Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

nghiên cứu ảnh hưởng của một số kiểu thảm thực vật đến một số tính chất lý, hóa học cơ bản của đất ở xãtân phượng, huyện lục yên, tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.25 MB, 91 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM












TRẦN THẾ HỒNG







NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG
CỦA MỘT SỐ KIỂU THẢM THỰC VẬT
ĐẾN MỘT SỐ TÍNH CHẤT LÝ, HÓA HỌC CƠ BẢN CỦA ĐẤT
Ở XÃ TÂN PHƯỢNG, HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI













LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC






















THÁI NGUYÊN – 2013

ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM










TRẦN THẾ HỒNG








NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG
CỦA MỘT SỐ KIỂU THẢM THỰC VẬT
ĐẾN MỘT SỐ TÍNH CHẤT LÝ, HÓA HỌC CƠ BẢN CỦA ĐẤT
Ở XÃ TÂN PHƯỢNG, HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI




Chuyên ngành: Sinh thái
học

Mã số:
60.42.01.20








LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS. LÊ NGỌC CÔNG















THÁI NGUYÊN - 2013
i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Bản luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, nghiên
cứu khảo sát, thực địa và phân tích dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS - TS.
Lê Ngọc Công.
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày
trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ cho
một học vị nào, phần trích dẫn tài liệu tham khảo đều được ghi rõ nguồn gốc.

TÁC
GIẢ










Trần Thế Hồng
ii

LỜI CẢM ƠN


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS - TS. Lê Ngọc Công, người đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn các cán bộ, nhân viên hạt Kiểm lâm huyện Lục Yên –
Yên Bái đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ chúng tôi trong suốt thời gian tiến hành
điều tra, nghiên cứu ngoài thực địa.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa Sinh – KTNN và các
thầy cô giáo trong khoa đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Yên
Bái; Trường THPT Hồng Quang – Lục Yên – Yên Bái đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi yên tâm học tập và công tác.

Thái Nguyên, ngày 01 tháng 03 năm 2013

TÁC GIẢ







Trần Thế Hồng

iii

MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt v
Danh mục các bảng vi
Danh mục các hình vii
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Phạm vi nghiên cứu 3
4. Đóng góp mới của luận văn 3
Chương

1
-
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
4
1.1. Những nghiên cứu về thành phần loài và dạng sống thực vật 4
1.1.1. Những nghiên cứu về thành phần loài 4
1.1.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống thực vật 6
1.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng qua lại giữa thảm thực vật và đất 9
1.2.1. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của đất tới thảm thực vật 9
1.2.2.Những nghiên cứu về ảnh hưởng của thảm thực vật tới đất 11
1.2.3. Những nghiên cứu về tác dụng cải tạo đất của thảm thực vật 13
Chương


2
-
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN
CỨU
16
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế vùng nghiên cứu 16
2.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới hành chính 16
2.1.2. Địa hình 16
2.1.3. Khí hậu 17
2.1.4. Đất đai 18
2.2. Điều kiện kinh tế xã hội 19
2.2.1 Dân số, dân tộc 19
2.2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội 20
Chương 3 -
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
22
3.1. Đối tượng nghiên cứu 22
3.2. Địa điểm nghiên cứu 22
3.3. Nội dung nghiên cứu 22
3.3.1. Về thành phần thực vật 22
3.3.2. Về môi trường đất 22
iv

3.4. Phương pháp nghiên cứu 23
3.4.1. Phương pháp điều tra 23
3.4.2. Phương pháp thu mẫu 23
3.4.3. Phương pháp phân tích mẫu 25
3.4.4. Phương pháp điều tra trong nhân dân 28
Chương 4 -

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
29
4.1. Thành phần loài, dạng sống, cấu trúc quần xã rừng 29
4.1.1. Thành phần loài thực vật tại các điểm nghiên cứu 29
4.1.2. Thành phần dạng sống tại các điểm nghiên cứu 51
4.1.3. Cấu trúc hình thái của các quần xã nghiên cứu 55
4.2. Đặc điểm hình thái phẫu diện đất trong các quần xã thực vật 61
4.3. Ảnh hưởng của quần xã rừng đến một số tính chất lý, hóa học của đất 63
4.3.1. Ảnh hưởng của quần xã rừng đến một số tính chất lý học của đất 63
4.3.2. Ảnh hưởng của các quần xã thực vật đến một số tính chất hóa học của đất 67
4.3.2.1. Độ chua pH(KCl) 68
4.3.2.2. Hàm lượng mùn tổng số (%) 69
4.3.2.3. Hàm lượng đạm tổng số (%) 69
4.3.2.4. Hàm lượng lân và kali dễ tiêu 70
4.3.2.5. Hàm lượng Ca
2+
và Mg
2+
trao đổi 72
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
75
Kết luận 75
Đề nghị 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
76
PHỤ LỤC
80

v


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ đầy đủ
B Thân bụi
G Thân gỗ
L Thân leo
NN Nông nghiệp
NXB Nhà xuất bản
OTC Ô tiêu chuẩn
PTNT Phát triển Nông thôn
RKE Rừng Keo
RMO Rừng Mỡ
RPH KTK Rừng phục hồi sau khai thác kiệt
RPH SNR Rừng phục hồi sau nương rẫy
T Thân thảo
TĐT Tuyến điều tra
UBND Ủy ban nhân dân
vi

