Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Phát triển nền kinh tế tri thức ở trung quốc và bài học kinh nghiệm đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 114 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào cuối thế kỷ XX, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất phát triển một cách mạnh mẽ, trong đó tri thức
khoa học, công nghệ và thông tin ngày càng đóng vai trò quyết định đối với nền
sản xuất trên quy mô toàn cầu. Cũng chính từ đây, trên thế giới bắt đầu xuất hiện
nhiều ngành kinh tế mới, các lĩnh vực quản lý kinh tế mới Trước những biến
đổi đó của nền kinh tế thế giới, các nhà nghiên cứu kinh tế đã sử dụng thuật ngữ
“kinh tế tri thức” (Knowledge-based economy) hay “nền kinh tế tri thức” để nói
về nền kinh tế mới này. Có thể nói rằng đây là một nền kinh tế được xây dựng
trên cơ sở đẩy nhanh sự phát triển của khoa học, công nghệ trên khắp các lĩnh
vực trong đó các lĩnh vực trụ cột của nền kinh tế tri thức là: công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin, công nghệ năng lượng và công
nghệ hàng không vũ trụ… Tuy nền kinh tế tri thức mới được hình thành nhưng
nó đã tạo nên bước đột phá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội loài người.
Sự hình thành nền kinh tế tri thức ở một số nước phát triển trên thế giới
như: Mỹ, Pháp, Nhật Bản và các nước EU… đã đóng một vai trò to lớn trong
việc phát triển kinh tế và xã hội ở những nước này. Thậm chí nhiều quốc gia kể
cả các nước kém phát triển, đã và đang tích cực vạch ra chiến lượng tiếp cận,
ứng xử và tranh thủ các thời cơ và thách thức do thời đại kinh tế tri thức mang
lại. Biểu hiện rõ nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Trong đó điển hình là Trung
Quốc. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc hơn
hai thập kỷ qua, đã làm cho sức mạnh tổng hợp của đất nước Trung Quốc tăng
mạnh, khoa học kỹ thuật, giáo dục, văn hóa, thông tin v.v… đều phát triển rất
nhanh, xây dựng được nhiều khu phát triển công nghệ cao, xuất hiện hàng loạt
xí nghiệp kỹ thuật cao tập trung tri thức, rất nhiều bộ phận kỹ thuật trong một số
lĩnh vực đã đạt được trình độ tiên tiến. Từ đó đã giúp Trung Quốc đạt được tốc
1
độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, đưa vị thế kinh tế, chính trị của Trung
Quốc không ngừng được cải thiện trên trường quốc tế.
Việt Nam là một nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa


với mục tiêu “…rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phát triển mạnh các ngành và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức” [7, tr.87-88]. Thực chất quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ kinh tế nông
nghiệp lên kinh tế công nghiệp và chuyển từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri
thức. Hai nhiệm vụ ấy phải được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ
trợ bổ sung cho nhau, điều đó có nghĩa là phải nắm bắt các tri thức và công nghệ
mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp, đồng thời phát triển các
ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức.
Nếu không sớm xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức, Việt Nam khó thu
hẹp khoảng cách với các nước phát triển. Mặt khác, đối với nước ta đang trong
thời kỳ quá độ từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa với mục đích cuối cùng là tiến lên xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Trong xã hội mà chúng ta hướng tới, nền kinh tế của nó có một số đặc
trưng cơ bản như: Lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao, cao hơn nhiều so
với chủ nghĩa tư bản. Lực lượng sản xuất đó dựa trên cơ sở áp dụng những thành
tựu khoa học và công nghệ hiện đại nhất. Đó là một nền sản xuất với quy mô lớn
và được tiến hành phù hợp với những yêu cầu của khoa học hiện đại, bảo vệ môi
trường sinh thái, bảo đảm cho sự phát triển bền vững; Chế độ sở hữu xã hội về
tư liệu sản xuất chủ yếu được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu;
Sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Trong điều
kiện như vậy thì kinh tế hàng hóa mà giai đoạn phát triển cao là kinh tế thị
2
trường không thể đáp ứng được yêu cầu về một nền kinh tế như trên. Do đó,
chúng ta cần thiết phải xây dựng được một nền kinh tế đáp ứng được yêu cầu
của xã hội mới, nền kinh tế đó chỉ có thể là nền kinh tế dựa vào tri thức hay nền
kinh tế tri thức.

Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới, phát triển nền kinh tế tri thức
là một tất yếu khách quan và là một trong những nội dung trọng tâm của chiến
lược phát triển của mỗi quốc gia. Không nằm ngoài xu thế đó, Việt Nam cần
phải hướng tới từng bước xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Với yêu
cầu đó, những kinh nghiệm đón bắt và xây dựng nền kinh tế tri thức ở Trung
Quốc là bài học bổ ích có thể tham khảo cho nhiều nước đang phát triển, đặc
biệt là những nước có nền kinh tế chuyển đổi như ở Việt Nam. Vì vậy, nghiên
cứu vấn đề xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc sẽ có ý
nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế
tri thức. Từ đó làm cơ sở để vận dụng vào thực tiễn từng bước xây dựng và phát
triển nền kinh tế tri thức ở nước ta đạt hiệu quả cao. Đó là lý do để vấn đề “Phát
triển nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt
Nam” được chọn làm đề tài của luận văn thạc sỹ kinh tế này.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Tuy mới hình thành, nhưng vấn đề kinh tế tri thức đã thu hút nhiều sự
tranh luận, quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả nước ta:
Bài viết của Lê Văn Sang “Kinh tế tri thức - giai đoạn phát triển mới của
xã hội loài người” đăng trên Tạp chí Những Vấn đề kinh tế thế giới, số 3/2000.
Trong đó tác giả đã đưa ra các quan niệm về kinh tế tri thức và dự báo về giai
đoạn phát triển mới của xã hội loài người - giai đoạn phát triển kinh tế chủ yếu
dựa vào tri thức. Từ đó đưa ra những nhận định về xu thế phát triển mới của nền
kinh tế thế giới.
Bài viết của TS. Trần Đình Thiên “Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô
hình phát triển ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 22, tháng 11/2000.
3
Trong bài viết này, tác giả đã làm rõ về định nghĩa về kinh tế tri thức, về quy trình
thực tiễn hóa tri thức và vai trò của nó, nêu ra các đặc điểm cơ bản của kinh tế tri
thức. Tác giả đã khẳng định rằng sự xuất hiện của kinh tế tri thức không vượt khỏi
sơ đồ của K.Marx về sự tiến hóa của lịch sử thông qua “lược đồ ba hình thái của
K.Marx”. Từ đó đưa ra một số gợi ý về lựa chọn mô hình phát triển của Việt Nam

