Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong xu thế hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.56 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sau 20 năm tiến hành đổi mới nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) dưới sự điều tiết và quản lý vĩ mô của
Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Trước ngưỡng cửa của sự hội nhập, trở thành thành viên chính thức
của tổ chức thương mại thế giới (WTO), Đảng và Nhà nước ta luôn xác
định chiến lược phát triển kinh tế xã hội là sẽ tiếp tục đẩy mạnh công cuộc
đổi mới, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước theo
định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Một trong những điều kiện tiên quyết để thực
hiện thành công đường lối đổi mới là phải ổn định môi trường kinh tế vĩ
mô và có các chính sách kinh tế phù hợp. Trong đó chính sách tiền tệ là
một chính sách kinh té quan trọng tác động mạnh mẽ nhiều mặt đến các
biến số kinh tế vĩ mô.
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ là một công cụ điều
tiết vĩ mô cực kỳ quan trọng, nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, kiềm chế
lạm phát, hạn chế thất nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã
đạt mức cao song tỷ lệ lạm phát vẫn ở mức cao, đồng nội tệ ngày càng mất
giá ... Điều này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải có một chính
sách tiền tệ đúng đắn, linh hoạt để tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta
phát triển nhanh, bền vững, đồng thời đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá
- hiện đại hoá đất nước.
Với những nhận định trên, em quyết định lựa chọn chủ đề: "Nâng
cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam trong xu thế hội nhập".
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ


1.1 Vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ
1.1.1 V ị trí
Kinh tế thị trường về thực chất là một nền kinh tế tiền tệ. Ở đó bao
giờ chính sách tiền tệ cũng là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ
mô quan trọng nhất của Nhà nước, bên cạnh chính sách tài khoá, chính
sách phân phối thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại…
NHNN sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thắt
chặt trong việc cung ứng tiền tệ, để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản
lượng và việc làm của quốc gia đến mức mong muốn.
Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất của NHNN. Có
thể coi chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt trong mọi hoạt động của
NHNN. Các hoạt động khác của NHNN đều nhằm thực thi chính sách tièn
tệ đạt được các mục tiêu của nó.
1.1.2 Nhiệm vụ
Chính sách tiền tệ, một mặt là cung cấp đủ phương tiện thanh toán
cho nền kinh tế (lượng tiền cung ứng), mặt khác phải giữ ổn định giá trị
đồng bản tệ. Để thực hiện được điều đó, thông thường trên thé giới, việc
xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ được giao cho NHNN. Có một số
nước, việc xây dựng chính sách tiền tệ có thể do một cơ quan khác, nhưng
thực hiện chính sách tiền tệ vẫn là NHNN. Tuy nhiên trong lĩnh vực này,
NHNN cần được độc lập ở một mức độ nhất định với Chính phủ.
2
1.2 Mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia
1.2.1 Kiểm soát lạm phát
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung theo thời gian. Khi lạm
phát ở mức độ cao (lạm phát phi mã, siêu lạm phát) thì sẽ dẫn tới phân phối
lại thu nhập và của cải giữa các tầng lớp giai cấp khác nhau. Khi giá cả
tăng lên một cách bất thường thì người mất là những người đang nắm giữ
các tài sản danh nghĩa, còn người được là những người có các khoản nợ
tính theo các giá trị danh nghĩa. Khi lạm phát tăng lên ở mức độ cao, thu