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Phân loại mức độ xói mòn đất 26
Bảng 4.1. Thành phần loài và dạng sống thực vật tại khu vực nghiên cứu 32
Bảng 4.2. Thành phần dạng sống thực vật tại các quần xã nghiên cứu 51
Bảng 4.3. Đặc điểm cấu trúc hình thái của các quần xã nghiên cứu 56
Bảng 4.4.Tổng hợp về thành phần loài, dạng sống, cấu trúc tầng và độ che phủ
của các quần xã nghiên cứu 60
Bảng 4.5. Một số tính chất lý học của đất trong các quần xã nghiên cứu 64
Bảng 4.6. Thành phần cơ giới đất ở các quần xã nghiên cứu 66
Bảng 4.7. Một số tính chất hóa học của đất dưới các quần xã nghiên cứu 67



vii

DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 4.1. Sự biến đổi độ chua pH(KCl) ở các quần xã nghiên cứu 68
Hình 4.2. Sự biến đổi của hàm lượng mùn ở các quần xã nghiên cứu 69
Hình 4.3. Hàm lượng đạm tổng số (%) ở các quần xã nghiên cứu 70
Hình 4.4. Hàm lượng lân dễ tiêu ở các quần xã nghiên cứu 71
Hình 4.5. Hàm lượng kali dễ tiêu ở các quần xã nghiên cứu 72
Hình 4.6. Hàm lượng Ca
++
ở các điểm nghiên cứu 73
Hình 4.7. Hàm lượng Mg
++
ở các điểm nghiên cứu 74


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rừng - lá phổi của hành tinh. Rừng không chỉ là nơi cung cấp nhiều loại
lâm sản quý và là nguồn nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp. Vai trò
quan trọng nhất của rừng đối với trái đất với đời sống con người là vai trò điều
hòa khí hậu. Ngoài ra, Rừng có vai trò quan trọng trong việc hạn chế xói mòn
đất, nhất là xói mòn trên sườn đất dốc, Có thể nói Rừng là tài nguyên vô cùng
quý giá của mỗi quốc gia
Đất là một thành phần quan trọng của hệ sinh thái, đất có ý nghĩa rất lớn

tới khả năng cung cấp nước, muối khoáng, chất dinh dưỡng cho cây. Vì vậy đất
ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng, phát triển của thảm thực vật. Mỗi loại đất sẽ
có một kiểu thảm thực vật riêng. Ngược lại, mỗi kiểu thảm thực vật sẽ đặc trưng
cho một kiểu đất xác định. Các kiểu đất này sẽ khác nhau bởi hàng loạt chỉ tiêu
như: màu sắc, tính chất lí học, hoá học, hệ vi sinh vật và động vật đất.
Đặc tính cơ bản của đất được thể hiện qua độ phì. Độ phì là nhân tố tổng
hợp được quy định bởi nhiều yếu tố: Đá mẹ, thành phần cơ giới, cấu tượng đất, độ
ẩm, độ thoáng khí, độ dày tầng đất, đặc điểm hoá tính. Do đó, độ phì ảnh hưởng
đến nhiều mặt của hệ sinh thái rừng nói riêng cũng như thảm thực vật nói chung.
Đất càng tốt thì độ phì càng cao. Ngược lại thảm thực vật sẽ có tác dụng trở lại với
đất một cách rất tích cực. Nó thúc đẩy cho đất nhanh chóng tăng được độ phì
nhiêu của đất [36].
Trong thời gian gần đây, do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của con người
cũng như những biến đổi của thiên nhiên đã làm cho đất rừng ngày càng bị suy
thoái. Từ đó, đã làm giảm diện tích rừng một cách nhanh chóng. Theo thống kê
của Liên Hợp Quốc, hàng năm trên thế giời có 11 triệu ha rừng bị phá huỷ, riêng
khu vực Châu Á Thái Bình Dương hàng năm có 1,8 triệu ha rừng bị phá huỷ,
tương đương mỗi ngày mất đi 5000 ha rừng nhiệt đới. Hiện nay, diện tích rừng chỉ
còn khoảng 2,9 tỉ ha. Các nhà khoa học đã cảnh báo rằng nếu tiếp tục đà này thì
2

trong vòng 166 năm tới trên Trái đất sẽ không còn rừng nữa [34].
Ở Việt Nam, trong vòng 50 năm qua, diện tích rừng bị suy giảm nghiêm
trọng. Năm 1943 độ che phủ của rừng là 43%, đến năm 1993 chỉ còn 26%.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mất rừng là do chiến tranh, quá trình khai thác
quá mức tài nguyên rừng cùng với phong tục tập quán lạc hậu của các địa
phương như: Du canh, du cư, đốt rừng làm nương rẫy và sự phát triển của ngành
chăn nuôi gia súc đã làm cho diện tích rừng nước ta ngày càng bị thu hẹp.
Từ khi Chính phủ có chỉ thị 286/TTg (02/05/1997) về tăng cường các biện
pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng, cấm khai thác rừng tự nhiên, tốc độ

