400.000 đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn
và 500.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị.
11
1.1.1.3. Các chỉ tiêu đo lường mức độ nghèo

Với việc xác định được chuẩn nghèo như trên, chỉ tiêu phổ biến và tổng
quát nhất để đánh giá đói nghèo hiện nay là việc đếm số người sống dưới
chuẩn nghèo hay còn gọi là tỷ lệ hộ nghèo hoặc chỉ số đếm đầu người. Tỷ lệ
nghèo (tỷ lệ hộ nghèo) được tính bằng tỉ lệ phần trăm của số hộ (dân số) có
thu nhập dưới chuẩn nghèo trên tổng số hộ (tổng số dân). Tuy nhiên, để phản
ánh được tính chất gay gắt của nghèo đói và có chính sách cần thiết, hữu hiệu,
người ta còn sử dụng chỉ số “khoảng cách nghèo” hay còn gọi là chỉ số thiếu
hụt (so với chuẩn nghèo).
Khoảng cách nghèo là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người
nghèo so với ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo. Khi
so sánh các nhóm dân cư trong một nước, khoảng cách nghèo cho biết tính
chất và mức độ nghiêm trọng của nghèo khổ giữa các nhóm khác nhau.
Cùng với đó, người ta còn dùng chỉ số bình phương khoảng nghèo, tức
là tăng thêm trọng số cho những nhóm nghèo nhất trong dân số để thể hiện
mức độ nghiêm trọng (hay cường độ) của đói nghèo cho những nhóm người
có khoảng các nghèo lớn hơn trong số những người nghèo.
Cả ba thước đo đói nghèo đều đang được dùng phổ biến ở nước ta và
đều có một tính chất hữu ích chung là nó cho phép phân tách các thước đo
tổng hợp theo vùng hoặc nhóm dân cư. Tuy nhiên, các thước đo trên mới chỉ
tập trung đo lường khía cạnh thiếu thốn về vật chất của người nghèo. Bên
cạnh đó còn có rất nhiều thước đo định tính khác để phản ánh sự thiếu thốn về
y tế, giáo dục, nguy cơ dễ bị tổn thương và tình trạng không có tiếng nói,
không có quyền lực của người nghèo.
Ngoài các chỉ tiêu nói trên, trên thế giới hiện có nhiều chỉ tiêu khác
dùng để đánh giá tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng về kinh tế với các nội
dung và ý nghĩa khác nhau:
12
- Chỉ số nghèo khổ con người (nghèo khổ tổng hợp - HPI), được Liên
Hiệp Quốc đưa ra năm 1997. Chỉ số này nói lên rằng, sự nghèo khổ của con
người ảnh hưởng đến bao nhiêu phần trăm dân số của nước đó. So sánh các

giá trị HDI (chỉ số phát triển con người) và HPI cho thấy sự phân phối thành
tựu của tiến bộ con người.
- Chỉ tiêu hệ số giãn cách thu nhập xác định mức chênh lệnh thu nhập
giữa bộ phận dân cư giàu và nghèo trong xã hội (Ví dụ: Chênh lệch thu nhập
của 20% dân số có thu nhập cao nhất với thu nhập của 20% dân số có thu
nhập thấp nhất).
- Tiêu chuẩn “40” do WB đề xuất năm 2002 xác định tỉ lệ thu nhập
chiếm trong tổng thu nhập dân cư của 40% dân số có mức thu nhập thấp nhất
trong xã hội. Theo chỉ tiêu này, nếu nước nào có thu nhập của 40% dân số có
thu nhập thấp nhất chiếm trên 17% thì đạt mức độ bình đẳng xã hội cao,
tương ứng nếu chiếm từ 12 - 17% thì ở mức tương đối bất bình đẳng lớn.
- Tỉ số Kuznets là chỉ tiêu do nhà kinh tế học người Mỹ gốc Nga đề
xuất trong tác phẩm “Sự tăng trưởng kinh tế của các dân tộc” (năm 1971) khi
nghiên cứu thực nghiệm sự biến động thu nhập của các nước phát triển và
đang phát triển. Tỉ số này được xác định bằng phép chia giữa tỉ trọng thu nhập
của X% dân số giàu và Y% thu nhập của dân số nghèo nhất, nếu tỉ số này
nhận giá trị càng cao thì thể hiện mức độ bất công bằng xã hội cao.
Để đánh giá mức độ nghèo đói và bất bình đẳng kinh tế, bên cạnh các
chỉ tiêu nêu trên, người ta còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân
tích đường cong Lozenz (của nhà thống kê học người Mỹ năm 1905), hệ số
GINI (của nhà thống kê học người Ý năm 1912), hệ số bất bình đẳng Theil L
v.v…
1.1.2. Nguyên nhân đói nghèo
1.1.2.1. Nhóm các nguyên nhân khách quan
Đầu tiên, phải kể đến là do xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta. Là
một nước nông nghiệp lạc hậu, lại phải trải qua hơn 30 năm chiến tranh, bị tàn
phá nặng nề, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và nguồn lực của Nhà nước chưa
13
đáp ứng ngay được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương
cũng như việc đảm bảo đầy đủ các nguồn lực để hỗ trợ người nghèo. Điều này