dưới tác động của xu hướng chuyển sang nền kinh tế tri thức.
Cuốn “Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI”, Nxb Chính trị
quốc gia, năm 2000 do Ngô Quý Tùng biên soạn; Người dịch: Nguyễn Đình
Phong, Trần Văn Long, Nguyễn Thị Tiểu Như. Tác giả đã trình bày về nguồn
gốc, nội hàm và đặc điểm của kinh tế tri thức, xu thế mới - tri thức hóa kinh tế
thế giới; Công nghệ kỹ thuật cao - trụ cột hàng đầu của kinh tế tri thức; Phân
tích tám ngành công nghệ kỹ thuật cao chủ yếu của nền kinh tế tri thức như:
Công nghệ thông tin; Công nghệ sinh học; Công nghệ nguồn năng lượng mới và
năng lượng tái sinh; Công nghệ vật liệu mới ; Mối quan hệ giữa kinh tế tri thức
với các vấn đề trọng đại của thế giới; Chính sách phát triển kinh tế tri thức.
Cuốn sách“Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số nước trên thế
giới hiện nay”, Nxb Giáo dục, năm 2002, do PGS. TS Lưu Ngọc Trịnh chủ biên.
Đây là công trình nghiên cứu công phu, với sự tham gia của nhiều nhà nghiên
cứu, trong đó các tác giả đã đưa ra nhiều cách tiếp cận khác nhau về cách hiểu
nền kinh tế tri thức, những đặc trưng chủ yếu, những điều kiện cơ bản để có thể
hình thành nền kinh tế tri thức… Từ đó nghiên cứu bước chuyển sang nền kinh
tế tri thức ở một số nước trên thế giới hiện nay và sau cùng là đưa ra những gợi
mở đối với Việt Nam trong việc nắm bắt xu thế chuyển sang nền kinh tế tri thức.
Cuốn “Kinh tế tri thức, những khái niệm và vấn đề cơ bản”, Nxb Thanh
niên, năm 2002 của tác giả Đặng Mộng Lân. Trong đó, tác giả đã giới thiệu các
khái niệm cơ bản xuất phát của kinh tế tri thức, sự xuất hiện của kinh tế tri thức
và một số vấn đề chủ yếu khác và đề cập một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với
các nước đang phát triển: phát triển dựa trên kiến thức.
4
Cuốn “Kinh tế tri thức - Thời cơ và thử thách đối với sự phát triển của
Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2004 của GS. Đặng Hữu. Tác giả đã
trình bày sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức; khái niệm, đặc trưng,
điều kiện hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức; kinh nghiệm một số nước
đi vào kinh tế tri thức; Kinh tế tri thức - cơ hội lớn để nước ta rút ngắn quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa và định hướng, giải pháp phát triển kinh tế tri

thức ở Việt Nam.
Cuốn “Phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Khoa học Xã hội, năm 2009 do GS. Đặng Hữu chủ
biên. Với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu trong nước. Trong đó các tác
giả đã làm rõ các vấn đề quan trọng trong nền kinh tế tri thức như tri thức và vai
trò của tri thức đối với sự phát triển; sự ra đời của nền kinh tế tri thức; những
đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức; các chỉ số đánh giá mức độ phát triển
của nền kinh tế tri thức; tác động của kinh tế tri thức đến quan hệ xã hội, quan
hệ sản xuất và động thái phát triển thế giới; thực trạng nền kinh tế tri thức Việt
Nam nhìn từ góc độ phát triển dựa trên tri thức và trong đó các tác giả cũng nêu
ra vấn đề Việt Nam tất yếu phải phát triển kinh tế tri thức để rút ngắn quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa và một số giải pháp
thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Việt Nam.
Ngoài ra cũng cần phải kể đến những công trình nghiên cứu của các tác
giả về nền kinh tế tri thức, trong đó đã đề cập ở những mức độ khác nhau về nền
kinh tế tri thức như: Chu Hảo, Đặng Ngọc Dinh, Đỗ Quốc Sam, Nguyễn Quang
Thái, Lê Đình Tiến, Nguyễn Đình Lộc, Nguyễn Văn Đạo… Các công trình này
được chúng tôi kế thừa và sử dụng như là chất liệu, là những ý kiến gợi mở cho
sự nghiên cứu của mình.
5
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về phát triển nền
kinh tế tri thức. Từ đó nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri
thức ở Trung Quốc và đưa ra một số quan điểm vận dụng kinh nghiệm của Trung
Quốc nhằm góp phần từng bước phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn có nhiệm vụ:
- Trình bày sự xuất hiện và xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức

như là sự phát triển tất yếu trong tiến bộ kinh tế của xã hội loài người.
- Trên cơ sở đó nghiên cứu quá trình đón bắt và xây dựng nền kinh tế tri
thức ở Trung Quốc, đặc điểm, chính sách, vấn đề và kinh nghiệm của nó;
- Nghiên cứu những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong việc tiếp cận và
hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, từ đó đưa ra một số quan điểm vận
dụng kinh nghiệm của Trung Quốc nhằm từng bước xây dựng nền kinh tế tri
thức ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc xây dựng nền kinh tế tri thức ở
Trung Quốc.
Để có điều kiện đi sâu nghiên cứu nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc, chúng
tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở chỗ: chỉ nghiên cứu quá trình xây dựng và
phát triển nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc giai đoạn từ năm 1985 đến nay, qua đó
rút ra một số bài học kinh nghiệm và đưa ra một số quan điểm vận dụng kinh nghiệm
của Trung Quốc nhằm từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách của
Nhà nước về phát triển kinh tế và phát triển nền kinh tế tri thức.
6
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác-Lênin,
trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp trừu tượng
hóa khoa học, phương pháp kết hợp lôgích với lịch sử, phương pháp so sánh,
phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê kinh tế, phương pháp lượng hóa…
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn liên quan đến
nền kinh tế tri thức, đến xu hướng xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức

trên thế giới hiện nay.
- Phân tích thực trạng và đưa ra một số đánh giá khoa học về quá trình
đón bắt và phát triển nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc.
- Từ thực tiễn phát triển nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc rút ra một số
bài học kinh nghiệm và đề xuất một số quan điểm vận dụng nhằm góp phần từng
bước phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 3 chương, 9 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về phát triển nền
kinh tế tri thức.
Chương 2: Thực trạng phát triển nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc.
Chương 3: Vận dụng những bài học kinh nghiệm của Trung Quốc nhằm
phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TRI THỨC
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về nền kinh tế tri thức
1.1.1. Khái niệm nền kinh tế tri thức
- Quá trình hình thành nền kinh tế tri thức
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cao, đặc
biệt là công nghệ thông tin, công nghệ năng lượng, công nghệ sinh học,… từ
những năm 1990 đến nay, nền kinh tế thế giới đang có những biến đổi sâu sắc,
mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động, làm xuất hiện nhiều
thuật ngữ để giải thích cho nền kinh tế mới này. Năm 1990, tổ chức nghiên cứu
của Liên hợp quốc đưa ra khái niệm “kinh tế tri thức” (Knowledge economy) để
xác định tính chất của loại hình kinh tế mới này. Năm 1996, Tổ chức Hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD) gọi nền kinh tế mới này là “kinh tế lấy tri thức làm cơ
sở” (knowledge based economy). Năm 1998, Ngân hàng Thế giới trong “báo