phục hồi rừng đã trở nên khả quan hơn. Năm 2003 tổng diện tích rừng nước đã là
12 triệu ha, tương đương với và độ che phủ là 36,1%, trong đó rừng tự nhiên có 10
triệu ha và rừng trồng có 2 triệu ha. Tuy vậy vẫn chưa đảm bảo mức an toàn sinh
thái cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Trước thực tiễn đó, để có những nghiên cứu sâu hơn về tính chất của đất,
thấy được ảnh hưởng của thảm thực vật tới đất rừng, chúng tôi tiến hành thực
hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của một số kiểu thảm thực vật đến một
số tính chất lý, hóa học cơ bản của đất ở xã Tân Phượng, huyện Lục Yên,
tỉnh Yên Bái”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được đặc điểm về thành phần loài, thành phần dạng sống, cấu
trúc tầng tán, độ che phủ của các kiểu thảm thực vật nghiên cứu.
- Xác định được những tính chất vật lý, hóa học cơ bản của đất dưới
các kiểu thảm thực vật nghiên cứu, trên cơ sở đó bước đầu đánh giá được tác
dụng bảo vệ đất chống xói mòn và rửa trôi các chất dinh dưỡng trong đất,
nâng cao độ phì của từng kiểu thảm thực vật.
- Đề xuất những biện pháp lâm sinh phù hợp cho một số kiểu thảm
nhằm nâng cao khả năng phục hồi rừng, tăng độ che phủ, góp phần vào việc
vừa có tác dụng bảo vệ môi trường nói chung và môi trường đất nói riêng,
3

vừa tạo ra giá trị kinh tế phục vụ cho cuộc sống con người.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trong năm 2012 tại xã Tân Phượng (huyện Lục
Yên, tỉnh Yên Bái). Do điều kiện hạn chế về thời gian và kinh phí, đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu một số tính chất lý, hóa học cơ bản của đất trong mối quan hệ
với một số kiểu thảm thực vật chọn nghiên cứu mà không nghiên cứu sự tác
động trở lại của các yếu tố môi trường đất đến các kiểu thảm thực vật.
Các khu vực chọn nghiên cứu thuộc xã Tân Phượng đều có những
đặc điểm tương đối đồng nhất như: đá mẹ, địa hình, hướng phơi, sự tác động

của con người và động vật…
4. Đóng góp mới của luận văn
Mô tả đặc điểm hình thái phẫu diện đất ở một số thảm thực vật trong
khu vực nghiên cứu.
Đưa ra các dẫn liệu định lượng góp phần làm sáng tỏ ảnh hưởng của
một số thảm thực vật đến môi trường đất ở vùng đồi xã Tân Phượng, huyện
Lục Yên, tỉnh Yên Bái.
4

Chương

1

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu về thành phần loài và dạng sống thực vật
1.1.1. Những nghiên cứu về thành phần loài
Những nghiên cứu về thành phần loài là một trong những nghiên cứu
được tiến hành từ lâu trên thế giới. Ở Liên Xô (cũ) có nhiều công trình nghiên
cứu của Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp (1933),
Creepva (1978)…Nói chung theo các tác giả thì mỗi vùng sinh thái sẽ hình
thành thảm thực vật đặc trưng, sự khác biệt của thảm này so với thảm khác biểu
thị bởi thành phần loài, thành phần dạng sống, cấu trúc và động thái của nó. Vì
vậy, việc nghiên cứu thành phần loài, thành phần dạng sống là chỉ tiêu quan
trọng trong phân loại loại hình thảm thực vật.
Ramakrisnan (1981 - 1992) khi nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy
ở vùng Tây Bắc Ấn Độ đã khẳng định: chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài
ưu thế đạt cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian
bỏ hoá (Phạm Hồng Ban, 2000 [4])
Longchun và cộng sự (1993) nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh
thái nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận xét: khi

nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài; bỏ hoá 19 năm thì
có 60 họ, 134 chi và 167 loài (Phạm Hồng Ban, 2000 [4])
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về thành phần loài thực vật cũng
rất nhiều. Phan Kế Lộc (1970) đã xác định hệ thực vật miền bắc Việt Nam có
5609 loài thuộc 1660 chi và 240 họ [27]
Thái Văn Trừng (1978) thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 loài thực
vật bậc cao có mạch thuộc 1850 chi, 289 họ [41]
Hoàng Chung (1980) [12] nghiên cứu về đồng cỏ vùng núi phía bắc Việt
Nam đã công bố 233 loài thực vật thuộc 54 họ và 44 bộ.
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1983) khi nghiên cứu hệ thực vật Tây
5

Nguyên đã thống kê được 3210 loài, chiếm gần 1/2 số loài đã biết của toàn
Đông Dương [6]
Phạm Hoàng Hộ (1991 - 1993) [19] trong công trình “Cây cỏ Việt Nam”
đã thống kê được số loài hiện có của hệ thực vật Việt Nam là 10.500 loài, gần
đạt số lượng 12.000 loài theo dự đoán của nhiều nhà thực vật học.
Lê Mộng Chân (1994) điều tra tổ thành vùng núi cao Vườn quốc gia Ba
Vì đã phát hiện được 483 loài thuộc 323 chi, 136 họ thực vật bậc cao có mạch
trong đó gặp 7 loài được mô tả lần đầu tiên [10]
Thái Văn Trừng (1998) [42] khi nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam đã có
nhận xét về tổ thành thực vật của tầng cây bụi như sau: Trong các trạng thái thảm
thực vật khác nhau của rừng nhiệt đới Việt Nam, tổ thành loài của tầng cây bụi
chủ yếu có sự đóng góp của các chi Psychotria, Prismatomeris, Pavetta trong họ
Rubiaceae; chi Tabermontana (họ Trúc đào - Apocynaceae); chi Ardisia, Maesa
(họ Đơn nem - Myrsinaceae); chi Polyanthia (họ Na -Annonaceae); chi Diospyros
(họ Thị - Ebenaceae).
Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) [35] khi tổng kết các công trình nghiên cứu
về khu hệ thực vật ở Việt Nam đã ghi nhận có 2393 loài thực vật bậc thấp và
1373 loài thực vật bậc cao thuộc 2524 chi và 378 họ.