dẫn đến một số vùng, tỉnh, huyện, xã nghèo không tự tạo ra được những điều
kiện cũng như phát huy tiềm năng của mình để phát triển, do đó làm cho
người dân ở địa bàn cũng phải gánh chịu những khó khăn đó và không thể tự
thoát ra khỏi tình trạng nghèo đói.
Thứ hai, người nghèo ở nước ta bị hạn chế về nguồn lực và các yếu tố
của sản xuất. Nguồn vốn nhân lực bị hạn chế cản trở họ thoát khỏi nghèo đói;
Khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng là một trong những nguyên nhân trì
hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới ;
Thiếu đất sản xuất ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp và bảo đảm an ninh
lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hoá sản xuất, hướng
tới sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi với giá trị cao hơn. Do vậy, đa số
người nghèo bắt buộc phải lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp; thiếu
cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lợi nhuận cao hơn. Vì vẫn theo
phương pháp sản xuất truyền thống nên giá trị sản phẩm và năng suất các loại
cây trồng, vật nuôi không cao, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường và vì vậy
đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó.
Thứ ba, người nghèo còn bị hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ
xã hội cơ bản, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp.
Người nghèo, hộ nghèo thường không có tiền để trang trải chi phí đi
học. Mặc dù đã có chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo và con em
họ song các khoản chi phí khác ngoài học phí hay việc đi học làm mất đi
nguồn lao động nuôi sống gia đình cũng đang là những vấn đề cản trở họ với
các dịch vụ giáo dục, dạy nghề. Cùng với đó, do nhiều văn bản pháp luật có
cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt; mạng lưới các dịch vụ
pháp lý, phí dịch vụ pháp lý cao khiến người nghèo, đồng bào dân tộc ít người
và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không tự giải quyết các vấn
đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật.
14
Thứ tư, người nghèo dễ bị tổn thương khi phải chịu ảnh hưởng của thiên
tai, bão lũ và các rủi ro khác. Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi

