Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thuốc chống sốt rét OZ 277/Rbx 11160 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.19 KB, 27 trang )

Thuốc chống sốt rét OZ 277/Rbx 11160



Mặc dù hiện nay trị liệu phối hợp chống kháng có gốc Artemisinine
(ACTs_Artemisinine-based Cobination Therapy) đang được khuyến cáo sử dụng
điều trị sốt rét kháng thuốc trên phạm vi toàn cầu, tuy nhiên các nhà sản xuất đã
dự tính một sản phẩm thuốc sốt rét mới thay thế nếu ACTs bị kháng bởi
P.falciparum. Sản phẩm mới này có mã số OZ 277/Rbx 11160 là một chất tổng
hợp có cấu trúc tương tự Artemisinin được xem như vũ khí chính trong cuộc chiến
chống lại bệnh sốt rét đa kháng thuốc và bước đột phá lớn nhất trong điều trị sốt
rét hiện nay, đồng thời chứng minh thành quả của nỗ lực hợp tác quốc tế được
tiến hành từ cuối thập niên 90 thế kỷ 20 giữa các nhà khoa học thuộc các Viện Đại
học Monash (Úc), Trung tâm Y khoa Nebraska (Mỹ), Viện Nhiệt đới (Thụy Sĩ) và
Viện Dược phẩm Hoffmann-La Roche (Thụy Sĩ).
Sốt rét vẫn đang là gánh nặng bệnh tật của các quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới
khu vực sa mạc Sahara, châu Phi và Đông Nam Á và cũng là một trong những căn
bệnh gây tử vong đáng kể. Mặc dù phần lớn các trường hợp sốt rét ác tính, tử vong
và mắc bệnh đều quy kết cho loài ký sinh trùng sốt rét loại P.falciparum, song P.
vivax cũng ảnh hưởng đến gần 100 triệu người mỗi năm trên toàn cầu. 10-20% số
ca P. vivax trên toàn cầu là ở châu Phi, nam Sahara; tại vùng Đông và Nam Phi, P.
vivax chiếm khoảng 10% và riêng tại Tây và Trung Phi, P. vivax chiếm dưới 1%.
Ngoài châu Phi, P. vivax chiếm trên 50% và trong đó đó 80 - 90% số ca là nằm ở
các quốc gia Trung Đông, châu Á, Tây Thái Bình Dương và 10 - 20% là nằm ở
các quốc gia Trung và Nam Mỹ. Cùng với sốt rét do P. falciparum, thì P.vivax góp
phần vào quá trình đói nghèo, tăng tỷ lệ bệnh trong mô hình bệnh tại các quốc gia
ở trên; vả lại, dù không nhiều, song gần đây sốt rét do P.vivax có báo cáo là gây
nên các bệnh cảnh sốt rét ác tính và tử vong, đặc biệt tại Ấn Độ, một phần không
thể không nghĩ đến sự giảm đáp ứng của P. vivax với thuốc.
Tình trạng ký sinh trùng sốt rét P.falciparum kháng thuốc lan tràn nghiêm trọng
trên thế giới là một khó khăn lớn cho việc lựa chọn các thuốc điều trị sốt rét. Ở


Việt Nam P.falciparum kháng cao với chloroquine, Fansidar, mefloquine và giảm
đáp ứng với nhiều loại thuốc chống sốt rét hiện dùng; ngay cả thuốc Artemisinine
và dẫn chất Artesunate được tiến hành thử nghiệm lâm sàng và chính thức đưa vào
sử dụng trong CTQGPCSR ở Việt Nam từ những năm 1990 có vai trò quan trọng
trong trong việc hạ thấp tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do sốt rét. Song, thông báo mới
nhất cho biết thuốc Artemisinine đã bị kháng tại khu vực biên giới Thái Lan-
Cambodia có thể làm thất bại các thành quả của chương trình phòng chống sốt rét
toàn cầu và đe dọa nếu nó lan sang các quốc gia láng giềng và phạm vi rộng hơn -
toàn cầu. Chloroquine là một thuốc diệt thể phân liệt mô có hiệu quả hơn 50 năm
qua trong việc phòng bệnh và điều trị sốt rét do P.vivax. Mãi cho đến thập kỷ
trước thuốc chloroquine vẫn còn nhạy với loài ký sinh trùng này. Song, tỷ lệ
kháng cao với chloroquine đã được báo cáo lần đầu tiên tại Papua New Guinea
(Rieckmann và cs., 1989), tiếp đó tại Indonesia (Baird và cs., 1991) dao động
quanh 10% và nay nhiều báo cáo cho biết thực trạng kháng lan rộng khắp các
vùng trên thế giới (Myat Phone Kyaw và cs., 1993; Than và cs., 1995; Garg và cs.,
P.T.Giáo và cs., 2002; Vinetz và cs., 2006; Teka H và cs., 2008; Tjitra E và cs.,
2008; Ketama T và cs., 2009; Lee KS và cs., 2009).
Tại Việt Nam nói chung, sốt rét do P.vivax lưu hành nhiều ở các tỉnh phía bắc và
các tỉnh dọc biên giới phía tây, gần đây tỷ lệ P.vivax cũng tăng lên tại một số tỉnh
khu vực miền Trung-Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Ninh Thuận. Khu vực miền
Trung - Tây Nguyên nói riêng với nhiều tỉnh thành có vùng sốt rét trọng điểm và
tình hình ký sinh trùng kháng với các thuốc cao. Việc đánh giá hiệu lực phác đồ
thuốc sốt rét đang dùng và thuốc mới với P. falciparum là một yêu cầu cần thiết và
thường quy, nhất là theo dõi liên tục tại một số điểm thuộc vùng sốt rét lưu hành
nặng có tỷ lệ kháng cao. Như các quốc gia Đông Nam Á khác, Việt Nam cũng
đang đối mặt với nguy cơ lan rộng tiềm tàng P. vivax kháng với chloroquine. Do
đó, song song hoạt động theo dõi đáp ứng ký sinh trùng P .falciparum, thiết nghĩ
chúng ta không những không nên xem sốt rét do P.vivax là căn bệnh bị lãng quên,
mà còn phải theo dõi thường quy vấn đề hiệu lực của chloroquine đối với P. vivax,
để từ đó có hướng xử trí và thay đổi phác đồ thích hợp.