Đặng Kim Vui (2002) [48] nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi
sau nương rẫy để làm cơ sở đề xuất các giải pháp khoanh nuôi làm giàu rừng ở
huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên đã đưa ra kết luận: Đối với giai đoạn phục
hồi từ 1-2 tuổi, thành phần loài thực vật là 72 loài thuộc 36 họ và họ Hòa thảo
(Poaceae) có số lượng lớn nhất là 10 loài. Sau đó đến họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae) 6 loài, họ Trinh nữ (Mimosaceae) và họ Cà phê (Rubiaceae)
mỗi họ có 4 loài Giai đoạn 3-5 tuổi có 65 loài thuộc 34 họ; giai đoạn 5 - 10
tuổi có 56 loài thuộc 36 họ; giai đoạn 11 - 15 tuổi có 57 loài thuộc 31 họ.
Theo danh lục các loài thực vật Việt Nam (2003) [5] đã thống kê được
368 loài Vi khuẩn lam (Tiền nhân-Procaryota); 2176 loài Tảo (Algae); 481 loài
6

Rêu (Bryophyta); 1 loài Quyết lá thông (Psilotophyta); 53 loài Thông đất
(Lycopodiophyta); 2 loài Cỏ tháp bút (Equisetophyta); 691 loài Dương xỉ
(Polypodiophyta); 69 loài Hạt trần (Gymnospermae); và 13.000 loài thực vật
Hạt kín (Anigiospermal), đưa tổng số loài thực vật Việt Nam lên đến hơn
20.000 loài.
Lê Ngọc Công (2004) [14] nghiên cứu hệ thực vật tỉnh Thái Nguyên đã
thống kê các loài thực vật bậc cao có mạch gồm 160 họ, 468 chi, 654 loài, chủ
yếu là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây gỗ quý: Lim, Dẻ, Trai,
Nghiến…
Vũ Thị Liên (2005) khi nghiên cứu một số kiểu thảm thực vật ở Sơn La
đã thu được 452 loài thuộc 326 chi, 153 họ [26].
Thái Văn Thụy, Nguyễn Phúc Nguyên (2005) nghiên cứu về thảm thực
vật Vườn quốc gia Ba Vì đã xác định ở đây có 11 kiểu quần xã thực vật khác
nhau. Trong quần xã cây bụi thứ sinh thường xanh, lá rộng thành phần chủ yếu
là cây gỗ dạng bụi cao từ 2 – 5m [40].
Năm 2010, Lê Ngọc Công nghiên cứu tính đa dạng thực vật bậc cao có
mạch trong 4 trạng thái rừng ở tỉnh Thái Nguyên đã công bố danh lục gồm 733
loài, 465 chi, 145 họ thuộc 5 ngành thực vật bậc cao có mạch. Tác giả cho biết

có 71 loài thực vật có tên trong Sách đỏ Việt Nam (2007), IUCN (2001) và
Nghị định 32/2006/NĐ-CP [15].
1.1.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống thực vật
Dạng sống của thực vật là sự biểu hiện về hình thái cấu trúc cơ thể thực
vật thích nghi với điều kiện môi trường của nó, nên đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Việc nghiên cứu thành phần dạng sống là
một trong những nội dung quan trọng của việc nghiên cứu bất kì một hệ thực
vật nào. Khi nghiên cứu thành phần dạng sống cho ta thấy mối quan hệ chặt
chẽ của dạng sống với điều kiện tự nhiên của từng vùng và sự tác động của
điều kiện sinh thái với từng loài thực vật.
7

I. K. Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật thường
xanh; thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên
mặt đất trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có
thời kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát
triển lâu năm. G. N. Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp
cây nhiều năm và lớp cây hàng năm (Nguyễn Thị Ngọc, 2000 [31])
Trên thế giới có nhiều phương pháp phân loại dạng sống thực vật nhưng
phương pháp phân loại của Raunkiaer (1934) (Trần Ngũ Phương, 1970 [32]) là
được chú ý hơn cả vì nó đảm bảo tính khoa học, đơn giản và dễ áp dụng. Cơ sở
phân chia dạng sống của Raunkiaer thường được sử dụng thông qua các dấu
hiệu vị trí chồi so với mặt đất trong thời gian bất lợi của năm.
Raunkiaer đã chia ra 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Nhóm cây có chồi cao trên mặt đất : Phanerophytes (Ph)
2. Nhóm cây có chồi sát mặt đất : Chamactophytes (Ch)
3. Nhóm cây có chồi nửa ẩn : Hemicryptophytes (Cr)
4. Nhóm cây có chồi ẩn : Criptophytes (Cr)
5. Nhóm cây sống một năm : Theophytes (Th)
Ông đã xây dựng được phổ dạng sống tiêu chuẩn (SB)

SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm
bảo tính khoa học, dễ áp dụng. Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa trên
những đặc điểm cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo,
phương thức sống của thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếutố
môi trường tạo nên. Thuộc về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của thực
vật, đặc điểm qua đông, sinh sản…
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về thành phần dạng
sống của thực vật, cụ thể như sau:
Thái Văn Trừng (1978) [41] cũng áp dụng phương pháp phân loại của
8

Raunkiaer khi phân chia dạng sống của khu hệ thực vật ở Việt Nam.
Lê Trần Chấn (1990) khi nghiên cứu hệ thực vật Lâm Sơn tỉnh Hoà Bình
cũng phân chia hệ thực vật thành 5 nhóm dạng sống chính theo phương pháp
của Raunkiaer. Tuy nhiên tác giả đã dùng thêm ký hiệu để chi tiết hoá một số
dạng sống (a: ký sinh; b. bì sinh; c. dây leo; d. cây chồi trên thân thảo). Tác giả
không xếp phương thức sống ký sinh, bì sinh vào dạng sống cơ bản mà chỉ coi
đây là những dạng phụ [11].