nhập thực tế của dân cư sẽ giảm, đời sống nhân dân lao động giảm sút, lạm
phát cao còn gây ra hiện tượng đầu tư tích trữ hàng hoá và hiện tuợng
chuyển tiền sang các loại hàng hoá khác, làm cho cầu về hàng hoá tăng
(gồm cả cầu giả tạo) dẫn tới mất cân đối cung cầu và giá cả hàng hoá tăng
lên, làm cho lạm phát tăng càng cao và dễ bị rơi vào vòng xoáy lạm phát
nếu tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài.
Còn khi lạm phát ở mức độ vừa phải (lạm phát dự tính thì nó không
có tác động tiêu cực mà còn có tác động thúc đẩy kinh tế tăng trưởng . Tuy
nhiên thực chất của việc kiểm soát lạm phát là chấp nhận sự biến động với
một biên độ cho phép. Còn khi lạm phát ở mức cao thì NHNN sẽ sử dụng
chính sách tiền tệ thắt chặt đẻ làm giảm mức cung ứng tiền, giảm lạm phát.
Như vậy, nhiệm vụ của NHNN là kiểm soát lạm phát tạo tiền đề cho
nền kinh tế phát triển bình thuờng, đảm bảo đời sống cho người lao động
1.2.2 Ổn định giá trị đồng bản tệ
Kiểm soát lạm phát được biều hiện trước hết ở chỗ ổn định giá trị đối
nội, giá trị đối ngoại của đồng tiền. Giá trị đối nội và giá trị đối ngoại củat
đồng tiền có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển
kinh tế - xã hội, Nhà nước phải có biện pháp ổn định giá cả hàng hoá và
dịch vụ trong nước và ổn định tỷ giá hối đoái.
Trong nền kinh tế mở, một sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ít hay
nhiều đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế trong nước tuỳ theo mức độ
hướng ngoại của nền kinh tế.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp (đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với
ngoại tệ) có tác dụng khuyến khích nhập khẩu gây bất lợi cho xuất khẩu vì
3
hàng xuất khẩu tương đối đắt khi bán cho nước ngoài. Như vậy sẽ gây trở
ngại trong nước về xuất khẩu, bất lợi cho những chuyển dịch ngoại tệ từ
nuớc ngoài vào trong nước. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái cao (đồng bản tệ
có giá trị thấp so với ngoại tệ) có tác dụng bất lợi cho nhập khẩu, khuyến
khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu tương đối đắt, hàng xuất khẩu

tương đối rẻ hơn.
Như vậy một tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều dẫn tới những tác động
kép tích cực và tiêu cực. Do đó nhiệm vụ của NHNN là sử dụng những
công cụ, chính sách của mình, can thiệp, giữ cho tỷ giá không thăng trầm
quá đáng, làm dịu bớt những tình trạng bất ổn định của nền kinh tế quốc
dân trong nuớc.
1.2.3 Tạo việc làm và giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp
Những người trong lực lượng lao động khi không có việc làm sẽ trở
thành người thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mỗi
quốc gia có nền kinh tế thị truờng cho dù quốc gia đó là phát triển, đang
phát triển hay kém phát triển.
Khi tỷ lệ thất nghiệp cao, sản xuất sút kém các nguồn lực không
được sử dụng hết, thu nhập của dân cư giảm sút. Khó khăn kinh tế tràn
sang lĩnh vực xã hội, nhiều hiện tượng tiêu cực phát triển, tác hại của thât
nghiệp là rất rõ ràng. Thất nghiệp luôn gắn liền với các tệ nạn xã hội như
cờ bạc, trộm cắp, tổn thương về mặt tâm lý và niềm tin của nhiều người, có
thể phá vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống, làm xói mòn lối sống lành
mạnh …
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là tạo việc làm, giảm bớt thất nghiệp
chứ không phải là làm cho thất nghiệp bằng không mà ở tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên. Trong thực tế có một số người thất nghiệp có lợi cho nền kinh tế. Đó
là khi người lao động quyết định đi tìm một công việc khác tốt hơn, phù
hợp hơn, thì người lao động đó bị thất nghiệp trong thời gian đang tìm việc
làm. Hoặc một số nguời lao động tự nguyện rời bỏ công việc của mình để
theo đuổi các hoạt động khác như học tập hay du lịch … và khi họ quyết
định gia nhập trở lại thị truờng lao động, họ phải mất một thời gian đẻ tìm
đúng công việc mà họ mong muốn.
4
Thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến công ăn việc làm,
tức đến tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ của

NHNN nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ, tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản
xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, công ăn việc
làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ
thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và Nhà nước
cần ít lao động hơn, công ăn việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng.
1.2.4 Ổn định và tăng trưởng kinh tế
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn chặt với mục tiêu việc làm
cao. Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi
cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến
khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh nghiệp có
nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng
kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ
hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh
nghiệp cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh
tế chậm lại.
1.2.5 Các mục tiêu trung gian
Trong nền kinh tế thị trường NHNN phải xác định các mục tiêu
trung gian của chính sách tiền tề, nhằm đạt đến các mục tiêu cuối cùng của
chính sách này. Bởi lẽ, NHNN sử dụng các mục tiêu trung gian để có thể
xét đoán nhanh chóng tình hình thực hiện hoạt động của mình phục vụ cho
các mục tiêu cuối cùng hơn là chờ cho đến khi nhìn thấy kết quả cuối cùng
của các mục tiêu đó.
Bằng việc tăng giảm các khối lượng tiền tệ NHNN góp phần đến tác
đông tăng, giảm tổng cung và tổng cầu tiền tệ của xã hội. Đồng thời NHNN
cũng có thể sử dụng công cụ lãi suất để tác động đến sự tăng giảm khối
luợng tiền tệ, từ đó tác động đến tổng cung và tổng cầu của xã hội.
1.2.6 Quan hệ giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ
Nhìn tổng quát và có chiến lược lâu dài thì các mục tiêu chính sách
tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Điều đó
cho thấy rằng trong quá trinh thực hiện chính sách tiền tệ không thể tuyệt

