Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong chính sách tiền tệ tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - 2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.3 KB, 10 trang )

sử dụng phổ biến trong Nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn, khối lượng phát
hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả trái phiếu
kho bạc trên thị trường tài chính.
e. Trái phiếu chính quyền điạ phương.
Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa phương khác về
thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người sở hữu
trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu.
f. Các hợp đồng mua lại.
Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được sử dụng làm vật
đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh
toán nợ.
Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá, điều này phụ thuộc
vào:
Một là, do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt là
dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện nhiều
tổ chức cung cấp tài chính mới. Điều này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải tìm kiếm
các công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn về các mặt: Thời hạn, mức độ rủi ro,
mức sinh lời, cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh hưởng đến sự thay đổi
cơ cấu hàng hoá trên thị trường mở.
4. Những người tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham gia thị
trường này rất đông đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau.
a. Các Ngân hàng thương mại.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để duy trì khả
năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời qua thị trường này
các NHTM thực hiện nghiệp cụ môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì:
NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn gửi và dùng
tiền gửi huy động được để cho khách hàng vay; NHTM là thành viên đặc biệt của thị
trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay.


b. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng .
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính,
quỹ đầu tư…Các tổ chức này coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập qua việc sử
dụng vốn nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có giá trị ngắn hạn hoặ dài hạn. Các
tổ chức này thường có khối lượng chứng khoán lớn và họ thường xuyên thay đổi cơ
cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi ro dự tính thấp nhất.
Đó là động cơ của họ để tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở.
c. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn.
Các doanh nghiệp có nhu cầu bán chứng khoán để đổi ra tiền mặt hặc để kiếm lời
trong thời gian ngắn. Khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua các loại
chứng khoán ngắ hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi… để kiếm
lời.
d. Các hộ gia đình.
Hộ gia đình tham gia thị trường mở như họ phải chuyển các giấy tờ có giá ngắn hạn
mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất, họ mua các chứng khoán
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phòng ngừa rủi ro bật ngờ, đầu tư vào giấy tờ có giá nhờ vào sự thay đổi lãi suất dự
đoán.
e. Các nhà giao dịch chuyên nghiệp.
Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các
chứng từ có giá trị giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất kinh doanh;
các nhà đầu tư tư nhân; các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua nghiệp
vụ này họ hưởng chênh lệch giữa giá mua, giá bán.
f. Ngân hàng Trung Ương.
NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị trường thông
qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn nhằm cung cấp cho hệ thống ngân
hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
NHTW sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở hoạch định chính sách tiền tệ.
Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng kiểm soát và điều tiết hoạt động tín
dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở không phải để kinh

doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho chính sách tiền tệ được thực hiện
theo đúng mục tiêu của nó.
g. Kho bạc Nhà nước.
Kho bạc Nhà nước cung ứng hàng hoá cho thị trường mở như tín phiếu, trái phiếu kho
bạc. Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong hoạt động của thị
trường mở.
IV.Sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở cùng với các công cụ của chính sách tiền tệ.
Để Chính sách tiền tệ có hiệu qủa cao thì NHTW phối hợp với các công cụ Chính sách
tiền tệ hợp lý NV thị trường mở là một công cụ Chính sách tiền tệ ra đời muộn hơn so
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
với các công cụ khác. Tuy nhiên NV thị trường mở lại là một công cụ hết sức linh hoạt
và hiệu quả. Ưu điểm của việc sử dụng thị trường mở trong việc điều hành Chính sách
tiền tệ là:
Nghiệp vụ thị trường mở phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTW, trong đó NHTW
hoàn toàn chủ động kiểm soát được khối lượng giao dịch. Tuy nhiên việc kiểm soát
này là gián tiếp, không nhận được. Ví dụ trong nghịêp vụ chiết khấu, NHTW có thể
khuyến khích hoặc không khuyến khích các NHTM, chỉ thông báo lãi suất chiết khấu
mà không kiểm soát trực tiệp khối lượng cho vay chiết khấu.
Nghiệp vụ thị trường mở vừa linh hoạt vừa chính xác, có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô
nào. Khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ, dù ở mức nhỏ nào đi nữa,
Nghiệp vụ thị trường mở cũng có thể đạt đựơc bằng cách mua hoặc bán một lượng nhỏ
chứng khoán. Ngược lại, nếu có yêu cầu thay đổi dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ ở quy mô
lớn, NHTW cũng có đủ khả năng thực hiện đựơc thông qua việc mua hoặc bán một
khối lượng lớn tương ứng các chứng khoán.
Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng đảo chiều. Nếu NHTW có mắc phải sai sót nào đó
trong quá trình thưc hiện Nghiệp vụ thị trường mở thì có thể ngay tức khắc sửa chữa
sai sót đó. Ví dụ: Khi NHTW nhận thấy rằng, lãi suất trên thị trường tiền tệ (lãi suất
ngắn hạn) hiện đang quá thấp do vừa qua NHTW đã thực hiện việc mua quá nhiều trên
thị trường mở, thì có thể sửa chữa nó bằng cách bán ngay các giấy tờ có giá cho các
Ngân hàng.