Nhóm thuốc phối hợp có gốc artemisinine (ACTs_Artemisinine based
combination therapies) ra đời như một đột phá về thuốc chống kháng và làm chậm
phát triển kháng thuốc các thuốc chống sốt rét đang dùng trong chương trình quốc
gia phòng chống sốt rét của các nước. Kêt từ tháng 1.2006, TCYTTG đã kêu gọi
và khuyến cáo không nên sử dụng dạng thuốc artesunate đơn trị liệu để làm trì
hoãn kháng do loài P. falciparum vì các dữ liệu nghiên cứu trên in vitro (cho thấy
tăng nồng độ của IC50, IC*90, IC99, EC50, EC90, EC99) cũng như một số trường
hợp không còn hoặc giảm đáp ứng trên lâm sàng với artesunate nữa (tại Ấn Độ,
Indonesia, Thái Lan). Thuốc ACTs được giới thiệu và áp dụng trong các danh mục
thuốc sốt rét thiết yếu là một điểm cải tiến mới và giảm bớt gánh nặng nhiều mặt
cho bệnh sốt rét tại châu Phi, Nam Mỹ và Đông Nam Á. Song, gần đây, một số
báo cáo cũng cho thấy tỷ lệ thất bại điều trị với nhóm thuốc này, dù ít nhưng có (1-
3%; 1-7%), do đó thời điểm tìm kiếm một thuốc mới hiện đang rất cần thiết và các
công ty dược hàng đầu vẫn đang tiếp tục nổ lực để cho ra các ứng cử viên chống
kháng.
Giới thiệu về đột phá phát triển thuốc điều trị sốt rét mới
Hiện nay, sốt rét vẫn là một căn bệnh khó tiêu diệt. Đặc biệt, hai loại muỗi
Anopheles Gambiae và Anopheles Funesus được xem là “vô địch” trong lĩnh
vực truyền bệnh sốt rét cho người ở châu Phi, làm tiêu tốn hàng năm khoảng
12 tỷ USD trong việc phòng và trị bệnh. Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 1
triệu ca sốt rét, trong đó có 85% là do P. falciparum đã đề kháng với CQ và
Fansidar. Vì thế, các nhà khoa học vẫn không ngừng nghiên cứu nhằm tìm ra
một loại thuốc mới điều trị sốt rét hiệu quả hơn.
Bệnh sốt rét quay trở lại từ đầu thập niên 70 với các ký sinh trùng đã đề kháng
nhiều loại thuốc cổ điển giá rẻ như CQ. Bệnh đã gây thiệt hại khoảng 12 tỷ USD
hàng năm cho các nước châu Phi, chiếm đến 40% ngân sách phục vụ sức khỏe
cộng đồng. Theo báo cáo gần đây của Viện Y học IOM thì bệnh sốt rét đang tái
xuất hiện ở mức độ cao, từ đó nhấn mạnh đến việc cần thiết phải bổ sung nguồn
thuốc cấp bách có thể thay thế các thuốc trị sốt rét cũ đã bị kháng với giá thành rẻ
hơn. Hiện nay, liệu pháp thuốc kết hợp ACTs (Artemisinine based Combination