cáo phát triển thế giới” đã đặt tên cho nền kinh tế mới này là “tri thức cho phát
triển” (Knowledge for development). Như vậy, có thể có nhiều tên gọi khác
nhau nhưng cho đến nay nhân loại đang bước vào một thời đại kinh tế mới - nền
kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức là một khái niệm mới dùng để nói về nền
kinh tế đạt trình độ phát triển cao, là nấc thang phát triển của lực lượng sản xuất,
chứ không phải nói tới một hình thái kinh tế - xã hội mới.
Như vậy, xét về mặt lịch sử phát triển lực lượng sản xuất của xã hội loài
người từ thấp đến cao trên cơ sở phân phối tài nguyên, người ta có thể chia ra
làm ba thời kỳ tương ứng với ba nền kinh tế đó là: “kinh tế lao động chân tay
(nền kinh tế nông nghiệp); kinh tế tài nguyên (nên kinh tế công nghiệp); và kinh
tế tri thức (nền kinh tế tri thức)” [38, tr.15].
8
- Bản chất của nền kinh tế tri thức
Hiện nay đang là thời kỳ chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh
tế tri thức, nền văn minh của nhân loại chuyển từ công nghiệp sang văn minh trí
tuệ. Nghĩa là nền kinh tế tri thức đang dần dần hình thành, nó chưa phải là giai
đoạn phát triển cao, thậm chí tên gọi của nó cũng chưa được thống nhất, cũng
chính vì vậy mà việc xác định đúng bản chất của nền kinh tế tri thức là công
việc hết sức khó khăn. Bản thân định nghĩa “nền kinh tế tri thức” hiện nay trên
thế giới vẫn chưa có sự thống nhất. Do đó, bản chất của nền kinh tế tri thức phụ
thuộc rất nhiều vào các cách tiếp cận khác nhau.
Nếu theo cách tiếp cận hẹp, xuất phát từ việc hiểu “tri thức” với nghĩa
hẹp, nghĩa là đồng nhất tri thức với khoa học và công nghệ, theo đó nền kinh tế
tri thức là một nền kinh tế được cấu thành bởi các ngành công nghệ cao. Hẹp
hơn nữa, là nhấn mạnh vào vai trò to lớn và độc nhất của công nghệ thông tin.
Hiểu theo cách này người sử dụng một số thuật ngữ để đặt tên cho nền kinh tế
mới này như: “kinh tế thông tin”, “kinh tế mạng”, “kinh tế số hóa”… Cũng theo
cách tiếp cận hẹp, người ta có thể tách biệt nền kinh tế quốc dân thành hai bộ
phận: khu vực kinh tế tri thức và khu vực kinh tế cũ. Khu vực kinh tế tri thức,
theo phân loại của OECD, là các ngành dựa trên tri thức. Hai khu vực này hoạt

động với những cơ chế, quy luật đặc thù và mang lại kết quả khác nhau.
Nếu theo cách tiếp cận rộng, xuất phát từ việc hiểu “tri thức” theo nghĩa
rộng, nghĩa là mọi hiểu biết của con người đối với bản thân và thế giới. Tổ chức
OECD đã phân ra 4 loại tri thức quan trọng đó là: biết cái gì, biết tại sao, biết
như thế nào và biết ai. Với cách hiểu như vậy thì kinh tế tri thức được xem xét
dưới hai góc độ sau:
Xét dưới góc độ đóng góp của tri thức vào phát triển kinh tế:
Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 2000
đã đưa ra định nghĩa: Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra,
truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo
9
ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế [19, tr.43-44]. Đây là
quan niệm được nhiều người đồng tình, bởi lẽ nó đã phản ánh được những nét
cơ bản của một nến kinh tế với mô hình tổ chức lao động hiện đại lấy việc sự
sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất để tạo ra của cải,
tăng trưởng kinh tế và nâng cao cuộc sống của con người. Tuy nhiên với quan
điểm này, họ đã nhấn mạnh vai trò của tri thức đến sự phát triển kinh tế, nhưng
đã bỏ qua cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế tri thức.
Xét dưới góc độ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế tương ứng với trình độ phát triển cao
của lực lượng sản xuất. Trong đó lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận chính:
công cụ sản xuất và con người. Theo cách hiểu này thì nền kinh tế tri thức chỉ là
một nấc thang phát triển của lực lượng sản xuất chứ không phải tương ứng với
một hình thái kinh tế - xã hội mới. Đây là quan niệm chủ yếu chú trọng đến cơ
sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế tri thức.
Nếu theo cách tiếp cận bao trùm:
Với cách tiếp cận này, thì nền kinh tế tri thức có nhiều khía cạnh bao gồm
cả hai quan niệm đầu. Nền kinh tế tri thức theo quan điểm này được hiểu là một
loại môi trường kinh tế - xã hội. Nhấn mạnh nhiều đến việc tạo dựng một môi
trường kinh tế - xã hội tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự sản sinh, phổ biến và

sử dụng tri thức. Ở trong môi trường kinh tế đó, tri thức vừa là cơ sở, vừa là
nhân tố quan trọng nhất đóng góp vào sự phát triển kinh tế và phát triển kinh tế
bền vững vì tri thức là nguồn tài nguyên vô tận, khác hẳn với các nền kinh tế
trước đây chủ yếu dựa vào sức lao động cơ bắp trong nền kinh tế nông nghiệp và
nguồn tài nguyên có hạn trong nền kinh tế nông nghiệp.
Như vậy cho đến nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về nền kinh tế tri
thức. Mỗi cách hiểu đều có điểm mạnh và điểm yếu trong việc giải thích về nền
kinh tế tri thức và bản chất của nó. Có thể nói thuật ngữ “nền kinh tế tri thức” có
thể diễn giải với độ tùy biến cao, tùy thuộc vào dự định ban đầu.
10
Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài thì nền kinh tế tri thức chủ yếu được
hiểu theo cách thứ ba (theo cách tiếp cận bao trùm). Như vậy có thể hiểu: “bản
chất của nền kinh tế tri thức là một môi trường kinh tế - xã hội mà trong môi
trường đó luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nảy sinh, phổ biến và sử
dụng tri thức, tạo điều kiện để chuyển biến tri thức thành sức mạnh sản xuất đạt
tới trình độ cao và tri thức trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất”.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức
Hiện nay, nền kinh tế tri thức đang dần hình thành ở một số nước trên thế
giới đặc biệt là những nước phát triển. Chính vì vậy mà các đặc điểm của nền
kinh tế tri thức vẫn đang dần được hình thành và tiếp tục phát triển, nghĩa là
những đặc điểm của nền kinh tế tri thức chưa thực sự bộc lộ hết. Xuất phát từ
bản chất của nền kinh tế tri thức vừa được phân tích ở trên, có thể kể ra một số
đặc trưng cơ bản như sau:
Một là, tri thức khoa học và công nghệ (đặc biệt là công nghệ cao cùng
với lao động sáng tạo, kỹ năng cao đang dần trở thành LLSX trực tiếp tạo ra lợi
thế quyết định tới sự phát triển kinh tế bền vững.
Trong nền kinh tế nông nghiệp đặc trưng bởi lao động thủ công, dựa vào
sức lao động cơ bắp là chính, còn tư liệu lao động cơ khí là dấu hiệu đặc trưng
cho nền kinh tế công nghiệp, đến nền kinh tế tri thức thì tri thức khoa học và
công nghệ cao là đặc trưng tiêu biểu nhất. Trong nền kinh tế này cùng với lao