Nghiệp vụ thị trường mở có tính an toàn cao: Giao dịch trên thị trường mở hầu như
không gặp rủi ro, đối với cả NHTW và NHTM, bởi vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trên thị trường mở đều là những giấy tờ có giá, có tính thanh toán cao, không có rủi ro
tài chính.
Nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện một cách nhanh chóng không vấp phải sự
chậm chễ của các thủ tục hành chính. Khi NHTW quyết định muốn thay đổi dự trữ
hoặc cơ sở tiền tệ, NHTW chỉ cần đưa ra yêu cầu cho các nhà giao dịch chứng khoán
trên thị trường tiền tệ, và sau đó việc mua bán sẽ được thực thi ngay.
Chính vì các ưu điểm trên mà công cụ Nghiệp vụ thị trường mở đã được áp dụng vào
việc thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam bắt đầu từ ngày 12-7-2000.
Chương II:THựC TRạNG Và GIảI PHáP PHáT TRIểN
NGHIệP Vụ THị TRƯờNG Mở ở VIệT NAM
I. Sự phát triển của các loại giấy tờ có giá ngắn hạn ở Việt Nam.
Cho đến nay các công cụ ngắn hạn ở Việt Nam còn rất đơn giản, đang ở giai đoạn đầu
và chưa thể hiện tính chất đầy đủ vốn có của nó. Nổi trội hơn cả là các loại tín phiếu
mà Kho bạc nhà nước đã phát hành trong những năm qua và tín phiếu Ngân hàng nhà
nước.

1. Tín phiếu kho bạc. (TPKB).
TPKB là giấy vay nợ ngắn hạn của kho bạc nhà nước nhằm bù đắp bội chi ngân sách
nhà nước. Thời hạn của TPKB thường dưới 1 năm. ở nước ta trong thời gian qua khối
lượng huy động vốn cho ngân sách nhà nước dưới hình thức đấu thầu trái phiếu kho
bạc qua Ngân hàng nhà nước ngày càng tăng và tỷ trọng huy động vốn qua kênh này
chiếm 40% tổng khối lượng vốn huy động trong nước cho ngân sách nhà nước. Thị
trường đấu thầu TPKB qua Ngân hàng nhà nước được hoạt động từ 1994. Sau hơn 8
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
năm hoạt động thị trường đấu thầu TPKB đã có 44 thành viên trong đó 5 NHTM quốc
doanh, 16 NHTM cổ phần, 3 ngân hàng liên doanh, 13 chi nhánh Ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam, 6 tổ chức bảo hiểm và quỹ tín dụng TW. Phương pháp đấu thầu

đối với TPKB là phương pháp Hà Lan, các thành viên đặt thầu theo lãi suất chứ không
theo giá, Bộ tài chính áp dụng lãi suất chỉ đạo trong việc xét mở thầu. Nếu lãi suất
trúng thầu trong phạm vi lãi suất chỉ đạo thì đợt đấu thầu đó là thành công và lãi suất
trúng thầu là lãi suất tín phiếu phát hành, nếu lãi suất đặt thầu cao hơn lãi suất chỉ đạo
thì có những đơn đặt thầu nào có mức lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất chỉ đạo mới
được trúng thầu. Với cơ chế định giá này thực chất việc đấu thầu TPKB là đấu thầu
khối lượng với khung lãi suất được định sẵn, vì thế tính cạnh tranh không cao.
Từ tháng 6/1995 đến tháng 12/2002 Bộ tài chính đã phối hợp với Ngân hàng
nhà nước tổ chức 292 đợt đấu thầu TPKB với doanh số phát hành là trên 28.000 tỷ
đồng. Thị trường mở có 22 thành viên, có 8 thành viên tham gia thường xuyên, khối
lượng giao dịch TPKB từ khi thị trường mở đi vào hoạt động đến 6/2002 đạt doanh số
giao dịch trên 11 tỷ đồng, con số này cho thấy tính thanh khoản của TPKB là cao.
Các thành viên tham gia đấu thầu chủ yếu là NHTM nhà nước. Năm 2001 các NHTM
nhà nước đã trúng thầu 3805 tỷ đồng TPKB (tình theo mệnh giá) chiếm 97,2% tổng số
khối lượng TPKB phát hành, các tài chính tín dụng khác chỉ chiếm 2,65%, các công ty
bảo hiểm chiếm 0,2% tổng khối lượng tín phiếu trúng thầu.
Trong năm 2002, các NHTM nhà nước trúng thầu trên 4000 tỷ đồng, chiếm 98% khối
lượng TPKB phát hành.
Lãi suất TPKB từng bước được hạ dần cho phù hợp lãi suất thị trường, góp phần giảm
nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên mức lãi suất chưa thật hợp lý nên
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nhiều khi lượng đăng ký dự thầu cao nhưng lượng trúng thầu thấp hơn nhiều so với dự
kiến phát hành.
Thị trường tín phiếu hiện có chủ yếu là thị trường sơ cấp, chưa phải là thị trường thứ
cấp phục vụ đông đảo cho các tầng lớp dân cư.
Xu hướng sắp tới cần phát hành đều đặn TPKB với các kỳ hạn khác nhau:TPKB kỳ
hạn 91 ngày được phát hành trong tuần, TPKB kỳ hạn 182 ngày phát hành 2 tuần 1
lần, kỳ hạn 273 ngày phát hành 3 tuần 1 lần, kỳ hạn 364 ngày phát hành 4 tuần 1 lần,
mục đích là tăng hàng hoá cho thị trường tiền tệ.
2. Tín phiếu Ngân hàng nhà nước.