đối hoá một mục tiêu nào, không thể giải quyết các mục tiêu một cách độc
5
lập trên tầm vĩ mô. Tuy nhiên, có nơi có lúc, trong thời gian ngắn có thể
xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu. Điều
thường gặp và dễ thấy nhất là sự mâu thuẫn giữa tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ
thất nghiệp. Tuy vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau, song nhìn chung,
mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng bản tệ, trên cơ
sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
1.3 Các công cụ của chính sách tiền tệ
1.3.1 Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM)
NVTTM là hoạt động NHNN mua bán các giấy tờ có giá với mục
đích tác động đến thị trường tiền tệ, điều hoà cung và cầu về giấy tờ có giá,
gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các NHTM tại NHNN, từ đó tác động
đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng này từ đó làm thay đổi
mức cung tiền.
Trên thị trưởng mở NHNN chủ yếu mua bán trái phiếu của Chính
phủ. Bằng cách mua trái phiếu NHNN làm tăng khối dự trữ của NHTM.
Khi đó, NHTM có thể mở rộng khả năng cho vay gấp bội lần tuỳ theo mức
dự trữ bắt buộc. Hơn nữa việc NHNN mua trái phiếu với lãi suất thấp góp
phần tăng cung tín dụng từ đó làm lãi suất tín dụng hạ thấp, kích thích các
doanh nghiệp đi vay. Đây cũng là một cách gia tăng khối tiền tệ. NVTTM
là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất bởi vì nghiệp vụ này là yếu tố
quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ, và là
nguồn chính gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ.
Có hai loại NVTTM là NVTTM chủ động nhằm thay đổi mức dự trữ
và cơ số tiền tệ; NVTTM thụ động nhằm bù lại những chuyển động của các
nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ.
NVTTM có những ưu và nhược điểm sau:
- Ưu điểm
NVTTM linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức

độ nào.
NVTTM dễ dàng được đảo ngược lại. Khi có một sai lầm xảy ra
trong lúc tiến hành NVTTM, NHNN có thể lập tức đảo ngược lại việc sử
dụng công cụ đó.
6
NVTTM có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây ra những
chậm trễ về mặt hành chính.
- Nhược điểm: đòi hỏi phải có thị trường chứng khoán phát triển và chỉ có
thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông đều nằm ở tài
khoản tại ngân hàng.
1.3.2 Công cụ chiết khấu
Nghiệp vụ vủa NHTM là kinh doanh tiền tệ, tức là nhận tiền gửi và
cho vay phần lớn tiền gửi đó. Nhưng không phải lúc nào hoạt động của
ngân hàng cũng thuận lợi. Có những lúc người gửi tiền đến rút tiền quá
nhiều, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng kẹt vốn. Những trường hợp ào ạt rút
tiền thường xảy ra theo những chu kỳ kinh tế. Do đó nhiều ngân hàng khó
tránh khỏi tình trạng thiếu khả năng chi trả, do đó nều không có NHNN,
ngân hàng trung gian sẽ rất nguy hiểm vì dễ rơi vào tình trạng phá sản.
Chính vào những lúc khó khăn đó, NHTM sẽ tìm mọi cách để có được vốn
để chi trả, có thể là đi vay, và người cho vay cuối cùng của NHTM chính là
NHNN.
NHNN sẽ cấp tín dụng cho NHTM qua nhiều hình thức, thông dụng
nhất là tái cấp vốn dưới hình thức tái chiết khấu các thương phiếu. Khi
chấp nhận chiết khấu tức là NHNN đã làm tăng khối tiền tệ. Thông qua lãi
suất tái chiết khấu, NHNN có thể khuyến khích giảm hoặc tăng mức cung
ứng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế, đồng thời giảm hoặc tăng
mức cung ứng tiền
Chiết khấu và tái chiết khấu có những ưu đểm và nhược điểm sau:
- Ưu điểm
Các khoản cho vay của NHTM đều được đảm bảo bằng các giấy tờ