Therapies) là phương pháp điều trị sốt rét hiệu quả nhất, nhưng do chi phí cao nên
việc cung cấp cho bệnh nhân nghèo tại các địa phương có dịch sốt rét còn gặp khó
khăn (mỗi năm cần tới khoảng 300-500 triệu phương thuốc điều trị).
Cây thanh hao hoa vàng đã được y học Đông phương biết đến từ lâu trong điều trị
bệnh sốt rét. Tên khoa học của cây là Artemisia annua. Tại Việt Nam, hai danh y
Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông cũng xác nhận thanh hao hoa vàng có khả năng
trị được bệnh sốt rét, chứng đổ mồ hôi trộm. Hoạt chất chính của cây thanh hao
hoa vàng là Artemisinine (tiếng Trung Quốc gọi là qinghaosu) được phân lập và
có cấu trúc xác định vào năm 1972 - là một chất sesquiterpene lactone với một cầu
nối peroxide bên trong. Lá thanh hao được tán nhuyễn, xay thành bột để chiết xuất
hoạt chất artemisinine. Năm 1993, Vonwiller và cộng sự đã báo cáo một phương
pháp mới ly trích các hợp chất của cây thanh hao hoa vàng giúp gia tăng hàm
lượng Artemisinine.
Việc kết hợp các dẫn xuất của artemisinin như Artesunate, Artemether tỏ ra có
hiệu quả trong việc chống lại ký sinh trùng sốt rét đã đề kháng với các thuốc sốt
rét cổ điển. Artemether đã được phép đăng ký sử dụng tại châu Phi với tên là
Paluther. Tuy nhiên, do chi phí sản xuất thuốc còn quá cao, thời gian bán hủy ngắn
nên gây nhiều khó khăn cho việc điều trị vì bệnh nhân phải dùng thuốc liên tục sau
mỗi 4 giờ. Thời gian điều trị theo phác đồ kéo dài thường dễ thất bại nếu bệnh
nhân không thường xuyên dùng thuốc. Mặc dù Artemisinin được xem là chất cơ
bản trong liệu pháp kết hợp ACTs, nhưng “khả thi” điều trị còn giới hạn do giá
thành cao cũng như phương pháp ly trích tốn nhiều thời gian. Vì thế, việc nghiên
cứu sản xuất một loại thuốc hữu hiệu chống sốt rét với giá thành hạ tỏ ra cần thiết
hơn bao giờ hết.
Tiến trình phát minh và cho ra đời thuốc sốt rét mới trên thế giới

Việc phát minh thuốc mới chống sốt rét là một nhu cầu thiết yếu và là nhân tố góp
phần rất có ý nghĩa trong việc cứu sống hàng bao sinh mạng tại các quóc gia đang
có sốt rét lưu hành, nhất là vùng sốt rét có KSTSR giảm nhạy hoặc kháng với
nhiều loại thuốc sốt rét khác nhau, từ cổ điển đến những thuốc còn hiệu lực trong

thời gian gần đây. Mặt khác, thuốc/ hợp chất mới đã giúp chống kháng, làm giảm
tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong do sốt rét rất nhiều. Lẽ đương nhiên, thuốc sốt rét
mới này phải đạt được các tiêu chí sau:
rHiệu lực chống kháng và hiệu quả điều trị ưu thế hơn liệu pháp các thuốc phối
hợp ACTs trước đó;
rThuốc có liệu trình ngắn, tác dụng phụ không đáng kể, khả thi áp dụng cho cộng
đồng cao;
rThuốc được tổng hợp không nhất thiết phụ thuộc vào sản lượng cây thanh hao
hoa vàng (lý tưởng nhất, và điều này hiện nay tại một số quốc gia và các tập đoán
nghiên cứu đã cho ra sản phẩm artemisinine mà bằng các kỹ thuật hiện
đại,…không nhất thiết thông qua quy trình nuôi trồng và thu hái loại cây thanh hao
hoa vàng);
rGiá thành thấp cũng là một tiêu chí quan trọng.
Một số nét sơ lược về thuốc sốt rét OZ 277/Rbx 11160
Một sản phẩm mới ra đời với mã số OZ 277/Rbx 11160 đã được xem là bước đột
phá lớn nhất trong điều trị sốt rét hiện nay. Đây là thành quả của một nỗ lực hợp
tác quốc tế được tiến hành từ cuối thập niên 90 thế kỷ 20 giữa các nhà khoa học
thuộc các Viện Đại học Monash (Úc), Trung tâm Y khoa Nebraska (Mỹ), Viện
Nhiệt đới (Thụy Sĩ) và Viện Dược phẩm Hoffmann-La Roche (Thụy Sĩ). Kết quả
của các công trình nghiên cứu đã được ấn bản trên tạp chí khoa học The Nature.
OZ 277/Rbx 11160 là một chất tổng hợp có cấu trúc tương tự Artemisinin, sẽ là vũ
khí chính trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét đa kháng thuốc và có thể đáp ứng
được nhu cầu điều trị trong vòng 3 năm tới. Thuốc tác động bằng cách dùng các
gốc tự do tấn công vào protein và enzyme của ký sinh trùng OZ 277/Rbx 11160
hiện đang được thử nghiệm về tính an toàn trên người với kết quả rất hứa hẹn.
Giáo sư Bill Charman thuộc trường Đại học Dược Victoria cho biết OZ 277/Rbx
11160 vừa rẻ vừa dễ sản xuất, mở ra tiềm năng có thể cứu sống hàng triệu bệnh
nhân sốt rét trên khắp thế giới. Theo thống kê năm 2003, mỗi ngày tại châu Phi có
đến 3.000 trẻ em tử vong vì sốt rét, nghĩa là cứ mỗi 30 giây lại có một trẻ em châu
Phi tử vong vì căn bệnh này. Sốt rét cũng là mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe

của phụ nữ có thai và trẻ sơ sinh ở châu Phi. Hiện hàng năm có khoảng 20% dân
số thế giới sống ở những nước nghèo nhất phải đối diện với nguy cơ nhiễm sốt rét.
Cũng theo GS. Charman: “Chúng tôi đã thật sự xúc động về sự tiến bộ và tốc độ
phát triển của thuốc. Hiện thuốc đang được thử nghiệm tại châu Âu, nếu tiến độ
diễn ra tốt đẹp thì chỉ trong vòng 3 năm tới, đây sẽ là vũ khí mới giúp con người
chống lại bệnh sốt rét một cách hiệu quả”. Mục đích chính của công trình nghiên
cứu là cho ra đời được một loại thuốc hữu hiệu với giá thành thấp nhằm có thể
cung cấp cho các quốc gia nghèo. Khả năng của OZ 277/Rbx 11160 là dùng điều
trị các ký sinh trùng sốt rét đã đề kháng nhiều loại thuốc. Thử nghiệm trên chuột
cho thấy hiệu lực 95-100% sạch ký sinh trùng trong vòng 3 ngày. Như thế chỉ với
một đợt điều trị 3 - 4 ngày đã có thể chữa khỏi bệnh. Với giá thành điều trị 1
USD/ngày thì chương trình điều trị 3 ngày có thể dễ dàng được thực hiện. Loại
thuốc mới này hứa hẹn sẽ giữ vai trò then chốt trong việc điều trị bệnh sốt rét, thay
thế các thuốc cũ đã giảm hiệu quả hay đã bị kháng.
Từ tháng 5.2003, công ty dược phẩm hàng đầu của Ấn Độ Ranbaxy đã ký
một thỏa ước với tổ chức MMV (Medicines for Malaria Venture) tại Geneve -
Thụy Sĩ) để cùng phát triển sản phẩm peroxyde trong cuộc chiến toàn cầu
chống lại bệnh sốt rét. MMV (Medicines for Malaria Venture) là tổ chức phi
lợi nhuận chuyên khám phá, phát triển và phân phối các phương tiện chống
sốt rét. Ngày 19/8/2004, Ranbaxy và MMV đã thông báo việc đưa thuốc vào
thử nghiệm lâm sàng trên người. Cả hai đơn vị này đã được cơ quan MHPRA
(Medicines and Healthcare Products Regulatory Agency) cho phép tiếp tục
công việc thử nghiệm lâm sàng trên người tại Anh. Đây là bước thử nghiệm
thuốc mới đầu tiên sau khi đã đạt được độ an toàn và hiệu quả trên các bước
thử nghiệm tiền lâm sàng giai đoạn trước đó. OZ277/Rbx 11160 đã được
lượng giá trong pha I nghiên cứu về độ an toàn, sự dung nạp cũng như hiệu
lực dược lý trên người tại Anh.
Hiệu quả của thuốc OZ277 / Rbx 11160 qua một số nghiên cứu trên thế giới
1. Hoạt tính chống sốt rétcủa chất Endoperoxide tổng hợp (RBx-
11160/OZ277) chống lại các phân lập Plasmodium falciparum tại Gabon

Nghiên cứu trên do nhóm tác giả Andrea Kreidenweiss, Benjamin
Mordmüller, Sanjeev Krishna, Peter G. Kremsner đang làm việc tại La bô
nghiên cứu y học, bệnh viện Albert Schweitzer, Lambaréné, Gabon, khoa ký sinh
tùng, đại học Tübingen, Đức, Đơn vị nghiên cứu y học mức độ phân tử và tế bào,
Trung tâm bệnh nhiễm trùng, St. George's, đại học London, Cranmer Terrace,
London, Anhtiến hành và công bố năm 2006.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra OZ277 là một chất mới, đây là một endoperoxide
chống sốt rét hoàn toàn do tổng hợp được thử nghiệm chống lại các phân lập ký
sinh trùng thu thập tại thực địa của quốc gia Gabon. Một thử nghiệm so sánh hoạt
tính của OZ277 với artesunate, mefloquine và chloroquine chỉ ra OZ277 có hoạt
tính chống lại tất cả phân lập ký sinh trùng rất. Artesunate và Mefloquine cũng coh
thấy hoạt tính chống ký sinh tùng tiềm năng, nhưng tất cả phân lập đều kháng với
chloroquine.
Một trong những trở ngại quan trọng nhất để làm giảm tỷ lệ tử vong do sốt rét là
thiết lập nên các chủng kháng thuốc/ đa thuốc trong một số vùng lưu hành.
Artemisinin và các dẫn suất là một phần quan trọng của các phác đồ khuyến cáo
nhiều nhất vì chúng tác động chống lại các ký sinh trùng kháng. Các dấu hiệu gần
đây trên in vitro kháng với một số thuốc Artemisinin và dẫn suấtlàm cho sự phát
triển một thuốc mới là ưu tiên hàng đầu. Do đó, cũng không cung cấp thuốc đủ
theo nhu cầu về Artemisinin vì chúng được tổng hợp từ thảo dược, nên đòi hỏi có
thời gian để nuôi trồng. Vennerstrom và cộng sự đã tổng hợp một vài dẫn suất
trioxolane kết hợp chặt chẽ với cầu nối endoperoxide pharmacophore của
Artemisinin. Họ đã thu nhận các peroxide dạng tổng hợp với các tương tự hoặc
tăng đặc tính chống sốt rét và cải thiện về đặc tính dược động học so với các dẫn
suất bán tổng hợp khác.