động kỹ thuật cao, tri thức khoa học và công nghệ trở thành yếu tố quan trọng
nhất đối với quá trình sản xuất. Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi
trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Công nghệ thông tin “trở thành phương tiện
giải phòng các tiềm năng sáng tạo và tri thức tiềm ẩn trong mỗi người, thành
công cụ khuyếch đại sức mạnh của não, giống như công nghệ của cuộc cách
mạng công nghiệp khuyếch đại sức mạnh của cơ bắp” [26, tr.24]. Các nguồn tài
nguyên như lao động, tư bản hữu hình… chiếm vị trí quan trọng trong phát triển
11
kinh tế ở nền kinh tế công nghiệp thì nay đang dần được thay thế bằng nguồn tài
nguyên tri thức.
Với một nền kinh tế mà chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên tri thức thì giá
trị của gia tăng chủ yếu được tạo ra do tri thức. Cơ cấu kinh tế bắt đầu thay đổi,
nhiều ngành kinh tế có sử dụng nhiều tri thức ra đời và ngày càng phát triển. Sản
phẩm và dịch vụ làm ra ở những ngành này có khả năng cải tạo và hiện đại hóa
các lĩnh vực khác trong nền kinh tế và có đóng góp rất lớn cho phát triển kinh tế.
Với khoa học và công nghệ cao cho phép khai thác hiệu quả các nguồn tài
nguyên và các nguồn lực xã hội đang dần khan hiếm, nhưng lại có chi phí không
tốn kém. Đây là động lực cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Nhìn từ góc độ tổng quát thì nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức khoa
học và công nghệ, nhất là công nghệ cao có xu hướng sử dụng ngày càng tăng
trong các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao. Xu thế của sự phát triển sẽ ngày
càng lan rộng ra tất cả các ngành và xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng giảm tỷ trong nông nghiệp tăng nhanh dịch vụ, đặc biệt là những ngành
sử dụng nhiều hàm lượng tri thức. Chính vì vậy có thể nó rằng đầu tư cho phát
triển tri thức là đầu tư chủ yếu trong nền kinh tế tri thức.
Hai là, không ngừng sáng tạo ra tri thức mới và nhanh chóng được ứng
dụng vào thực tiễn
Một đặc trưng khá nổi bật trong nền kinh tế tri thức đó là tốc độ sản sinh
ra tri thức, biến đổi và ứng dụng các phát minh khoa học vào thực tiễn ngày
càng nhanh. Kết quả là làm cho sự biến đổi đời sống xã hội loài người trên mọi

phượng diện của cuộc sống ngày càng cao.
Ngày nay, tốc độ sản sinh ra tri thức ngày càng nhanh, thời gian để có thể
tăng gấp đôi lượng tri thức của nhân loại có xu hướng ngắn lại. Một số nhà
nghiên cứu đã chỉ ra rằng: “tri thức của xã hội loài người ở vào thế kỷ XIX, cứ
50 năm thì tăng gấp đôi; sang thế kỷ XX, cứ 30 năm tăng gấp đôi; giữa thế kỷ
XX là 10 năm và đến những năm 1970 là 5 năm [2, tr.175]. Sự sản sinh ra tri
12
thức ngày càng phát triển, một tri thức hôm nay có giá trị cao, nhưng ngày mai
đã có thể không còn giá trị hoặc còn lại giá trị rất thấp. Tốc độ ra đời của sản
phẩm mới của các ngành công nghệ cao ngày càng nhanh thì là cho sự biến đổi
giá trị của các sản phẩm này ngày càng lớn. Điều này làm cho sự cạnh tranh
trong nền kinh tế tri thức trở nên gay gắt, vì sự cạnh tranh ở đây chủ yếu là sự
cạnh tranh về thời gian. Nguyên nhân giải thích cho sự cạnh tranh này đó là do
sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và Internet. Để cạnh tranh
được với Mỹ, Trung Quốc đã đưa ra mục tiêu đến năm 2010 có thể theo kịp
công nghệ thông tin của Mỹ.
Ba là, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu làm phạm
vi hoạt động
Quá trình lưu thông của tri thức và thông tin là không có biên giới, điều
này được thực hiện bởi sự ra đời của Internet và thương mại điện tử. Các quốc
gia trở nên gần gũi nhau hơn, quá trình sản xuất cũng ngày càng có mối liên hệ
mật thiết với nhau do các yếu tố sản xuất như yếu tố đầu vào, đầu ra của quá
trình sản xuất được di chuyển qua các quốc gia ngày càng thuận lợi. Do hoạt
động sản xuất kinh doanh mang tinh toàn cầu nên các doanh nghiệp cần phải có
một lượng vốn lớn để đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), số lượng sản
phẩm phải đủ lớn… Vì thế phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế tri thức phải lớn mới đủ sức hấp thụ, nên yêu cầu về thị trường trong nền
kinh tế tri thức phải là thị trường toàn cầu. Vào những năm 90 của thế kỷ XX,
các doanh nghiệp của Mỹ kinh doanh trên toàn cầu chỉ chiếm khoảng 20% tổng
số các doanh nghiệp trên toàn nước Mỹ, thì nay con số đó đã vượt lên 60%.