Nguyễn Bá Thụ (1995) cũng phân chia dạng sống thực vật ở Vườn quốc
gia Cúc Phương theo nguyên tắc của Raunkiaer [39].
Đặng Kim Vui (2002) [48] nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi
sau nương rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên phân chia dạng sống thực
vật dựa vào hình thái cây: cây gỗ, cây bụi, dây leo và cây cỏ, ông đã xác định
được 17 kiểu dạng sống trong đó có 5 kiểu dạng cây bụi: cây bụi, cây bụi thân
bò, cây bụi nhỏ, cây bụi nhỏ thân bò, cây nửa bụi.
Nguyễn Thế Hưng (2003) [22] nghiên cứu dạng sống trong trạng thái
thảm thực vật thứ sinh tại Hoành Bồ (Quảng Ninh) đã có kết luận: nhóm cây
chồi trên mặt đất có 196 loài chiếm 60,49% tổng số loài của toàn hệ thực vật;

nhóm cây có chồi sát đất có 26 loài (8,02%); nhóm cây có chồi nửa ẩn có 43
loài (13,27%); nhóm cây có chồi ẩn có 24 loài chiếm 7,47%; nhóm cây một
năm có 35 loài chiếm 10,80%.
Lê Ngọc Công (2004) [14] khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng bằng
khoanh nuôi trên một số thảm thực vật ở tỉnh Thái Nguyên đã phân chia thực
vật thành các dạng sống cơ bản như sau: cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, dây leo.
Đặng Thị Thu Hương (2005) [23] khi nghiên cứu đặc điểm và đánh giá
năng lực tái sinh tự nhiên của thảm thực vật cây bụi tại Trạm đa dạng Sinh học
Mê Linh (Vĩnh Phúc) đã có kết quả phổ dạng sống thực vật trong các kiểu thảm
là: SB = 75,4Ph + 6,3Ch + 6,6He + 5,4Cr + 6,3Th
Vũ Thị Liên (2005) [26] phân chia dạng sống trong các kiểu thảm thực
9

vật sau nương rẫy ở Sơn La theo thang phân loại của Raunkiaer đã có kết quả
phổ dạng sống như sau:
SB = 69,66Ph + 3,76Ch + 9,29He + 10,84Cr + 6,42Th
Giáp Thị Hồng Anh (2007) [2] nghiên cứu đặc điểm của thảm thực vật
thứ sinh và tính chất hóa học của đất tại xã Canh Nậu, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc
Giang, đã áp dụng khung phân loại của Raunkiaer để phân chia dạng sống và
phổ dạng sống là: SB = 65,7Ph + 9,5Ch + 6,7He + 13,3Cr + 4,8Th
Như vậy, nghiên cứu về thành phần loài và thành phân dạng sống thực vật
trong từng kiểu thảm đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm từ
khá sớm. Đặc điểm thành phần loài và dạng sống là một trong các chỉ tiêu quan
trọng để phân biệt giữa kiểu thảm thực vật này với kiểu thảm thực vật khác.
1.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng qua lại giữa thảm thực vật và đất
1.2.1. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của đất tới thảm thực vật
Đất được hình thành từ đá do sự biến đổi của nó theo thời gian dưới tác động
của thực vật, động vật, vi sinh vật trong các điều kiện khác nhau của địa hình và khí
hậu [20]. Tính chất quan trọng của đất chính là độ phì vì độ phì có ảnh hưởng tới sự
phân bố, sự sinh trưởng và phát triển của cây rừng và hệ sinh thái rừng.

1.2.1.1. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của hệ sinh thái đất đến sự phát
triển của thảm thực vật trên thế giới.
Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của đất tới
thảm thực vật được hình thành từ rất sớm. Các tác giả Alêkhin (1904), Graxits
(1927), Sennhicop (1938) đã thống nhất và đưa ra kết luận mỗi vùng sinh thái
xác định sẽ hình thành một kiểu thảm thực vật đặc trưng khi các tác giả này
nghiên cứu trên loại hình đồng cỏ và thảo nguyên ở Liên Xô (Hoàng Chung,
1980 [12])
Khi nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt đới Hađi (1936), Baur (1946), P.
W Richards (1952) cho rằng các đặc tính lí hóa của đất ảnh hưởng đến khả
năng cung cấp nước, tình hình thông khí và độ sâu tầng đất có tác dụng tạo ra
10