Một hợp chất có tên OZ277 (hay gọi là trioxolane 7 và RBx-11160), là một
chương trình phát triển lâm sàng. OZ277 có hoạt tính cao chống lại các chủng P.
falciparum thuần chủng trong la bô và các ký sinh trùng trên loài gặm nhấm trong

điều kiện in vivo. Tuy nhiên, các thử nghiệm liên quan đến các thuốc sốt rét mới
chống lại các phân lập không phải trong môi trường nuôi cấy của loài P.
falciparum (non-culture-adapted field isolates of P. falciparum) là rất cần thiết để
đánh giá tính biến đổi của hoạt tính thuốc trong nhiều vùng khác nhaunơi mà ký
sinh trùng kháng với các lớp thuốc sốt rét khác.
Các nhà nghiên ccuwus đã đồng thời kiểm tra hoạt tính của thuốc OZ277,
Artesunate, chloroquine và Mefloquine trên các phân lập P. falciparum mà họ đã
thu thập được trên các bệnh nhân bị sốt rét tại Lambaréné, Gabon. Hầu hết các ký
sinh tùng sốt rét trong vùng này đã có mức độ kháng cao với CQ, ngược lại với
mefloquine và artesunate vẫn còn hiệu quả. Các vấn đề cam kết và đánh giá hài
lòng đều luôn luôn trình bày hợp pháp và có sự tham gia đánh giá của trẻ em. Sự
nghiên cứu này đều có sự chấp thuận của hội đồng y đức của Tổ chức quốc tế của
bệnh viện Albert Schweitzer (International Foundation of the Albert Schweitzer
Hospital) ở Lambaréné. Ký sinh trùng lấy từ bệnh nhân tuổi từ 1 - 15, mắc sốt rét
không biến chứng và biểu hiện nhiễm đơn thuần chỉ một loài P. falciparum
(MĐKSTSR khoảng 103.1.2 x 105 KSTSR/µl) định bởi soi lam máu giem sa trên
lam giọt mỏng và giọt đặc và chưa dùng thuốc sốt rét nào ít nhất một tháng. Máu
tĩnh mạch được lấy 0.5ml vào trong tube chứa 16 đơn vị lithium heparin (Sarstedt)
và xử lý ngay. OZ277 (trọng lượng phân tử [MW], 565) (hình ảnh trên cho thấy
cấu trúc của OZ277), Artesunate (MW, 384), chloroquine diphosphate (MW, 515)
và mefloquine (MW, 415) được lấy từ Medicines for Malaria Venture và hòa tan
trong dimethyl sulfoxide (OZ277), 70% ethanol (artesunate), hoặc methanol
(mefloquine) ở nồng độ 10 mg/ml. Chloroquine được chuẩn bị sẵn với nước cất 2
lần (5 mg/ml). Các thuốc được phân dưới dạng predose trong các plate 96 giếng
vào ngày trước khi sử dụng pha loãng hàng loạt gấp 2 lần (OZ277) hoặc 3 lần cho
tất cả các thuốc khác. Độ nhạy của thuốc được thử và ấn bản tài liệu trước đó, với
sự cải tiến nhỏ. Mật độ KSTSR trong máu được điều chỉnh tới 0.05% với hồng cầu
nhóm máu O+ từ một người cho máu khỏe mạnh, thêm vào các plate 96 giếng ở
nồng độ Hct 1.5% trong môi trường nuôi cấy ký sinh trùng (RPMI 1640, 25 mM
HEPES, 2 mM L-glutamine, 50 µg/ml gentamicin và 0.5% albumax), và rồi ử

trong 72 giờ ở nhiệt độ 37°C trong hộp nến. Tổng số 22 mẫu đầu tiên được thử
trong 3 và 1 mẫu thử trong 2 (n = 59) vì sự khác biệt giữa các giếng liên tiếp khác
nhau rất thấp.
Bảng 1. Nồng độ ức chế trung bình của các thuốc nghiên cứu đối với các phân
lập tại Gabon

Một lam máu giọt đặc của giếng chứng (không điều trị) được làm sau 26 giờ và
đồng thời một mẫu tương tự để đông lạnh để tính sự sinh thành phần kháng
nguyên HRPII (histidine-rich protein 2). Nuôi cấy ký sinh trùng được điều chỉnh
thành công khi ít nhất 20% số ký sinh trùngtrưởng thành sang thể phân liệt thời
điểm giờ 26. Phát triển KSTSR đươc tính từ mức độ HRPII, đo theo phương pháp
thử nghiệm hiện dùng rộng rãi (MalariaAg CELISA, Cellabs, Australia). Theo quy
trình đề cương của Tổ chức YTTG, chloroquine và mefloquine kháng được tính từ
thể tích máu lý thuyết mà đã được chủng vào (lần lượt 1 và 5 µmol/l) vì thuốc tích
tụ trong hồng cầu. Các nồng độ ức chế riêng lẻ được xác định theo phân tihcs hồi
quy không tuyến tính (nonlinear regression analysis) của các đường cong đáp ứng
liều thông qua bảng Curve 2D phiên bản 4 (SPSS, Inc.). Tính tương quan theo cặp
đôi của các thuốc nghiên cứu được đánh giá theo hệ số Pearson của logarith giá trị
nồng độ ức chế 50% đã chuyển (IC50) (JMP version 5.0.1.2; SAS Institute).
81 phân lập P. falciparum thu thập được với 50 (62%) đủ tiêu chuẩn nuôi cấy
thành công. Cuối cùng, độ nhạy cảm của 38 chủng đối với thuốc OZ277, 43 chủng
với Artesunate hoặc chloroquine, 44 chủng với mefloquine được thử ở đây. Các
giá trị lỗi do thiếu một mẫu chứa trong quá trình vận chuyển từ Lambaréné tới
Tübingen. Các sự khác biệt hay thay đổi trong thực nghiệm tối thiểu và kiểm tra
chất lượng nghiêm ngặt là chủ yếu cho kiểm tra thuốc sốt rét, đặc biệt đối với các
thuốc được phân chia trong các khoang của ký sinh trùng, như CQ chẳng hạn và
cả OZ277. Sự bỏ sót huyết thanh người từ nuôi cấy, tương tự như bắt đầu với
KSTSR trong máu và các đĩa plate rửa sạch, duy trì nồng độ hằng định trong suốt
quá trình nghiên cứu (tương quan của ngày nhâp viện và hoạt độ của thuốc, r2 =
0.003; p = 0.42) theo bảng 2 dưới đây. Hệ số trung bình của việc xác định đường