những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá
nhân, gia đình hay cộng đồng. Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do
thiên tai khoảng từ 1 - 1,2 triệu người. Số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa
thoát khỏi đói nghèo vẫn còn lớn, do không ít số hộ đang sống bên ngưỡng đói
nghèo và rất dễ bị tác động bởi các yếu tố rủi ro như thiên tai, mất việc làm, ốm
đau, Do đó, việc tìm kiếm các giải pháp giảm nhẹ hậu quả thiên tai được coi
như là một phần quan trọng của quá trình xóa đói giảm nghèo.
1.1.2.2. Nhóm các nguyên nhân chủ quan
Đầu tiên, phải kể đến nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân người
nghèo. Đó là nhận thức của người nghèo về vấn đề nghèo đói còn hạn chế,
bản thân nhiều người nghèo ở nước ta không thể tự mình lý giải được nguyên
nhân nghèo khó của mình, hoặc họ không thừa nhận những nguyên nhân do
bản thân họ gây ra như: đông con, lười biếng… mà họ “đổ vạ” cho số phận,
cơ chế… Do vậy, họ không có ý thức vươn lên, tự cứu lấy bản thân và gia
đình, một bộ phận người nghèo, đặc biệt là người dân tộc thiểu số còn có thói
quen chây lười, ỷ lại vào sự trợ giúp của nhà nước hoặc cộng đồng khi gặp
những rủi ro.
Thứ hai, người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, không có nghề,
ít có cơ hội tìm được việc làm tốt, ổn định. Do vậy, mức thu nhập của họ thấp
và hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có
điều kiện để nâng cao trình độ cũng như có tiền để đi học nghề hay trang bị
hoặc nâng cao kiến thức của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo
khó. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp và không có nghề sẽ ảnh hưởng đến
các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái đến
không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai - nghèo dai dẳng
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
15
Thứ ba, tập quán, thói quen canh tác, sản xuất của người nghèo ở nhiều
vùng còn rất lạc hậu, được truyền từ đời này sang đời khác nên rất khó thay
đổi. Tập quán canh tác lạc hậu, cùng với tư tưởng bảo thủ, cổ hủ, không chịu

tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm làm ăn mới cũng là một trong những
nguyên nhân tự thân, khiến người nghèo, đồng bào dân tộc không thể vươn
lên trong phát triển sản xuất, kinh doanh.
Thứ tư, do quy mô hộ gia đình ở nông thôn, đây là "mẫu số" quan trọng
có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ nghèo.
Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các
hộ gia đình nghèo còn rất cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về
vệ sinh, an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức
khoẻ sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế. Tỷ lệ người ăn theo cao trong
các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực về lao động rất thiếu, đây cũng chính là
một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của họ.
Thứ năm, do tình trạng bất bình đẳng giới còn tồn tại dai dẳng, làm sâu
sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá
nhân phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng thì còn có những
tác động bất lợi đối với gia đình. Phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận với công nghệ,
tín dụng và đào tạo, thường gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia
đình, thiếu quyền quyết định trong hộ gia đình và thường được trả công lao
động thấp hơn nam giới ở cùng một loại công việc Điều này còn gây ra hậu
quả là phụ nữ thường xuyên bị ốm đau, bệnh tật do vất vả và không được đảm
bảo nhu cầu dinh dưỡng cũng như các nhu cầu chăm sóc khác… khiến cho hộ
nghèo càng nghèo.
Ngoài các nguyên nhân nói trên, có thể còn một số nguyên nhân khác
như lười lao động, mắc phải tệ nạn xã hội, nghiện ma tuý
Theo số liệu điều tra hộ nghèo năm 2004 của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, nguyên nhân nghèo đói là do: thiếu vốn sản xuất: 79%; thiếu
16
kiến thức sản xuất: 70%; thiếu thông tin về thị trường: 35%; thiếu đất và
không có đất sản xuất: 29%; ốm đau, bệnh tật: 32%; đông con: 24%; không
tìm được việc làm: 24%; rủi ro: 5,9%; gia đình có người mắc tệ nạn xã hội:
1% [1, tr.86].