sự phân hóa trong thành phần của hệ sinh thái rừng mưa hơn tính chất hóa học
của đất (Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004 [36]).
Khi nghiên cứu về vai trò của mùn trong đất đối với cây Giacốp.A (1956)
đã kết luận: Ngoài khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cải tạo đất nâng cao độ
phì, trong mùn còn có chất quynon có tác dụng kích thích sự tăng trưởng của rễ,
do đó ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng và phát triển cây rừng [18].
Khi phân chia các kiểu rừng trong mối quan hệ với thổ nhưỡng ở
Inđônêxia và Malaixia, P.W Richards và Braming đã cho rằng: Trong vùng
nhiệt đới dù chỉ khác biệt rất ít về đất đai cũng dẫn đến sự khác nhau về thành
phần thực vật [33].
1.2.1.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của hệ sinh thái đất đến sự phát
triển của thảm thực vật ở Việt Nam
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của
đất đến thảm thực vật. A.Chavalier (1918) là người đầu tiên đưa ra bảng phân
loại rừng Bắc Bộ ở Việt Nam với 10 kiểu thảm khác nhau và cho rằng đất là
yếu tố hình thành các kiểu thảm [49].
Trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu của P.Maurand (1943), Dương Hàm

Hy (1956) cũng đưa ra bản phân loại các kiểu rừng Việt Nam dựa trên nhiều yếu
tố trong đó thổ nhưỡng là yếu tố phát sinh ra các kiểu thảm thực vật (Theo Thái
Văn Trừng, 1978 [41]. Nhiều tác giả như: Trần Ngũ Phương (1970) [32], Vũ Tự
Lập (1995) [25] cũng có nhận xét tương tự).
Nguyễn Hữu Thoan (1986) [38] cho rằng đá mẹ và thế nằm của đá, độ
dày tầng đất cũng như độ ẩm, độ cứng của đất là yếu tố ảnh hưởng đến sự
phát triển hình thái của rễ cây rừng, độ ẩm của đất và chất dinh dưỡng trong
đất ảnh hưởng đến sự phát triển của những bộ phận trên mặt đất.
Đặng Ngọc Anh (1993) [1] đã có nhận xét là hàm lượng chất dinh
dưỡng trong đất, độ sâu tầng đất đã ảnh hưởng tới khả năng tái sinh rừng Dẻ ở
Hà Bắc. Như vậy điều kiện đất và loại đất có ảnh hưởng lớn tới khả năng tái
11

sinh của cây rừng. Đặc điểm lí, hóa học của đất (đặc biệt là thành phần dinh
dưỡng, độ pH, thành phần cơ giới và độ ẩm của đất) có ảnh hưởng rất lớn đến
tổ thành rừng. Đất phát triển trên loại đá mẹ nào thì sẽ có loại đất ấy tương
ứng phù hợp với thành phần khoáng của loại đá mẹ đó.
Trần Đình Lý, Đỗ Hữu Thư, Lê Đồng Tấn (1995) [30], khi nghiên cứu
quá trình tái sinh phục hồi thảm thực vật sau nương rẫy tại Sapa đã nhận định:
đất thoái hóa nhẹ thì quá trình diễn thế thứ sinh phục hồi thảm thực vật diễn ra
nhanh, nếu đất xấu (đất thoái hóa trung bình, nặng và rất nặng) thì quá trình
diễn ra ngược lại.
1.2.2.Những nghiên cứu về ảnh hưởng của thảm thực vật tới đất
Thảm thực vật có tác dụng mạnh mẽ tới đất. Chúng làm thay đổi tính
chất lí, hóa học của đất từ đó có tác dụng cải tạo đất.
1.2.2.1. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của thảm thực vật tới hệ sinh thái
đất rừng trên thế giới
Monin (1937) khi nghiên cứu trên các kiểu rừng khác nhau đã đưa ra kết
luận: rừng mưa nhiệt đới, chất rơi rụng hàng năm là 10 - 20 tấn/ha, rừng ôn
đới là 5 - 7 tấn/ha, thảm cỏ và thảo nguyên là 1-3 tấn/ha. Vậy mỗi kiểu

thảm thực vật khác nhau thì lượng vật chất rơi rụng trả lại cho đất cũng khác
nhau. Trong đó kiểu rừng mưa nhiệt đới có lượng vật chất cung cấp cho đất là
lớn nhất (Trần Đình Lý, 1997 [29])
Theo M.M.Kononove (1951) bộ rễ của các loài cây thuộc thảo là nguồn
bổ sung các chất hữu cơ cho đất, có thể đạt tới 8 - 25 tấn/ha, còn theo
L.P.Beliakova (1953) thì lượng cây Medicago sativa cung cấp khoảng 40
tấn/ha/năm (Nguyễn Quang Việt, 1997 [47]).
Theo P.W.Richards (1964) [33], đất rừng nhiệt đới càng thành thục thì
hàm lượng chất khoáng hòa tan càng giảm do quá trình rửa trôi và thảm thực
vật rừng nhiệt đới là nhân tố tích cực chống lại quá trình đó.
Dokuchaev (1879), người sáng lập ra môn Thổ nhưỡng học đã định
12