cong thích hợp là 0.99 (khoảng vùng phân tán giá trị là 0.98 - 1.0).
Bảng 2. Tương quan theo cặp của giá trị IC50 từ các thuốc nghiên cứu tại
Gabon

Tất cả phân lập là kháng với CQ (bảng1). OZ277 chỉ ra hoạt độ thẩm thấu cao
nhất, với khoảng hoạt động theo từng mẫu riêng lẻ là rất hẹp có ý nghĩa (tỷ số cao
nhất đến thấp nhất của giá trị IC50, 17.2 đối với OZ277, 28.0 đối với Artesunate,
26.8 đối với CQ và 88.3 đối với Mefloquine). Điều này rất quan trọng bởi vì ngay
cả một số giá trị IC50 rất cao có thể chỉ ra một nguy cơ kháng tiềm tàng. Nhạy
chéo (Cross-sensitivity) được đo bằng cặp (pairwise) tương quan của giá trị IC50
log-transformed (bảng 2) giữa hoạt độ OZ277 và các thuốc khác. Điều này cao
nhất với thuốc artesunate, đối so sánh là endoperoxide. Hệ số tương quan cao nhất
tìm thấy giữa Artesunate và mefloquine. Ngược với Artesunate, OZ277 không
tương quan thuận với Mefloquine. Tương quan giữa artesunate và OZ277 cho thấy
một cơ chế chia sẻ hoạt động và đảm bảo các nghiên cứu tiếp theo để xác định lại
giả thuyết này, đặc biệt nếu quan sát trên in vitro của sự kháng với artemether trở
nên quan trọng về mặt lâm sàng. Thiếu mối tương quan giữa giá trị IC50 đối với
OZ277 với mefloquine cũng cho thấy có sự khác trong cách artesunate có cán với
KSTSR.
Tại Đông Nam Á, gia tăng số bản sao pfmdr1 là có liên quan đến tăng trị số IC50
với cả 2 thuốc mefloquine và artesunate. Tăng số bản sao pfmdr1 chưa được điều
tra trong thời gian gần đây tại Lambaréné, nhưng tính đa hình amino acid trong
vùng cuối của C-terminal region của Pgh1 (sản phẩm gen của pfmdr1), điều hòa
tính nhạy cho artemisinin, thường ở Lambaréné. Trong khi artesunate và
Mefloquine có khả năng biens đổi để tác động như một cơ chất nhờ vào vận
chuyển bởi Pgh1, điều này dường như không phải là đặc điểm của OZ277. Các kết
quả nghiên cứu cho thấy OZ277 có hoạt tính tuyệt vời chống lại các phân lập P.
falciparum kháng CQ thu thập tại thực địa. Nó cũng là các dữ liệu từ các phân lập
trong la bô và trên cả mô hình động vật và khích lệ các hướng nghiên cứu sâu hơn
về thuốc mới OZ277.