Bốn là, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế có quan hệ sản xuất mang tính
xã hội hóa ngày càng cao.
Trong nền kinh tế tri thức thì tri thức là một loại hàng hóa đặc biệt, việc
thực hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất tri thức trở nên khó khăn, vì vậy dẫn
đến hệ quả là quan hệ sản xuất trong nền kinh tế này mang tính xã hội hóa ngày
13
càng cao trên cả ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý và phân phối
sản phẩm. Điều này đã được thấy rất rõ khi C.Mác nghiên cứu về các hình thức
công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa, C.Mác cho rằng đây là một hình thức quá độ
từ phương thức sản xuất tư bản tư nhân sang phương thức sản xuất tập thể. Tức
là “sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong những giới hạn của
bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa” [22, tr.667].
Mặt khác, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn lực tri
thức để phát triển kinh tế. Với các công nghệ hiện đại cho phép khai thác, sử
dụng các nguồn lực một cách hiệu quả và tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi
trường, không những thế lại có khả năng cải tạo và phục hồi mô trường. Từ đó
xử lý hài hòa mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Chính vì lý do đó nền
kinh tế tri thức có cơ sở tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững.
Năm là, nền kinh tế tri thức luôn đòi hỏi, tạo điều kiện và thúc đẩy việc
học tập của mỗi thành viên trong xã hội.
Đối với mỗi một giai đoạn phát triển của nền kinh tế, thì con người vẫn là
yếu tố cơ bản, là nhân tố cho sự phát triển. Nền kinh tế tri thức cũng không là
một ngoại lệ, nhân tố con người vẫn là nhân tố quyết định sự phát triển, nhưng
không phải con người với bất kỳ tri thức nào và kỹ năng nào, mà buộc phải là
con người có tri thức khoa học, có khả năng sáng tạo. Chính khả năng sáng tạo
của con người là mới là nhân tố quyết định đối với quá trình phát triển.
Vì vậy trong nền kinh tế tri thức đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải có những
thay đổi căn bản nhằm đảm bảo phát huy năng lực sáng tạo cho người học.
Trong nền kinh tế tri thức không chỉ đòi hỏi mà còn tạo điều kiện và thúc
đẩy việc học tập, sao cho việc học tập được thực hiện thuân lợi và có hiệu quả

cao. Điều này được thể hiện ở một số điểm sau:
- Tạo môi trường thuận lợi nhằm khuyến khích việc học tập của mỗi cá
nhân và của mỗi cộng đồng.
14
- Đảm bảo mỗi cá nhân nhận thức sâu sắc sự cần thiết phải học tập và tự
giác học tập.
- Xây dựng hệ thống giáo dục - đào tạo luôn thích ứng với nhu cầu học
tập của người học và đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội.
- Tạo dựng môi trường để mọi người có thể học tập ở bất cứ đâu, bất cứ
lúc nào.
Sáu là, trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng
rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trở thành kết cấu hạ tầng
quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế.
Sự kết nối thành mạng thông tin phủ khắp cả nước và trên thế giới liên kết
các tổ chức, gia đình và quốc gia. Từ radio đến Internet, là cần thiết để cho phép
dễ dàng liên lạc, phổ biến, và xử lý thông tin.
Con người ngày nay đã thành công tuyệt vời trong việc kết nối với nhau
thông qua các phương tiện công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông, đặc
biệt qua mạng Internet, và nhờ đó thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá cũng như quá
trình tiếp nhận, xử lý thông tin để xây dựng nền tảng tri thức cùng các sáng tạo
phục vụ con người, doanh nghiệp và xã hội.
Nổi lên trong cả ba động lực thúc đẩy nền kinh tế tri thức là vai trò tiên
phong của CNTT, không chỉ như những công cụ rời rạc gồm máy tính và đường
truyền mà là một cơ cấu, tổ chức ở các cấp độ để trở thành một thứ nhà máy vô
hình xuyên thấu các hoạt động doanh nghiệp và cho ra các sản phẩm thông tin
chính xác, có giá trị cao và phục vụ kịp thời cho việc tổ chức sản xuất trong nền
kinh tế tri thức.
1.1.3. Tác động của nền kinh tế tri thức đến sự phát triển kinh tế - xã
hội ở các nước đang phát triển
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhận định: “Thế

kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến
15
nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển
lực lượng sản xuất” [7, tr.13]. Như vậy, kinh tế tri thức sẽ có tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển kinh tế - xã hội đối với nước ta thể hiện trên cả hai mặt sau:
1.1.3.1. Một số tác động tích cực của nền kinh tế tri thức tới sự phát triển
kinh tế - xã hội ở các nước đang phát triển
Một là, phát triển nền kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách
lạc hậu
Thực tế lịch sử cho thấy, sự phát triển kinh tế - xã hội ở các nước, các khu
vực khác nhau diễn ra không đều. Song trong nền kinh tế tri thức, quá trình “tri
thức hóa” và “tin học hóa” sẽ tạo điều kiện để các nước sử dụng tài nguyên thiên
nhiên một cách hợp lý, khoa học và có hiệu quả nhất; với một ít tài nguyên thiên
nhiên có thể tạo ra sản phẩm giá trị cao, nghĩa là giá trị cao tạo ra chủ yếu do tri
thức và thông tin. Với hệ thống công nghệ mới của nền kinh tế tri thức, các lĩnh
vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ truyền thống đều có thể được “tri thức
hóa”, “tin học hóa” [39, tr.75]; máy móc, phương tiện kỹ thuật do con người tạo
ra không những thay thế lao động cơ bắp mà còn cả một phần lao động trí óc,
làm cho con người thông minh hơn, có nhiều khả năng sáng tạo ra cái mới. Các
nước đi sau có thể tận dụng những thành tựu mới đó của khoa học và công nghệ
áp dụng vào điều kiện cụ thể ở trong nước từ đó rút ngắn khoảng cách lạc hậu.
Nếu có thể chế chính sách tốt, có nguồn nhân lực được đào tạo tốt, thì các
nước đang phát triển có thể tạo ra những bứt phá ngoạn mục nhằm khắc phục hố
sâu khoảng cách giàu - nghèo và sự tụt hậu về trình độ phát triển so với các
nước công nghiệp tiên tiến.
Kinh tế tri thức cho phép các nước chậm và đang phát triển thực hiện chủ
trương đa phương hóa quan hệ kinh tế cũng như mở rộng quan hệ về khoa học
và công nghệ với thế giới. Trên nền tảng quan hệ kinh tế, các nước chậm và
đang phát triển có thể chủ động khai thác các thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến của các cường quốc kinh tế trên thế giới làm giảm khoảng cách tụt hậu.