1.2. Những vấn đề chung về giảm nghèo bền vững
1.2.1. Quan niệm về giảm nghèo bền vững
Cho đến nay, vẫn chưa có một quan niệm thống nhất về giảm nghèo
bền vững hay giảm nghèo theo hướng bền vững là gì. Tuy nhiên vấn đề giảm
nghèo luôn được đề cập đến khi nói đến phát triển bền vững và giảm nghèo
bền vững là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển bền
vững. Ngược lại, phát triển kinh tế bền vững lại là cơ sở, điều kiện để giảm
nghèo bền vững. Để làm rõ quan niệm giảm nghèo bền vững, trước hết cần
xem xét mục đích và yêu cầu đề ra với giảm nghèo bền vững là gì?
Về cơ bản, giải quyết nghèo đói nói chung trước hết cần đảm bảo cả 2
mặt: số lượng và chất lượng. Số lượng giảm nghèo sẽ là số tuyệt đối hộ nghèo
giảm được trong một thời gian (thường được xem xét trong 1 năm, 5 năm),
cần phân biệt giữa số hộ nghèo giảm với số hộ thoát nghèo, hai khái niệm này
sẽ chỉ đồng nhất với nhau khi không có các yếu tố khác tác động đến như di
chuyển dân cư, tái nghèo ; Chất lượng giảm nghèo là khái niệm để chỉ thực
chất của kết quả giảm nghèo, mà vấn đề cần đạt được là đời sống người nghèo
được nâng lên sau khi có tác động hỗ trợ, khoảng cách thu nhập với các nhóm
dân cư khác được rút ngắn về mặt tốc độ, khi gặp rủi ro hay bất trắc sẽ không
bị rơi lại vào tình trạng nghèo đói, hay nói cách khác, chất lượng giảm nghèo
suy cho cùng là phản ảnh tính bền vững của quá trình giảm nghèo.
Thực tiễn cho thấy, mặc dù tỷ lệ hộ nghèo liên tục giảm (thể hiện về
mặt lượng), tuy nhiên nếu xét về mặt chất lượng thì nhìn chung đại bộ phận
nhân dân ở nông thôn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng núi cao đều có
thu nhập thấp, chỉ đạt trên chuẩn nghèo khoảng 5-10%; trong điều kiện giá cả
17
vật tư cho sản xuất, hàng hoá cho tiêu dùng thiết yếu đều tăng nhanh; dịch
bệnh, thiên tai, lũ lụt xảy ra với quy mô, tần suất lớn, tập trung ở những vùng
nghèo, thiệt hại về sản xuất, tài sản và nhà ở rất lớn, đời sống nhân dân, nhất
là hộ nghèo hết sức khó khăn (tỉnh Hà Tĩnh sau thiên tai, dịch bệnh kết quả
giảm nghèo chỉ còn khoảng 0,7%); khả năng tự phục hồi sau hậu quả dịch

bệnh, thiên tai, lũ lụt của hộ nghèo rất hạn chế, trong khi đó chúng ta lại chưa
có cơ chế, phương thức hỗ trợ tại chỗ của cộng đồng (như quỹ hỗ trợ cộng
đồng ). Mặt khác, tốc độ giảm nghèo còn chưa đồng đều giữa các khu vực,
vùng khó khăn, vùng nghèo chưa có đủ điều kiện để đột phá về giảm nghèo,
tỷ lệ hộ nghèo chênh lệch rất lớn giữa các vùng trên cả nước.
Nhìn chung, để giảm nghèo bền vững các nhà nghiên cứu, các chuyên
gia về kinh tế - xã hội, lao động - việc làm đều cho rằng, cần hỗ trợ phát triển
hạ tầng, hỗ trợ nghề cũng như các điều kiện tiếp cận cơ hội phát triển kinh tế
dựa vào cộng đồng để người nghèo có thể tự vươn lên thoát nghèo và làm
giàu bằng chính khả năng của mình dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội
sẵn có.
Theo PGS. TS.Trần Đình Thiên - Viện trưởng viện Kinh tế Việt Nam:
“không thể giúp người nghèo bằng cách tặng nhà, tặng phương tiện sống
Đây là cách giảm nghèo, xóa nghèo nhanh nhưng chỉ tức thời, không bền
vững. Muốn giảm nghèo, xóa nghèo bền vững thì Nhà nước, cơ quan chức
năng cần phải cấp cho người nghèo một phương thức phát triển mới mà tự họ
không thể tiếp cận và duy trì. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ, ngăn ngừa, loại trừ
các yếu tố gây rủi ro chứ không chỉ là sự nỗ lực khắc phục hậu quả sau rủi
ro. Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo này phải được xác lập trên nguyên tắc ưu
tiên cho các vùng có khả năng, điều kiện thoát nghèo nhanh và có thể lan tỏa
sang các vùng lân cận” [20].
Tác giả luận văn cũng đồng ý với quan niệm trên về giảm nghèo bền
vững. Đây chính là việc tặng “cần câu” thay vì tặng “xâu cá”, bên cạnh đó
18
còn tạo cho họ khả năng tự biết tìm cách nuôi cá thay vì chỉ đi câu…tạo ra sự
chủ động trong việc thoát nghèo bằng chính năng lực của mình chứ không chỉ
trông chờ vào sự hỗ trợ của cộng đồng. Bên cạnh đó cần có biện pháp giúp họ
phòng ngừa rủi ro, để tự họ có thể khắc phục rủi ro như họ có thể tự chuyển
đổi phương thức sản xuất khi phương thức cũ không còn phù hợp, có thể tìm
được việc làm mới, xây dựng lại nhà cửa sau thiên tai Muốn vậy, người