2. Phát hiện sự thật về cơ chế chống sốt rét của Artemisinin và OZ277
(Arterolane) với các Nonperoxidic Isosteres và gốc Nitroxyl
Nghiên cứu trên đã được đăng tải trên tạp chí Antimicrobial Agents and
Chemotherapy, số tháng 3.2010, trang 1042-1046, Volume 54, No. 3 do nhóm tác
giả Matthias A. Fügi, Sergio Wittlin, Yuxiang Dong, Jonathan L. Vennerstrom
thực hiện. Việc sử dụng các thử nghiệm phối hợp với nuôi cấy tế bào Plasmodium
falciparum, các nhà nghiên cứu đã điều tra các tương tác của các gốc nitroxide
radical spin trap, 2,2,6,6-tetramethyl-1-piperidinyloxy (TEMPO), và 4 trong số các
đồng phân của chúngvới thuốc artemisinin và thuốc ozonide, ứng cử viên OZ277.
3. Đánh giá cơ chế chống sốt rét của Artemisinin và OZ277 (Arterolane) với
Nonperoxidic Isosteres và gốc Nitroxyl
Nhóm tác giả Matthias A. Fügi, Sergio Wittlin, Yuxiang Dong, Jonathan L.
Vennerstrom thuộc Viện Nhiệt đới Thụy Sĩ, Socinstrasse 57, CH-4002 Basel,
Switzerland, đại học dược, đại học y khoa Nebraska thực hiện và ra ấn bản vào
năm 2009. Kết quả nghiên cứu cho thấy thuốc chống sốt rét lọai Peroxidic như là
một thuốc artemisinin bán tổng hợp có tầm quan trọng trong điều trị các trường
hợp kháng thuốc. tuy nhiên, các phương thức tác động lệ thuộc cầu nối peroxide
của chúng vẫn chưa hiểu biết rõ ràng.
Phối hợp dùng các thử nghiệm nuôi cấy tế bào Plasmodium falciparum, họ đã điều
tra tương tác củanitroxide radical spin trap, 2,2,6,6-tetramethyl-1-piperidinyloxy
(TEMPO), 4 trong số các đồng phân với artemisinin và thuốc ozonide có ứng cử
viên OZ277. Chất đối kháng được quan sát đối với phối hợp của artemisinin hoặc
OZ277 với đồng phân TEMPO hỗ trợ cho giả thuyết rằng sự hình thành các gốc
tích carbon là quan trọng cho hoạt tính của các peroxides.
Các đồng phân TEMPO cho thấy một xu hướng chất đối kháng đối với artemisinin
hơn OZ277, một điều tra có thể được giải thích bởi xu hướng các gốc carbon
nguồn gốc artemisinin để thực hiện chức năng nội tại của chúng, dẫn đến một tỷ lệ
thấp các gốc có sẵn cho các phản ứng hóa học tiếp sau đó như là hiện tượng
alkylation của heme và các protein của KSTSR. Các nghiên cứu tiếp sau đó, họ đã
thử nghiệm cả artemisinin và OZ277 trong việc phối hợp với các đồng phân

nonperoxidic của chúng. Các nghiên cứu sau không hiệu quả chống sốt rét của các
chất trước đây. Dữ liều này chỉ ra đặc tính chống sốt rét của peroxide không chiết
suất từ các tương tác tái hồi với đích tác động của KSTSR.
4. Đánh giá trên In vitrovề các đặc tính dược học và sự phân chia của
OZ277/RBx 11160 trên nuôi cấy của Plasmodium falciparum
Các tác giả Sonja Maerki, Reto Brun, Susan A. Charman, Arnulf Dorn,
Hugues Matile, và Sergio Wittlin của Viện Nhiệt đới Thụy Sĩ, Socinstrasse 57,
CH-4002 Basel, Switzerland, Trung Tâm chuẩn hóa các ứng cử viên thuốc, đại
học Monash, Parkville, Australia và Hãng dược F. Hoffmann-La Roche,
Grenzacherstrasse 124, CH-4070 Basel, Switzerland, đăng tải trên tạp chí J Med
Chem. 2010 Jan 14;53(1):481-91.
Mục tiêu của nghiên cứu này là nuôi cấy synchrony loài KSTSR Plasmodium
falciparum, giai đọan nhạy cảm với KSTSR đối với thuốc OZ277(RBx-11160),
đây là một chất peroxide có tính chống sốt rét được tổng hợp đầy đủ lần đầu tiên
đã thử nghiệm lâm sàng phase II, dduwwjc kiểm tra in vitro qua một khoảng nòng
độ 1x - 100x IC50. Thứ hai, đưa OZ277 vào trong các hồng cầu nhiễm P.
falciparum (RBCs) và hồng cầu không nhiễm theo quy trình nghiên cứu in vitro
thông qua đo sự phân bố của chúng giữa hồng cầu và trong huyết tương (R/P).
Phương pháp nghiên cứu là đánh giá thời điểm cho tiếp xúc in vitro (1, 6, 12 hoặc
24h) với OZ277 được giám sát nhờ phối hợp với [3H]hypoxanthine trong nucleic
acid của KSTSR và nhòe vào phân tích dưới KHV thường quy về đánh giá hình
thể KSTSR. Nghiên cứu phân chia từng khoang được tiến hành với chất đánh dấu
phóng xạ (radiolabelled) [14C]OZ277.

Kết quả cho thấy sau 1 giờ cho phơi nhiễm với OZ277 ở nồng độ cao nhất (100 x
IC50) theo sau quá trình loại bỏ hợp chất, thử nghiệm hypoxanthine chỉ ra sự phát
triển giai đoạn trưởng thành của P. falciparum giảm đến < 20%. Các thể nhẫn trẻ
hình như ít nhạy hơn (phát triển 43%). Hồ sơ nghiên cứu liên quan đến đặc hiệu
từng giao đoạn tìm thấy đối với các thuốc sốt rét tham chiếu Artemether và
Chloroquine. Ức chế mạnh ( 6% phát triển) của tất cả giai đoạn được quan sát khi