16
Hai là, tạo động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất
Trong nền kinh tế tri thức, sự phát triển ngày càng phải dựa vào nhiều hơn
vào nguồn lực trí tuệ. Với sự vận dụng tri thức khoa học ngày càng nhiều, công
cụ lao động không ngừng được cải tiến, đối tượng lao động được đa dạng hóa,
ngành nghề mới xuất hiện, phân công lao động ngày càng cao dẫn đến thúc đẩy
lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh. Cùng với quá trình ấy là việc cần thiết
phải xây dựng các quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý
và phân phối. Từng bước phát triển kinh tế tri thức một cách chủ động và hợp lý
không những tránh được tụt hậu về phát triển kinh tế - xã hội so với các nước
phát triển mà còn góp phần cải thiện được lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất mang tính xã hội hóa cao theo hướng phù hợp với quá trình phát triển.
Ba là, tạo điều kiện chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển
mạnh các ngành kinh tế dựa vào tri thức và thay đổi cơ cấu lao động
Dưới sự tác động của kinh tế tri thức, cơ cấu kinh tế sẽ có sự biến đổi
mạnh theo hướng các ngành kinh tế dựa ngày càng nhiều vào tri thức. Các
ngành công nghiệp dựa trên tri thức đó là những ngành “chế tạo” ra những sản
phẩm công nghệ cao với trình độ cao, chi phí vật chất không đáng kể bao gồm
các ngành: công nghiệp hàng không vũ trụ; công nghiệp công nghệ thông tin và
thiết bị xử lý dữ liệu; viễn thông, bán dẫn; công cụ khoa học; máy móc và các
thiết bị vận tải khác. Các ngành dịch vụ dựa trên tri thức bao gồm: vận tải, lưu
kho; các dịch vụ viễn thông, tài chính, ngân hàng, giáo dục, y tế… Trong công
nghệ sinh học có các ngành nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp dược
phẩm, công nghiệp môi trường…
Những ngành nghề mới này dựa chủ yếu vào công nghệ cao mới, sản
phẩm của nó có giá trị gia tăng ngày càng lớn, chất lượng thay đổi rất nhanh,
mức tăng trưởng trung bình 20% - 30%/năm, mang lại lợi nhuật rất lớn, chiếm
tỷ trọng ngày càng nhiều trong tổng giá trị sản phẩm quốc dân. Từ đó làm cho
17

công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng cao, tuy rằng nông nghiệp vẫn tồn tại và
phát triển nhưng chiếm tỷ trọng ngày càng nhỏ. Nhờ đó, trong những năm gần
đây, tỷ lệ đóng góp của KHCN vào tăng trưởng GDP là trên 3% (giai đoạn 1996
- 1999) [18, tr.174]. Điều đó phản ánh xu thế phát triển phù hợp với khuynh
hướng tác động của nền kinh tế tri thức.
Bên cạnh đó, sự hình thành những ngành mới dựa trên nền tảng áp dụng
công nghệ cao tạo ra khả năng hiện đại hóa những ngành nông nghiệp truyền
thống sẽ giảm số người lao động và chuyển sang các ngành phi nông nghiệp.
Các ngành truyền thống, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp cần được nâng
trình độ tương ứng với trình độ phát triển chung của xã hội. Chẳng hạn, “sản
phẩm nông nghiệp là sản phẩm không thể thay thế trong việc đáp ứng nhu cầu
ăn của con người, nhưng những sản phẩm ấy có những chất lượng khác và sẽ
được sản xuất với các phương tiện, phương pháp khác hẳn phương tiện, phương
pháp truyền thống đã tồn tại hàng nghìn năm nay” [37, tr.28]. Hơn nữa, trình độ
của người lao động làm việc trong các lĩnh vực được nâng lên tương thích với
trình độ KH&CN đã được nâng lên. Như vậy dưới sự tác động của kinh tế tri
thức, số lượng lao động tri thức đang làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp
ngày càng cao trong tổng số lực lượng lao động của nền kinh tế.
Bốn là, thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một xã hội văn
minh hơn.
Tất cả các nước, dù muốn hay không, đều phải tham gia vào cuộc cách
mạng tri thức, nghĩa là tham gia vào một cuộc cạnh tranh toàn cầu, tham gia vào
một thị trường toàn cầu, trong đó hàm lượng tri thức trong tất cả các lĩnh vực
đều rất lớn và đang gia tăng nhanh chóng. Các nước đi sau nếu có chiến lược
thích hợp sẽ có thể truy cập vào kho tri thức toàn cầu, vận dụng có hiệu quả và
tạo ra tri thức mới của riêng mình để tăng cường năng lực trong các khu vực
truyền thống của mình. Từ đó có thể tạo ra những khu vực mới có tính cạnh
tranh cao, khai thác cơ hội, đi tắt, đuổi kịp các nước đi trước. Lợi thế của các
18
nước đi sau chính là ở khả năng đi tắt, bỏ qua các bước đi không cần thiết mà

các nước đi trước phải đi qua vì lúc bấy giờ tri thức công nghệ chưa cho phép,
không lặp lại những con đường vòng vèo tốn kém mà các nước đi trước phải mò
mẫm tìm kiếm. Các nước đi sau dễ chuyển đổi cơ cấu, đi thẳng vào công nghệ
hiện đại mà không phụ thuộc vào những cơ sở hạ tầng đã có. Cái khó nhất đối
với các nước đang phát triển là xây dựng cho được năng lực nội sinh, phát triển
nguồn nhân lực có trí tuệ, năng động sáng tạo. Nếu có đủ bản lĩnh, các nước đi
sau sẽ có thể vươn lên sớm khắc phục được tình trạng kém phát triển. Do đó có
thể nâng cao đời sống xã hội khi trình độ tri thức ngày một được nâng lên. Đây
cũng là cơ sở tạo điều kiện hướng đến một xã hội văn minh hơn.
1.1.3.2. Một số tác động tiêu cực của nền kinh tế tri thức tới sự phát triển
kinh tế - xã hội ở các nước đang phát triển
Thứ nhất, Sự phân hóa hai cực về trình độ phát triển về kinh tế - xã hội
giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển
Trong nền kinh tế tri thức, việc sử dụng tri thức trong tất cả các lĩnh vực
kinh tế là động lực chủ yếu cho sự tăng trưởng, tạo ra việc làm và của cải xã hội.
Trong khi đó đối với các nước đang phát triển, việc sản sinh ra tri thức và sử
dụng nó là một thách thức to lớn. Vì ở các nước này chỉ có lợi thế về tài nguyên
và giá nhân công rẻ. Nhưng trong điều kiện tác động của kinh tế tri thức thì
những lợi thế này ngày càng bị giảm dần. Từ đó dẫn đến tình trạng các nước
phát triển sẽ thực hiện chức năng trí não, còn các nước đang phát triển chủ yếu
thực hiện với lao động chân tay. Do đó, nguy cơ tụ hậu về trình độ phát triển về
kinh tế - xã hội là rất dễ xẩy ra.
Hai là, Làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở các ngành truyền thống khi quá trình
tri thức hóa diễn ra
Phát triển nền kinh tế tri thức không chỉ là phát triển các ngành công nghệ
cao, mà cần phải chú trọng cải tạo các ngành truyền thống bằng công nghệ kỹ
thuật cao. Nghĩa là các ngành truyền thống không những không mất đi mà còn
19
được phát triển trên cơ sở công nghệ kỹ thuật cao hơn (đây được gọi là quá trình
tri thức hóa ở các ngành truyền thống) [5, tr.135]. Việc phát triển các ngành