nghèo cần được tiếp cận và duy trì với các loại dịch vụ giáo dục, y tế, văn
hóa, pháp lý… Ngoài ra, những chương trình giảm nghèo đặc thù cho những
đối tượng cụ thể, một số vùng nhằm xác định nhằm tạo sức lan tỏa là hết sức
cần thiết trong điều kiện nguồn lực hạn chế như của chúng ta hiện nay.
Do vậy, quan điểm giảm nghèo bền vững ở nước ta chính là cần nắm
bắt được các xu hướng và đặc điểm vận động của các nhân tố tác động đến
chất lượng của giảm nghèo và giải quyết đồng thời tất cả những bài toán, bất
cập nêu trên.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ bền vững trong giảm nghèo
Để đánh giá mức độ bền vững trong giảm nghèo, không thể chỉ đánh
giá dựa trên số lượng người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo giảm
xuống mà phải căn cứ trên nhiều tiêu chí khác nhau.
- Thu nhập thực tế của người nghèo, hộ nghèo được cải thiện, vượt qua
được chuẩn nghèo, hạn chế tối đa tình trạng tái nghèo về thu nhập. nếu gặp
rủi ro hoặc sự thay đổi của chuẩn nghèo.
- Được tạo cơ hội và có khả năng tiếp cận đầy đủ với các nguồn lực sản
xuất được xã hội tạo ra, các dịch vụ hỗ trợ người nghèo và được quyền tham
gia và có tiếng nói của mình đối với các hoạt động lập kế hoạch phát triển
kinh tế, giảm nghèo cho bản thân và địa phương.
- Được trang bị một số điều kiện "tối thiểu" để có khả năng tránh được
tình trạng tái nghèo khi gặp phải những rủi ro khách quan như thiên tai, lũ lụt,
dịch bệnh… hoặc sự thay đổi của chuẩn nghèo.
19
- Được đảm bảo tiếp cận bình đẳng về giáo dục dạy nghề và chăm sóc
sức khoẻ để về lâu dài, người nghèo, người mới thoát nghèo và con em họ có
được kiến thức, kinh nghiệm làm ăn, tay nghề nhằm tạo ra thu nhập ổn định
trong cuộc sống.
Căn cứ, so sánh với những chỉ tiêu này chúng ta có thể thấy được công
tác giảm nghèo, kết quả giảm nghèo bền vững ở mức độ nào, trên cơ sở đó có
những biện pháp để tăng tính bền vững của giảm nghèo.