Tín phiếu Ngân hàng nhà nước là giấy nhận nợ ngắn hạn, có lãi suất do Ngân hàng nhà
nước phát hành nhằm tạo ra công cụ để điều hành thị trường tiền tệ theo mục tiêu
Chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Đây là tín phiếu chiết khấu được Ngân hàng nhà
nước bán thấp hơn là mệnh giá, giá bán được hình thành theo quan hệ cung-cầu về vốn
trên thị trường tiền tệ. Thời hạn của tín phiếu được xác định là 1,3,6 hoặc 9 tháng;
mệnh giá có nhiều loại mà tối thiểu là 500 triệu VND, tối đa là 10000 triệu VND.
Tổng giá trị phát hành từng đợt và mệnh giá cụ thể do thống đốc Ngân hàng nhà nước
công bố trước mỗi đợt phát hành. Các tín phiếu được bán dưới hình thức đấu giá theo
1 trong 2 phương thức: đấu giá khối lượng và đấu giá bán. Người mua tín phiếu là các
tài chính tín dụng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước.
Trong những năm qua, số lượng tín phiếu Ngân hàng nhà nước được phát hành rất ít,
phát hành không thường xuyên. Các TCTD tham gia mua tín phiếu chủ yếu là NHTM
quốc doanh. Để trở thành công cụ điều hành thị trường tiền tệ có hiệu quả thì tín phiếu
Ngân hàng nhà nước phải đáp ứng hơn nữa cả về số lượng và chất lượng. Theo quy
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chế phát hành tín phiếu Ngân hàng nhà nước số 362/1999 QĐ-NHNN đến ngày
8/10/1999 thì tín phiếu đựơc tự do mua bán chuyển nhượng, cẩm cố giữa các TCTD ,
được cầm cố để vay vốn hoặc chiết khấu tại Ngân hàng nhà nước, được sử dụng làm
công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Thời hạn tín phiếu là dưới 1 năm, mệnh giá tối thiều
là 100 triệu đồng và các mức mệnh giá bằng bội số của 100 triệu.
II Thực trạng hoạt động thị trường mở ở Việt Nam trong những năm qua.
Nghiệp vụ thị trường mở bắt đầu vận hành vào 12/7/2000 ghi nhận việc chuyển điều
hành Chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang cácc ông cụ gián tiếp của Ngân hàng
nhà nước Việt Nam. Quy chế hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở được ban hành
theo quyết định số 85/2000/QĐ - NHNN14 ngày 9/3/2000. Trong thời gian qua, ban
điều hành Nghiệp vụ thị trường mở đã có những chỉ đạo sát sao đối với hoạt động của
thị trường do đó đã khăc phục phần nào khó khăn trong thời gian đầu vận hành.
Sau hơn 1 năm hoạt động, tính đến cuối năm 2002, thị trường mở đã có 22 thành viên,
trong đó có 4 NHTM quốc doanh, 10 NHTM cổ phần, 5 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, 1 ngân hàng liên doanh, Quỹ tín dụng TW và 1 công ty tài chính. Trong số 22