KSTSR phơi nhiễm với mỗi trong 3 loại thuốc trong vòng 6 giờ hoặc lâu hơn. Sau
khi đào thải hợp chất, KSTSR không hồi phục lại, chỉ ra sự ức chế phát triển là cơ
chế gây độc tế bào (cytotoxic) hơn là kiềm hãm tế bào (cytostatic). Pyrimethamine
được xác định là có hoạt tính chống lại riêng cho thể phân liệt trẻ. Phân tích hình
thể qua KHV cũng cho thấy tính đặc hiệu của pyrimethamine chống lại thể phân
liệt và chỉ ra OZ277, artemether và CQ làm giảm sự phát triển nhanh hơn
pyrimethamine. Chỉ số R/P đối với OZ277 là 1.5 đối với các hồng cầu không
nhiễm và lên đến 270 đối với các hồng cầu nhiễm.
Nói tóm lại, nghiên cứu này cho thấy số liệu nghiên cứu đặc hiệu giai đoạn OZ277
và cho các thuốc khác như Artemether và CQ tương tự. Thứ hai, nghiên cứu mô tả
một sự tích tụ có ý nghĩa của các thuốc OZ277 được đánh dầu phóng xạ trong các
hồng cầu nhiễm P. falciparum.
5. Nghiên cứu sự tương quan hoạt độ - cấu trúc của thuốc Ozonide arterolane
(OZ277).
Nhóm nghiên cứu gồm Dong Y, Wittlin S, Sriraghavan K, Chollet J, Charman SA,
Charman WN, Scheurer C, Urwyler H, Santo Tomas J, Snyder C, Creek DJ,
Morizzi J, Koltun M, Matile H, Wang X, Padmanilayam M, Tang Y, Dorn A,
Brun R, Vennerstrom JL đang làm việc tại trường Đại học dược, đại học
Nebraska, Omaha, Mỹ tiến hành. Kết quả cho thấy cấu trúc và cấu trúc hóa học
lập thể của các thành phần cyclohexane của đồng phân của arterolane (OZ277) có
hiệu quả ít chống lại P. falciparum trên in vitro. Nhóm chức năng nền yếu không
đòi hỏi hiệu lực chống sốt rét phải cao, nhưng chúng cần thiết đối với hiệu lực
thuốc sốt rét cao ở các con chuột nhiễm P. berghei. 5 phân tử Ozonide mới với
hiệu lực chống sốt rét và hồ sơ ADME ưu thế hoặc bằng với các Arterolane đã
được xác định.
6. Thuốc sốt rét chữa khỏi chỉ một liều duy nhất trên chuột
Kết quả nghiên cứu trên ấn bản vào ngày 5 tháng 4 năm 2007 cho biết các nhà hóa
học Mỹ đã sử dụng y học thảo dược của Trung Quốc để tạo ra một thế hệ mới
thuốc chống sốt rét có thể giải quyết một số nhược điểm đang có của các thuốc
đang dùng. Gary Posner và cộng sự từ đại học Johns Hopkins, Maryland, Mỹ đã

thông báo kết quả thử nghiệm lâm sàng cho thấy các hợp chất của chúng,
TRIOXANES, là ứng cử viên tiềm năng đủ hiệu lực chữa khỏi các con chuột
nhiễm sốt rét với liều thấp.

Những thuốc mới đều được chế tạo ra bằng cách ghép cặp với phân tử artemisinin
- một sản phẩm thiên nhiên đã được sử dụng bao thế kỷ nay ở Trung Quốc để điều
trị sốt rét. Liệu pháp ACTs hiện đang là hướng điều trị tốt nhất để chống lại trở
ngại các chủng KSTSR kháng thuốc, thông qua điều trị phối hợp thuốc. Nhưng
không phải các thuốc có góc Artemisinin hoặc chất tổng hợp trioxanes đã được
báo cáo với tiềm lực có liên quan chặt chẽ với hợ chất dimer của nghiên cứu này-
đó là dẫn giải của tác giả Posner. Các dimer dường như là cầu nối (bypass) diễn
giải cho sự thất bại của các thuốc điều trị phối hợp dạng monomeric ACTs đang
dùng, chỉ định đa liều (và trong phối hợp với các thuốc khác) để tiêu diệt KSTSR
vì chúng nhanh chóng giết chết KSTSR trong máu.
Các dimer mới này hoặc là quá tiềm lực đến nỗi chúng làm sạch tất cả KSTSR
trước khi chúng chuyển hóa, hoặc chúng tồn tại kéo dài trong máu. Đó là những gì
các nhà nghiên cứu đang nhắm đến: chúng làm theo cấu trúc dimer để kháng hơn
với sự thủy phân nhòe vào việc thay thế một liên kết acetal với cầu nối carbon-
carbon mạnh hơn. Mặc dù tính an toàn của các dimer chưa được kiểm tra, song
điều đó đầy hứa hẹn trong việc chữa trị các bệnh lý ung thư. Hợp chất mới này có
nhiều cạnh tranh, không chỉ là toàn bộ các thuốc tổng hợp na ná như cái lõi thuốc
artemisinin peroxide. Nhưng một trong số đó, OZ-277 gần đây có thành nhiều loại
của khía cạnh sinh khả dụng mà hy vọng của tác giả Posner tránh được. Tổ chức
Medicines for Malaria Venture (MMV), đồng tài trợ cho phát triển thuốc OZ-277
phát triển vào phase II với công ty dược Ranbaxy của Ấn Độ, Joerg Moehrle, giám

×