nghĩa đất (hay thổ nhưỡng) là một thể tự nhiên hình thành từ lớp trên của vỏ
Trái đất dưới ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố: khí hậu, đá mẹ, địa hình,
sinh vật và tuổi địa chất của từng đia phương (Dương Hữu Thời, 2000
[37]). Như vậy sinh vật nói chung và thực vật nói riêng là một trong các yếu
tố ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành của đất.
Theo kết quả nghiên cứu của S.V.Zon cho thấy: đối với từng loại cây khác
nhau, lượng chất trả lại cho đất cũng khác nhau. Ở rừng Thông là 4,1 tấn/ha,
rừng Vân sam là 6,0 tấn/ha, rừng Dẻ là 3,9 tấn/ha. Ngoài ra tuổi rừng cũng ảnh
hưởng tới khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho đất. Tuổi rừng càng cao thì
lượng chất rơi rụng càng nhỏ: rừng 20 tuổi là 2,5 tấn/ha, rừng 40 tuổi là 2,3
tấn/ha, rừng 100 tuổi chỉ có 1,3 tấn/ha (Trần Đình Lý, 1997 [29])
1.2.2.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của thảm thực vật tới hệ sinh thái
đất rừng ở Việt Nam
Nguyễn Vi và Trần Khải (1978) khi nghiên cứu tính chất hóa học của
đất ở miền Bắc Việt Nam đã khẳng định vai trò của thảm thực vật trong quá
trình hình thành đất và nâng cao độ phì của đất [46].
Nguyễn Lân Dũng (1984): khi nghiên cứu nguồn gốc chất hữu cơ trong

đất, ông cho thấy nguồn gốc từ xác cây xanh chiếm 4/5 tổng số chất hữu cơ
đưa vào đất. Tính trung bình hàng năm đất được thảm thực vật bổ sung vào
khoảng 2 - 10 tấn/ha chất hữu cơ. Tùy theo thảm thực vật khác nhau mà lượng
chất hữu cơ cung cấp hàng năm cho đất cũng khác nhau [16].
Nguyễn Trọng Điều (1992) cho biết dưới tán rừng thuần loại 5 - 6 tuổi
lượng chất rơi rụng xuống đất từ 5 - 10 tấn/ha/năm, trong đó chứa khoảng
80 - 90 kg đạm, 8 kg lân, 205 kg kali. Đặc biệt hàng năm lá phân hủy thành
chất mùn ở rừng rậm nhiệt đới gấp 5 lần rừng ôn đới [17].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995) khi nghiên cứu về một số đặc
điểm sinh thái, sinh vật học của sa van Quảng Ninh và các mô hình sử dụng đã
phát hiện được 60 họ thực vật khác nhau với 131 loài và đưa ra kết luận: đa dạng
13

về thành phần loài, dạng sống là yếu tố cải thiện tính chất lí hóa học của đất [22].
Khi nghiên cứu các loại đất rừng Việt Nam trên nhiều kiểu rừng tự nhiên
phân bố theo nhiều độ cao khác nhau, Hoàng Xuân Tý (1996) [44], Nguyễn Tử
Xiêm, Thái Phiên (1999) [45] cũng có nhận xét tương tự.
Lê Ngọc Công (1998) [15] khi nghiên cứu vai trò của độ che phủ ở
các trạng thái thảm thực vật có nhận xét: trị số PH
(KCl)
, hàm lượng mùn
và hàm lượng các chất dễ tiêu trong đất tăng tỉ lệ thuận với độ che phủ của
thảm thực vật.
Lê Ngọc Công (2004) đã nghiên cứu ảnh hưởng một số quần xã thực vật
đến môi trường đất trong các giai đoạn diễn thế phục hồi rừng sau nương rẫy ở
Thái Nguyên đã khẳng định: độ che phủ của thảm thực vật ảnh hưởng theo hướng
tốt tới tính chất hóa học của đất, tới lượng vi sinh vật, thành phần giun đất [14].
Nguyễn Thị Kim Anh (2006) khi nghiên cứu ảnh hưởng của một số
thảm thực vật đến môi trường đất ở vùng đồi tỉnh Thái Nguyên đã đi đến kết
luận: thảm thực vật có vai trò quan trọng trong việc làm biến đổi tính chất hóa

học của đất, từ đó làm tăng độ phì (tăng hàm lượng mùn, đạm, K
2
O, P
2
O
5
,
độ pH, Ca
++
, Mg
++
trao đổi) [3].
Năm 2007, Giáp Thị Hồng Anh khi nghiên cứu một số đặc điểm của thảm
thực vật thứ sinh và tính chất hóa học của đất tại xã Canh Nậu, huyên Yên Thế,
tỉnh Bắc Giang đã đi đến kết luận: Các chỉ tiêu (độ ẩm, hàm lượng mùn, hàm
lượng N, P, K và các cation Ca2+, Mg2+ trao đổi) trong đất nhìn chung đều biến
đổi theo quy luật tăng dần khi độ che phủ của thảm thực vật tăng lên [2].
1.2.3. Những nghiên cứu về tác dụng cải tạo đất của thảm thực vật
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của thảm thực vật
đến đất, trong đó tác dụng cải tạo đất được nghiên cứu sâu hơn cả.
1.2.3.1. Những nghiên cứu về tác dụng cải tạo đất của thảm thực vật trên thế
giới
Trên thế giới, việc nghiên cứu về tác dụng cải tạo đất của thảm thực vật đã
14