1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới giảm nghèo bền vững
Hiệu quả và tính bền vững trong thực hiện giảm nghèo phụ thuộc vào
rất nhiều nhân tố. Trong đó có những nhân tố thuộc về phía người nghèo,
nhân tố từ chính sách, chương trình giảm nghèo, điều kiện kinhh tế - xã hội và
tác động của một số nhân tố khác.
Thứ nhất, về nhận thức
Đầu tiên, phải kể đến quan điểm, nhận thức của các cơ quan, cũng như
của các địa phương trong việc đề xuất, xây dựng và thực hiện chính sách,
chương trình. Giảm nghèo bền vững là vấn đề phức tạp, chỉ có những nhận
thức đúng đắn, thống nhất của các chủ thể hoạch định và thực thi chính sách
mới tạo cơ sở cho việc thực hiện có hiệu chính sách trong thực tiễn. Nhận
thức không thống nhất về giảm nghèo bền vững khác nhau dẫn đến cơ chế
thực hiện khác nhau, mức độ quan tâm, ưu tiên khác nhau. Có những bộ,
ngành, cơ quan quản lý nhà nước cho rằng, tập trung ưu tiên phát triển hạ tầng
cơ sở các vùng nghèo là điều kiện để giảm nghèo bền vững mà không hiểu
rằng, đó là trách nhiệm đầu tư của nhà nước. Nên đã biến cơ chế đầu tư cơ sở
hạ tầng theo kiểu ban phát, xin - cho dẫn đến thất thoát, lãng phí, kém hiệu
quả. Có những địa phương với những kinh nghiệm chủ quan của mình đã sử
dụng các nguồn lực một cách bất hợp lý gây thiệt hại và thậm chí làm giảm đi
khả năng của người nghèo tại địa phương mình. Quan niệm giảm nghèo bền
vững cần phải được chỉ ra rõ ràng, mặc dù ở mỗi địa phương, vùng miền, có
20
thể có những cách làm cụ thể khác nhau, song vẫn cần phải bám sát những nội
dung, tư tưởng của giảm nghèo bền vững đã được chỉ ra.
Thứ hai, về nguồn lực đảm bảo thực hiện chính sách, chương trình,
dự án giảm nghèo
Kinh phí để thực hiện giảm nghèo hiện nay được cân đối chủ yếu từ
nguồn ngân sách Nhà nước. Đồng thời có sự huy động các nguồn khác từ các
tổ chức quốc tế, tổ chức của Chính phủ, phi chính phủ và sự đóng góp của các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

Nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước thường giữ vai trò chủ đạo. Tuy
nhiên, nguồn này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Đối với các quốc gia đang phát triển như nước ta hiện nay thì tốc độ tăng
trưởng kinh tế có vai trò quan trọng đối với nguồn lực giảm nghèo. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, thu ngân sách tăng trong thời gian qua là
một trong những yếu tố đảm bảo tài chính cho giảm nghèo. Nếu chi tiêu cho y
tế, giáo dục, dạy nghề, các chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của
Nhà nước chưa cân đối giữa các cấp hành chính, giữa các vùng miền, giữa các
ngành kinh tế (giữa nông nghiệp với công nghiệp, giữa khu vực nông thôn với
khu vực thành thị) thì tính bền vững của giảm nghèo sẽ bị hạn chế.
Việc đầu tư và dành tỷ lệ đầu tư lớn cho nông nghiệp và khu vực nông
thôn có tác động tích cực đến giảm nghèo. Ngoài việc tập trung đầu tư cho
thuỷ lợi, các trục công nghiệp chính, chính sách đầu tư nếu chú trọng vào các
ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động gắn với khuyến khích kịp thời phát
triển doanh nhiệp nhỏ và vừa sẽ tạo động lực tốt cho giảm nghèo. Đối với các
chính sách như tín dụng, trợ giá, trợ cước nếu chưa đủ mạnh và không đúng
đối tượng sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị
trường ở những vùng sâu, vùng xa. Cùng với đó, việc tập trung đầu tư vào
phát triển giao thông, đường xá đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo sẽ
21
có tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế hàng hoá ở
các địa phương, vùng miền.
Hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng cơ hội thu hút nguồn lực cho giảm
nghèo song cũng làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo đói. Quá trình hội
nhập quốc tế và khu vực một mặt đem lại những sự trợ giúp về tài chính trong
xóa đói giảm nghèo từ các thiết chế tài chính, tín dụng và chính phủ, các tổ
chức phi chính phủ. Những nguồn lực này cùng với các chương trình mang
tính trợ giúp kỹ thuật, điều kiện kết cấu hạ tâng, nâng cao dân trí…nếu được
sử dụng tốt sẽ có vai trò hỗ trợ tích cực đối với giảm nghèo bền vững.
Nguồn nhân lực là một yếu tố rất quan trọng đối với công tác giảm