truyền thống trên cơ sở như vậy, nó sẽ đòi hỏi sử dụng nhiều lao động có trình
độ chuyên môn cao. Khi đó, lực lượng lao động phổ thông hay những lao động
có trình độ chuyên môn thấp sẽ không tìm được việc làm và họ sẽ trở thành
những người thất nghiệp.
Ba là, Sự cạnh tranh không bình đẳng
Các nước đang phát triển là những nước có trình độ khoa học và công
nghệ thấp, phụ thuộc nhiều vào các nước phát triển. Do đó, khi thực hiện phát
triển nền kinh tế tri thức với mong muốn sử dụng tri thức để phát triển các
ngành kinh tế trong khi việc sáng tạo ra tri thức và sử dụng nó chưa trở thành
phổ biến. Khi tham gia vào thị trường thế giới, lợi thế cạnh tranh về công nghệ,
kinh nghiệm quản lý sẽ tất yếu thuộc về các nước phát triển.
1.1.4. Những tiền đề cần thiết cho sự hình thành và phát triển nền kinh
tế tri thức
Kinh tế tri thức thực chất không phải là một bước nhảy đột biến, mà là
một hình thái phát triển cao hơn, có tính tiến hóa của một nền kinh tế thị trường
phát triển cao. Cùng với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa đến
mức cao độ ở các nước công nghiệp phát triển đã tạo tiền đề cho sự ra đời của
nền kinh tế tri thức ở các nước đó và các nước đang phát triển muốn tiến đến
nền kinh tế tri thức thì cũng không có cách nào khác là phải chuẩn bị và cố gắng
tạo cho mình những tiền đề đó.
Từ kinh nghiệm thực tế cho thấy có những tiền đề cơ bản mà bất cứ một
quốc gia nào, dù nước đó đã và đang tiến thẳng vào nền kinh tế tri thức hay đang
tìm cách hướng tới nền kinh tế tri thức cũng cần phải tạo ra là:
- Một nền kinh tế thị trường phát triển cao với các thị trường tài chính
hoạt động hữu hiệu trên cả bình diện quốc tế lẫn trong nước
20
Chỉ khi nào sản xuất có nhu cầu đối với khoa học thì khoa học mới phát
triển mạnh mẽ và khi đó yếu tố nguồn nhân lực chất lượng cao mới thực sự là
động lực của sự phát triển và là cơ sở hình thành nền kinh tế tri thức. Chỉ có
trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp vì phải nần cao năng lực cạnh

tranh, vì mục tiêu lợi nhuận tối đa, đề phải ra tăng sản xuất, hạ thấp giá thành,
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, do đó phải không ngừng đổi mới công
nghệ, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức quản lý, họ phải sáng tạo ra tri thức
mới. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đều phải đầu tư lớn cho
nghiên cứu và phát triển R&D nếu muốn nâng cao năng lực cạnh tranh. Để phát
huy được năng lực sáng tạo ra các tri thức mới cần phải có một nền tảng đó là
nền kinh tế thị trường phát triển cao.
Các doanh nghiệp trong nền kinh tế tri thức vừa cần vốn lớn để đầu tư,
vừa phải chạy đua với thời gian và đương đầu với những rủi ro lớn, nền hơn bao
giời hết, hoạt động của họ trong nền kinh tế tri thức phụ thuộc rất lớn vào cung
cấp vốn từ các thị trường tài chính. Ngược lại, sự ổn định của thị trường tài
chính cũng gắn bó mật thiết với công cuộc kinh doanh của các doanh nghiệp.
Đảm bảo sự hoạt động của một nền kinh tế với những quan hệ đan quyện vào
nhau. Như vậy, để có thể nảy sinh và phát triển một nền kinh tế tri thức cần phải
có một nền kinh tế thị trường đã phát triển cao.
- Một hệ thống giáo dục và đào tạo phát triển tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng cao, bồi dưỡng nhân tài và một hệ thống bao gồm doanh nghiệp, viện
nghiên cứu, trường đại học và các tác nhân liên quan khác sẽ tương tác một
cách hiệu quả để tạo ra, phổ biến và sử dụng tri thức
Giáo dục là đào tạo nhân tài, nhân tài là “sản phẩm” của giáo dục, có một
hệ thống giáo dục tốt nghĩa là sẽ có khả năng tạo nhiều nhân tài. Trong thời đại
kinh tế tri thức, mục tiêu là bồi dưỡng nhân tài nhằm tạo ra những con người
toàn năng trong các lĩnh vực như nghiên cứu, ứng dụng, tin học, quản lý, ngân
hàng và thị trường. Yếu tố quan trọng trong nền kinh tế tri thức là tri thức, đặc
21
biệt là tri thức “nguồn”. Loại tri thức này không thể ra đời, tồn tại, phát triển và
phổ cập nhanh được ở những nước có trình độ dân trí thấp. Do đó cần thiết phải
xây dựng cho được một hệ thống giáo dục và đào tạo tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng cao và bồi dưỡng nhân tài. Mặt khác, nếu chỉ có một hệ thống giáo dục và
đào tạo tốt là chưa đủ, mà nó cần kết hợp với một hệ thống năng động, luôn đổi

mới bao gồm doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học và các tác nhân liên
quan khác sẽ tương tác một cách hiệu quả để tạo ra, phổ biến và sử dụng tri
thức. Sự kết hợp này là yếu tố cơ bản cho sự hình thành và phát triển nền kinh tế
tri thức.
- Cơ sở hạ tầng thông tin với công nghệ tin học và thông tin đã phát triển
cao độ
Đây là điều kiện căn bản nhất để đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh
tế tri thức. Nó không chỉ là một ngành kinh tế then chốt sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm tri thức, mà còn là điều kiện đảm bảo hiệu quả của việc tiếp cận, trao đổi,
xử lý thông tin, sáng tạo tri thức của các ngành kinh tế - xã hội khác. Trong sản
xuất kinh doanh, sự phát triển công nghệ này sẽ góp phần không nhỏ giúp doanh
nghiệp giảm chi phí liên lạc và có phản ứng kịp thời cho mọi biến động trên
phạm vi toàn cầu, thúc đẩy toàn cầu hóa doanh nghiệp. Hơn nữa, khi có sự phát
triển cao độ của công nghệ tin học và thông tin sẽ đóng góp tích cực vào việc
nâng cao tri thức cho người tiêu thụ bình thường, giúp họ nâng cao khả năng sử
dụng tri thức.
- Một nhà nước pháp quyền dân chủ
Sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức chỉ có thể thực hiện được
khi có một nhà nước pháp quyền dân chủ, nơi mà các doanh nghiệp có thể lường
trước được nhưng rủi ro trong kinh doanh trên cơ sở một môi trường hiệu quả an
toàn và ổn định cho việc hình thành, sản xuất và tiêu thụ tri thức. Một môi
trường pháp lý rõ ràng, ổn định không bị thay đổi một cách tùy tiện sẽ tạo điều
kiện kích thích hướng đầu tư sản sinh, tái tạo tri thức và khai thác một cách hiệu
22
quả tri thức cho phát triển kinh tế. Tạo cơ chế đảm bảo tự do cho việc tiếp cận,
trao đổi và xử lý thông tin, mà giá trị tri thức vẫn được bảo vệ bằng Luật sở hữu
trí tuệ.
1.2. Thực tiễn về phát triển nền kinh tế tri thức
1.2.1. Nội dung của phát triển nền kinh tế tri thức
Khi nghiên cứu về nền kinh tế tri thức, vấn đề quan trong là cần xác định