được rất nhiều nhà khoa học chú ý đến nhằm mục đích sử dụng bền vững tài
nguyên đất.
Ở Phillippin có công trình nghiên cứu sử dụng cây Keo dậu (Leuceana
leucophata) như là một cây đa tác dụng để phủ xanh trồng lại rừng cho gỗ củi
vì cây Keo dậu là cây có khả năng cải tạo đất, mọc nhanh, tái sinh chồi mạnh,

chịu được nơi đất xấu (Hoàng Xuân Tý,1992 [43]).
Ở Indonexia có công trình nghiên cứu cây Muồng hoa pháo (Caliandra
calothyrsus) vừa để cải tạo đất vừa làm thức ăn cho gia súc (Hoàng Xuân
Tý,1992 [43]).
Ở Ấn Độ có công trình nghiên cứu cây Đậu triều (Cajanus cajan) là
cây cải tạo đất và trồng xen với cây ăn quả (Hoàng Xuân Tý,1992 [43]).
1.2.3.1. Những nghiên cứu về tác dụng cải tạo đất của thảm thực vật ở Việt Nam
Bùi Thị Huế (1990-1994), khi nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng Bạch
đàn đến độ phì của đất và có những đánh giá rừng Bạch đàn có xu hướng làm khô
đất, hàm lượng đạm tổng số và chất dễ tiêu như NH4
+
, P
2
O
5
, K
2
O ở đất trồng
Bạch đàn nghèo hơn so với đất dưới rừng Keo lá tràm và rừng hỗn giao [21].
Trương Văn Lung (1996) với công trình nghiên cứu trồng cây bộ Đậu
cải tạo đất và hướng phát triển vườn đồi miền Tây Thừa Thiên Huế và có
những kết luận: Trồng cây bộ Đậu cải tạo đất thì mọi thành phần nông hóa của
đất đều được nâng lên rõ rệt. Sử dụng một số cây bộ Đậu làm tiên phong cải
tạo đất và định hướng phát triển theo mô hình vườn đồi là giải pháp hợp lý để
sử dụng có hiệu quả vùng gò đồi rộng lớn mà hiện nay đang ngày càng xói
mòn, trơ sỏi đá của Thừa Thiên Huế [28].
Hoàng Xuân Tý (1996) với công trình nghiên cứu nâng cao công nghệ
thâm canh rừng trồng (Bồ đề, Bạch đàn, Keo) sử dụng cây họ Đậu để cải tạo đất
và nâng cao chất lượng rừng như sử dụng cây Đậu triều Ấn Độ, cây Keo dậu,
cây Đậu tràm để diệt cỏ, chống cháy mùa khô, cải thiện độ phì cho đất [43].

Trần Đình Lý (1997) [29] nghiên cứu trồng cây họ Đậu (Keo hoa vàng,
15

Keo mỡ), Thông và Bạch đàn trồng xen để cải tạo đất gò đồi ở Bình Trị
Thiên. Sau 10 năm rừng khép tán ông đã thu được kết quả các chỉ tiêu lý học,
hóa học của đất trước và sau khi trồng các cây họ Đậu như sau: độ ẩm tăng từ
2% lên 17%, pH tăng từ 4,1% lên 4,3%, mùn tăng từ 0,94% lên 2,91%, Nitơ
tổng số tăng từ 0,039% lên 0,059%.
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã tạo ra nhiều mô hình
phủ xanh đất trống đồi núi trọc, đã và đang được áp dụng rộng rãi trên các tỉnh
thành trong cả nước. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về tác dụng cải tạo
đất của thảm thực vật ở tỉnh Yên Bái còn rất ít. Vì vậy, kết quả đề tài này góp
phần nghiên cứu vai trò của thảm thực vật đối với đất ở địa phương.
16

Chương

2

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN
CỨU


2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế vùng nghiên cứu
2.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới hành chính
Yên Bái là tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa, là 1 trong 13 tỉnh vùng núi
phía Bắc, nằm giữa 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Lào Cai,
phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp 2 tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang và
phía Tây giáp tỉnh Sơn La.
Huyện Lục Yên là huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Yên

Bái gồm 24 đơn vị hành chính xã, thị trấn. Trung tâm huyện lỵ đặt tại thị trấn
Yên Thế cách thành phố Yên Bái 93km và Hà Nội 270km, có tuyến quốc lộ 70
chạy qua nối Hà Nội – Việt Trì – Yên Bái – Lào Cai. Phía Đông giáp huyện
Hàm Yên (Tuyên Quang), phía Tây giáp huyện Văn Yên, phía Nam giáp hồ
Thác Bà của huyện Yên Bình, phía Bắc giáp huyện Bắc Quang (Hà Giang). Địa
hình huyện Lục Yên bị chia cắt bởi 2 dãy núi chính chạy dọc theo hướng Tây
Bắc – Đông Nam, tạo ra thung lũng, bồn địa bằng phẳng. Đây là nơi dân cư tập
trung sản xuất và sinh sống từ lâu đời.
Sông Chảy phân chia huyện Lục Yên thành hai vùng địa hình tương đối rõ
nét. Phía hữu ngạn sông Chảy địa hình giới hạn bởi dãy núi Voi trải theo hướng
Tây Bắc – Đông Nam ưu thế thấp dần từ Tây sang Đông, phía tả ngạn sông Chảy
địa hình bao gồm hệ thống núi đá vôi chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.
Xã Tân Phượng là một xã miền núi nằm ở phía Bắc huyện Lục Yên.
Phía Đông giáp xã Lâm Thượng (Lục Yên). Phía Tây, phía Nam giáp Huyện
Bảo Yên (Lao Cai). Phía Bắc giáp huyện Quang Bình (Hà Giang).
2.1.2. Địa hình
Khu vực nghiên cứu nằm ở phía Tây Nam của dãy núi chính phân cách
ranh giới 3 huyện: Bảo Yên (Lao Cai), Quang Bình (Hà Giang) với Lục Yên

×