nghèo. Để thực hiện đồng bộ, hiệu quả hệ thống các chương trình giảm nghèo
rất cần có đội ngũ cán bộ có chuyên môn phù hợp, có tinh thần trách nhiệm
cao, công việc phải được phân công, phân cấp rõ ràng, minh bạch từ Trung
ương tới cơ sở.
Thứ ba, về công tác tổ chức triển khai thực hiện và kiểm tra, đánh
giá việc thực hiện các chương trình giảm nghèo.
Hiệu quả của giảm nghèo được thể hiện thông qua những kết quả mà
việc thực thi chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo mang lại. Thực tế
cho thấy để giảm nghèo bền vững, cần tác động tới người nghèo bằng một hệ
thống chính sách, chương trình đồng bộ có tính lồng ghép cao. Nếu như chính
sách giáo dục, dạy nghề và phát triển nguồn nhân lực góp phần tạo điều kiện,
tiền đề hay nâng cao năng lực, kỹ năng, trang bị kiến thức cho người dân nói
chung và người nghèo nói riêng thì chính sách y tế, khám chữa bệnh lại bảo
đảm cho họ có được sức khoẻ, khả năng tham gia lao động, sản xuất. Còn các
chính sách như an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, cứu trợ xã hội lại là những "giá
đỡ" quan trọng, góp phần ổn định điều kiện sống tối thiểu cho người dân khi
họ phải gánh chịu những tác động bất lợi từ cả khía cạnh kinh tế như mất việc
làm, nghỉ việc đến những tác động do biến động xã hội gây ra và những rủi ro
22
từ các yếu tố khách quan khác như dịch bệnh, thiên tai, bão lũ. Các chương
trình giảm nghèo có tính đặc thù tác động đến một số đối tượng đặc biệt như
Chương trình 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ sẽ có tác động tích cực,
nhanh chóng đến những huyện nghèo, xã nghèo, hộ nghèo nhất trong một
khoảng thời gian ngắn, tạo đà cho họ giảm nghèo nói riêng và giảm nghèo cả
nước nói chung. Do vậy, việc thực hiện đồng bộ các chính sách, chương trình,
dự án giảm nghèo tránh sự chồng chéo là hết sức quan trọng. Bên cạnh đó
việc thiết lập hệ thống chỉ tiêu và phương pháp đánh giá phù hợp cũng rất cần
thiết bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác giảm nghèo.
Khó có thể chỉ ra và liệt kê hết những yếu tố có thể tác động đến nghèo
bền vững. Tuy nhiên, với vai trò quản lý vĩ mô của mình, Nhà nước hoàn toàn

có thể kiểm soát và đưa ra những chính sách tác động nhiều chiều đến giảm
nghèo. Do vậy, để giảm nghèo bền vững cần có một hệ thống chính sách,
chương trình, dự án vừa khuyến khích, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế
gắn với giảm nghèo bền vững, hạn chế tối đa tình trạng tái nghèo vừa bảo
đảm cho người nghèo và nhóm có thu nhập thấp được hưởng lợi nhiều hơn từ
thành quả phát triển kinh tế.
1.2.4. Sự cần thiết phải giàm nghèo bền vững trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội
1.2.4.1. Giảm nghèo bền vững góp phần ổn định chính trị và phát triển
xã hội
Trong một xã hội luôn có sự tăng trưởng cao về kinh tế, sự gia tăng liên
tục của chênh lệnh giàu - nghèo đẩy tới sự bất công, bất bình đẳng trong xã
hội và hệ quả cuối cùng là xung đột xã hội. Điều này đã diễn ra và đang diễn
ra trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Sự tích tụ lợi ích kinh tế, vật
chất, tinh thần thái quá của một nhóm người này đã làm tổn thương đến sự
hưởng thụ vật chất và ích lợi xã hội của một bộ phận khác và đẩy họ vào bần
23
cùng hóa. Kết quả tất yếu dẫn đến sự phản kháng, lật đổ và tái tạo lại sự cân
bằng mới.
Trong điều kiện đó, cách giải quyết làm cho các mâu thuẫn giàu -
nghèo trong xã hội không dẫn đến xung đột vũ trang, gây đổ máu phải là cách
thực hiện chia sẻ lợi ích giữa các bộ phận người giàu và người nghèo trong xã
hội, nghĩa là thực hiện sự phân phối lại về lợi ích vật chất và tinh thần giữa
các nhóm người, cộng đồng thông qua các biện pháp chuyển tải lợi ích từ
nhóm người giàu sang người nghèo, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp. Các biện
pháp này có thể được triển khai ở cấp độ vĩ mô (toàn xã hội) và cấp độ vi mô
(trong một địa phương, một cộng đồng…).
Hiện nay, trên hành tinh chúng ta vẫn còn tới khoảng 1,5 tỷ người đang
sống dưới mức tối thiểu, trong đó tập trung ở chủ yếu ở châu Á và châu Phi.
Đặc biệt, có thể thấy rõ, trong những năm gần đây ở các nước châu Phi, đi liền