có giá. Do nó có khả năng tự thanh toán.
Có tính chất tích cực hơn biện pháp hạn mức tín dụng do chịu sự tác
động của quy luật cung cầu
- Nhược điểm
NHNN bị thụ động do yếu tố chủ động đi vay hay không nằm ở
NHTM
7
Yếu tố chính trị trong lãi suất chiết khấu quá lớn. Việc áp đặt một lãi
suất chiết khấu chịu yếu tố chủ quan của NHNN rất lớn, nó có thể đưa ra
một lãi suất chiết khấu không phù hợp với lãi suất thị trường khi NHNN bị
phụ thuộc nhiều vào Chính phủ.
1.3.3 Dự trữ bắt buộc
NHNN được giao quyền bắt buộc các ngân hàng trung gian phải ký
gửi tại NHNN một phần của tổng số tiền gửi mà ngân hàng trung gian nhận
được từ dân cư và các thành phần kinh tế theo một tỷ lệ nhất định. Phần bắt
buộc ký gửi đó được gọi là dự trữ bắt buộc và tỷ lệ phần trăm mà NHNN
quy định như trên gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Mục đích của việc thực hiện dự trữ bắt buộc là nhằm:
Giới hạn khả năng thương mại của ngân hàng trung gian, tránh được
trường hợp ngân hàng này quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá
mức, có thể gây hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền ở ngân hàng tức là
đảm bảo an toàn tiền gửi của khách hàng.
Việc tập trung dự trữ của ngân hàng trung gian ở NHNN còn là một
phương tiện để NHNN có thêm quyền lực để điều khiển hệ thống ngân
hàng, tạo sự lệ thuộc của ngân hàng trung gian đối với NHNN.
Duy trì khả năng thanh toán của các ngân hàng trung gian trong
những trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt rút tiền gửi của công chúng,
tránh được tình trạng khủng hoảng ngân hàng.
8
1.3.4 Kiểm soát hạn mức tín dụng

Chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc sẽ giới hạn mức tín dụng tối
đa cấp cho những ngành mà Nhà nước không muốn phát triển nữa, ngược
lại, ưu đãi những ngành hoạt động được coi như ưu tiên, cần yểm trợ tín
dụng mạnh hơn. Nếu không có chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc,
NHNN sẽ chỉ hướng tín dụng vào những ngành kinh doanh lớn, xí nghiệp
nuớc ngoài, mua bán chứng khoán, ít chú trọng tới những ngành hoạt động
có lợi ích xã hội.
Ấn định hạn mức tín dụng là việc NHNN quy định một khối lượng
tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định.
Việc ấn định hạn mức tín dụng có ưu điểm là giúp NHNN quản lý
điều tiết được lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế khi các công cụ truyền
thống không hiệu quả. Nhược điểm của công cụ này là tổng dư nợ thực tế
của NHTM là không bằng hạn mức tín dụng mà NHNN quy định từ trước.
Làm giảm bớt động lực cạnh tranh giữa NHTM vì các NHTM hoạt động
tốt khi sử dụng hết hạn mức tín dụng cũng không thể huy động vốn được
thêm trong khi các NHTM hoạt động kém vẫn được huy động vốn vì chưa
hết hạn mức.
1.3.5 Cung ứng tiền mặt pháp định
NHNN có thế trực tiếp làm tăng, giảm dự trữ và cung ứng tiền bằng
các nghiệp vụ thị trường hối đoái và nghiệp vụ cho vay với Chính phủ,
ngoài NVTTM và cho vay chiết khấu, tái chiết khấu.
Khi NHNN đưa tiền mặt ra mua ngoại tệ, lập tức sẽ làm gia tăng
lượng tiền trong lưu thông, dẫn đến tỷ giá lên cao, nghĩa là phá giá đồng
bản tệ. Ngược lại, khi NHNN đem ngoại tệ ra bán, làm giảm nhanh cung
ứng tiền, lượng tiền trong lưu thông giảm đi, tỷ giá ngoại tệ hạ thâp xuống,
tức là nâng giá đồng bản tệ.
9

×