thành viên nói trên thì chủ yếu có 4 NHTM quốc doanh thường xuyên giao dịch, do
các ngân hàng này nắm hơn 70% lượng hàng hoá chính thức đủ điều kiện giao dịch
trên thị trường mở .
Cho đến nay, Nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện an toàn, đúng quy định, việc
điều hành Nghiệp vụ thị trường mở của NHNN đã phù hợp với mục tiêu chính sách
tiền tệ bám sát diễn biến của nền kinh tế thị trường và phần nào điều chỉnh vốn khả
dụng của các tổ chức tín dụng, thu hút khi thừa vốn và bơm thêm khi thiếu vốn. Trong
thời gian đầu vận hành, bình quân 10 ngày Ngân hàng nhà nước tổ chức 1 phiên giao
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
dịch thị trường mở và chủ yếu áp dụng phương thức đấu thầu lãi suất chỉ có duy nhất 4
phiên đầu tiên áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng. Lãi suất đăng ký giao động
trong khoảng 4,00%/năm đến 5,58%/ năm.
Trong tháng 8/2000 do lượng vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng có xu hướn dư
thừa nên NHNN đã tiến hành bán tín phiếu NHNN nhằm thr hút số vốn này đồng thời
tạo thêm hàng hoá cho thị trường mở. Trong 3 phiên liên tiếp của tháng 8/2000,
NHNN đã bán hẳn 550 tỷ đồng, đạt kết quả 100% so với dự kiến. Từ tháng 9 đến cuối
tháng 12/2002, do có sự hạn chế của NHNN ở cửa sổ chiết khấu và nhu cầu tín dụng
đồng Việt Nam tăng dần dẫn đến khan hiếm vốn khả dụng trong các tổ chức tín dụng,
NHNN đã sử dụng giao dịch đảo chiều mua giấy tờ có giá trong 14 phiên liên tiếp với
doanh số 1353,5 tỷ đồng.
Đầu năm 2001, ban điều hành Nghiệp vụ thị trường mở quyết định tiến hành giao dịch
thường xuyên hàng tuần vào ngày thứ tư, từ đó giúp cho các thành viên chủ động theo
dõi, nắm bắt kịp thời thông tin về thị trường. Từ 1/10/2001 đến 15/2/2001, lượng vốn
khả dụng tiếp tục thiếu hụt do nhu cầu tiền mặt tăng NHNN tiến hành mua vào giấy tờ
có giá, chủ yếu là mua kỳ hạn. Từ 21/2 đến 14/3/2001, lượng vốn khả dụng có biểu
hiện dư thừa, NHNN thực hiện bán hẳn giấy tờ có giá đạt 470 tỷ đồng. Từ 21/3 đến
30/5/2001, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, NHNN đã thực hiện mua có kỳ hạn giấy tờ
có giá với tổng giả trị đạt 745 tỷ đồng. Qua những diễn biến của thị trường mở trong
năm 2001 ta thấy hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện tương đối
linh hoạt đã đáp ứng phần nào nhu cầu về vốn khả dụng, cũng như giải quyết được 1

phần lượng vốn khả dụng dư thừa của các tổ chức tín dụng trong 1 số thời kỳ, từ đó
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
góp phần thực hiện các mục tiêu mà NHNN đặt ra, ổn định thị trường tiền tệ và hoạt
động ngân hàng.
Trong năm 2002, tính đến ngày 5/9, Ngân hàng nhà nước đã tổ chức 52 phiên giao
dịch. Tháng 5/2002, thị trường mở đã được tăng từ 1 phiên / tuần lên 2 phiên / tuần
vào ngày thứ ba và thứ năm. Trong 52 phiên giao dịch có 9 phiên thực hiện bán hẳn,
với tổng khối lượng trúng thầu là 900 tỷ đồng. Trong 43 phiên giao dịch mua, có 20
phiên không có tổ chức tín dụng(TCTD ) nào trúng thầu. Tổng khối lượng trúng thầu
của các phiên giao dịch mua có kỳ hạn từ đầu năm đến 5/9/2002 là 5771,53 tỷ đồng.
Trong tháng 9/2002 thời gian thanh toán các phiên giao dịch thị trường mở được rút
xuống từ thực hiện 1 ngày sau đấu thầu xuống thực hiện trong ngày đấu thầu. Trong
năm 2002, doanh số giao dịch Nghiệp vụ thị trường mở tăng mạnh so với 2001, doanh
số mua đạt trên 7200 tỷ đồng bằng khoảng 218% tổng doanh số mua của cả năm 2001,
doanh số bán đạt 1700 tỷ đồng bằng khoảng 274% doanh số bán năm 2001.
Như vậy kể từ khi khai trương đến ngày 5/9/2002, NHNN đã tổ chức được 118 phiên
giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu đạt 7671,53 tỷ đồng với tất cả
các hình thức giao dịch của thị trường mở như: bán hắn, bán có kỳ hạn, mua hẳn , mua
có kỳ hạn.
Hoạt động thị trường mở trong thời gian qua đã đạt được những kết qủa sau:
Một là, đã góp phần củng cố thêm vị thế, vai trò quản lý của NHNN trong nền kinh tế
thị trường, phù hợp với xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá.
Hai là, hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện tương đối linh hoạt,
góp phần thực hiện các mục tiêu NHNN đặt ra, ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động
NH. Đặc biệt với việc cung ứng vốn qua Nghiệp vụ thị trường mở, đã góp phần thực
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×