được nội dung của phát triển nền kinh tế tri thức. Từ đó, một quốc gia mới có
thể định hình được các cách thức, chiến lược xây dựng một nền kinh tế tri thức
sao cho vừa phù hợp với điều kiện nền kinh tế của đất nước, vừa đáp ứng với
yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở các quốc gia trên thế giới. Bên cạnh đó, cũng
cần đảm bảo các tiêu chí đánh giá và đo lường về mức độ phát triển nền kinh tế
tri thức.
Xét về bản chất, nền kinh tế tri thức là một môi trường kinh tế - xã hội mà
trong môi trường đó luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nảy sinh, phổ biến và
sử dụng tri thức, tạo điều kiện để chuyển biến tri thức thành sức mạnh sản xuất
đạt tới trình độ cao và tri thức trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất. Như vậy,
thực chất của phát triển nền kinh tế tri thức là sự phát triển dựa vào tri thức hay
thực chất là sự phát triển lấy con người làm trung tâm. Chính vì vậy có thể khái
quát phát triển nền kinh tế tri thức thông qua một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng một lực lượng lao động được đào tạo và có kỹ năng.
Để phát triển nền kinh tế tri thức, một trong những giải pháp cơ bản nhất
là phát triển con người. Trước đây, người ta chỉ coi con người, đặc biệt là người
lao động, làm thuê là phương tiện để tăng trưởng và phát triển. Dần dần con
người được coi là lực lượng sản xuất cơ bản cần được tái tạo và phát triển không
ngừng. Ngày nay, con người được coi là động lực của phát triển nền kinh tế tri
thức. Với trình độ phát triển khoa học và công nghệ hiện đại, con người có thể
được phát triển toàn diện. Vấn đề là tùy thuộc vào năng lực của từng cá nhân và
23
cách thức quản lý của Nhà nước. Do vậy, vấn đề xây dựng một lực lượng lao
động được đào tạo và có kỹ năng là nội dung cơ bản của phát triển nền kinh tế
tri thức.
Thứ hai, xây dựng các hệ thống sáng tạo hiệu quả.
Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố quyết định nhất đối với tăng trưởng kinh
tế, tạo việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống là tạo ra tri thức, sử dụng tri
thức biến tri thức thành giá trị, nói cách khác, chính là quá trình biến đổi tri thức
thành sản phẩm mới, quá trình mới. Do vậy, cần phải xây dựng các hệ thống

sáng tạo tri thức hiệu quả, mà thực chất của nó là xây dựng các hệ thống bao
gồm các thiết chế, các hệ thống tổ chức ở tầm quốc gia nhằm gắn bó chặt chẽ
các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trường đại học với sản xuất, thúc đẩy việc
tạo ra và ứng dụng nhanh chóng các kết quả nghiên cứu sáng tạo để đổi mới sản
xuất, phát triển kinh tế.
Thứ ba, phát triển cơ sở hạ tầng thông tin hiện đại.
Cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia là một yếu tố cực kỳ quan trọng tạo điều
kiện để thu hẹp khoảng cách tri thức và phát triển giữa các quốc gia. Cơ sở hạ
tầng thông tin hiện đại còn tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá
nhân tiếp nhận và sử dụng thông tin như là một tài nguyên quan trọng nhất để
nâng cao tri thức và cải thiện chất lượng cuộc sống. Tạo điều kiện kết nối gia
tăng và phong phú nguồn tri thức từ cộng đồng xã hội.
Thứ tư, xây dựng một hệ thống thể chế về kinh tế luôn được cập nhật.
Để nền kinh tế tri thức phát triển, cần xây dựng một hệ thống thể chế về
kinh tế luôn được cập nhật cho phù hợp với sự thay đổi trong thời đại mới, nhằm
tạo môi trường thực sự dân chủ, thuận lợi cho phát triển các khả năng sáng tạo,
thúc đẩy mạnh sử dụng tri thức vào tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội, tạo
chuyển biến mạnh mẽ năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính cạnh tranh của nền
kinh tế.
24
1.2.2. Một số mô hình phát triển nền kinh tế tri thức trên thế giới
Như đã nói ở trên, nền kinh tế tri thức chỉ mới ra đời từ nửa sau của thế kỷ
XX, dựa trên những thành tựu của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông
tin. Những nước có nền kinh tế phát triển là nơi xuất hiện nền kinh tế tri thức
đầu tiên.
1.2.2.1. Nền kinh tế tri thức ở Mỹ
Mỹ là cường quốc số 1 thế giới về kinh tế, tích lũy cho ngân sách rất lớn.
Đặc biệt, nước Mỹ có đội ngũ tri thức rất đông đảo và có chất lượng cao, được
phát triển từ nền giáo dục tiên tiến và một số lớn nguồn chất xám được thu hút
từ nước ngoài. Công nghệ thông tin ở Mỹ cũng rất phát tiển với cơ sở hạ tầng

hết sức hiện đại. Do vậy, Mỹ là nước bước vào nền kinh tế tri thức đầu tiên.
Tháng 2 năm 1997, trong thông điệp về tình hình đất nước, Tổng thống
Bill Clinton đã chính thức sử dụng tên gọi kinh tế tri thức theo định nghĩa của
OECD. Bởi vì ở Mỹ, hơn 50% tổng GDP đến từ các ngành sản xuất có hàm
lượng tri thức và công nghệ cao.
Những năm gần đây, sự phát triển tri thức ở Mỹ đã bước đầu thể hiện bộ
mặt của nền kinh tế tri thức:
- Ngân sách cho giáo dục để phát triển nhân tài kiểu tri thức đã chiếm 7% GDP.
- Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R & D) chiếm 2,8%.
- Thương mại hóa các thành quả kỹ thuật cao để thúc đẩy tăng trưởng,
trong đó ngành sản xuất phần mềm được lấy làm đại diện chính cho các ngành
tăng trưởng.
- Trên cơ sở phát triển khoa học công nghệ và thông tin, hàng loạt các
dịch vụ mới xuất hiện như: dịch vụ tài chính, bảo hiểm, thông tin, thương mại
điện tử. Hiện nay thương mại điện tử chiếm tỷ lệ tiêu thụ từ 20 - 60%.
- Kết cấu việc làm biến đổi, không ngừng khai thác và phát triển những
lĩnh vực việc làm mới dưới sự tác động của nền kinh tế tri thức. Mỹ đã loại bỏ
25

×