trực tiếp với nạn đói nghèo là tình trạng mù chữ, thất học, bệnh tật lây lan, điều
kiện, môi trường sống ngày càng ô nhiễm kéo theo suy giảm trí lực và tuổi thọ.
Đói nghèo đã kéo theo sự gia tăng các tệ nạn xã hội, làm gay gắt thêm những
mâu thuẩn và bất bình đẳng xã hội và dẫn đến mất ổn định chính trị, nội chiến
hay rộng hơn là việc thôn tính cả về chính trị và kinh tế của nước có trình độ
phát triển cao hơn đối với những nước nghèo đói, lạc hậu. Điều này cũng đã
xảy ra ở một số nước châu Á khi Chính phủ không bảo đảm được sự công bằng
tương đối về lợi ích giữa các nhóm người trong xã hội [19, tr.156].
Giảm nghèo bền vững là tiền đề của ổn định và phát triển xã hội. Đây
là vấn đề hàm chứa sâu xa cả các mục tiêu xã hội và nhân văn. Cuộc đấu
tranh lý luận và hệ tư tưởng về quản lý xã hội, lựa chọn con đường, mô hình
phát triển giữa các nước ngày nay chính là cuộc đấu tranh để xem chế độ xã
hội nào có thể giải quyết được tình trạng đói nghèo, lạc hậu, bất công bằng xã
hội hay nói cách khác, chế độ nào có thể giải quyết được đói nghèo bền vững
hơn?. Chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay, nhờ tận dụng được những thành
24
quả của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại nên đã đạt được những bước
tiến lớn trong phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế, trở nên giàu có, phồn
vinh. Song sở hữu phần lớn số của cải mà chế độ đó tạo ra lại chỉ là số phần
trăm nhỏ bé thuộc các thế lực tư sản có khả năng về kinh tế, có khả năng tác
động đến chính trị - xã hội. Còn lại, một bộ phận không nhỏ dân cư vẫn phải
sống trong thất nghiệp và đói nghèo. Chủ nghĩa tư bản từ trong bản chất của nó
không thể giải quyết được nghèo đói xã hội. Phân cực xã hội ngày càng gay gắt
là nghịch lý của phát triển với với hệ thống các quan hệ tư bản chủ nghĩa. Còn
chủ nghĩa xã hội, một chế độ xã hội cao hơn và khác hẳn có khả năng thực hiện
xoá bỏ nghèo đói từ gốc rễ kinh tế của nó là tình trạng người bóc lột người,
phân chia lợi ích không bình đẳng giữa các nhóm người trong xã hội. Với việc
lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội, có thể nói Việt Nam hoàn toàn có đủ tiền
đề để giải quyết vấn đề nghèo đói một cách bền vững [3, tr.68].
Giảm nghèo bền vững là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và

tăng trưởng kinh tế. Xóa đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà
còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xóa hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là
xóa sự nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội
giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Đó cũng chính là giảm nghèo
bền vững. Đó không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ
động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát
nghèo. Giảm nghèo bền vững không chỉ đơn thuần là sự trợ giúp một chiều
của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là
nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo
thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn
“cất cánh”. Do đó, xóa đói giảm nghèo bền vững là một trong những mục tiêu
của tăng trưởng (cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là tiền đề
cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
25

×