Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

BỆNH TIỂU ĐƯỜNG LOẠI 1 - Phần III potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.64 KB, 11 trang )

BỆNH TIỂU ĐƯỜNG LOẠI 1
Phần III


CÁC TRIỆU CHỨNG
Quá trình mà nó phá hủy các tế bào beta sản sinh insulin có thể kéo dài và âm ỉ.
Tuy nhiên, vào thời điểm mà sự sản sinh insulin đạt mức thấp nhất, thì bệnh tiểu
đường loại 1 thường xuất hiện đột ngột và tiến triển nhanh chóng. Những dấu hiệu
cảnh báo của bệnh tiểu đường loại 1 bao gồm:
• Đi tiểu thường xuyên (ở trẻ em, tình trạng đái dầm lập lại sau khi đã được hướng
dẫn đi vệ sinh)
• Cảm giác khát nước không bình thường, đặc biệt thèm những thức uống ngọt và
lạnh
• Đói dữ dội
• Bị giảm cân đột ngột và thỉnh thoảng rất nhanh
• Đuối sức
• Suy yếu trầm trọng
• Khả năng nhìn bị mờ hoặc những thay đổi khác về thị giác
• Khó chịu
• Buồn nôn và ói mửa (các triệu chứng cấp tính)
Các trẻ em bị bệnh tiểu đường loại 1 cũng có thể hiếu động, lãnh đạm, và có vấn
đề trong chức năng học tập tại trường. Trong những trường hợp nghiêm trọng, bị
hôn mê do tiểu đường là dấu hiệu đầu tiên của bệnh tiểu đường loại 1.

CHẨN ĐOÁN VÀ CÁC XÉT NGHIỆM ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU
Xét Nghiệm Về Những Bất Thường của Hàm Lượng Glucose
Hàm Lượng Glucose Huyết Tương Lúc Đói. Xét nghiệm hàm lượng glucose huyết
tương lúc đói (fasting plasma glucose - FPG) là một xét nghiệm tiêu chuẩn cho
việc chẩn đoán bệnh tiểu đường. Đây là một xét nghiệm máu đơn giản được thực
hiện sau 8 giờ không ăn. Nói chung, các kết quả cho thấy những điều sau đây:
• Hàm lượng FPG được xem là bình thường lên đến mức 100 mg/dL (hoặc 5, 5


mmol/L).
• Mức 100 – 125 mg/dL (5, 5 – 7, 0 mmol/L) được xem là hàm lượng glucose lúc
đói không bình thường, hoặc tiền tiểu đường. Những mức glucose này được xem
là những yếu tố gây nguy cơ cho bệnh tiểu đường loại 2 và các biến chứng của nó.
• Bệnh tiểu đường được chẩn đoán ra khi hàm lượng FPG ở mức 126 mg/dL (7, 0
mmol/L) hoặc cao hơn.
Xét nghiệm FPG không phải lúc nào cũng đáng tin cậy, vì thế một xét nghiệm lặp
lại được khuyến khích nếu xét nghiệm ban đầu cho thấy sự hiện diện của bệnh tiểu
đường, hoặc nếu các xét nghiệm cho thấy kết quả bình thường ở những người mà
có các triệu chứng hoặc các yếu tố gây nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Ví dụ,
những người mà thực hiện xét nghiệm vào buổi trưa và cho thấy những kết quả
bình thường có thể thực sự có hàm lượng không bình thường mà sẽ được phát hiện
nếu được xét nghiệm vào buổi sáng.
Xét nghiệm tràn lan đối với bệnh nhân để xác định những ai có nhiều nguy cơ hơn
mắc bệnh tiểu đường loại 1 thì không được khuyến khích.
Xét Nghiệm Dung Nạp Glucose: Xét nghiệm dung nạp glucose bằng miệng (The
oral glucose tolerance test - OGTT) thì phức tạp hơn xét nghiệm hàm lượng
glucose huyết tương lúc đói (FPG) và có thể chẩn đoán sai bệnh tiểu đường ở
những người không có bệnh đó. Một số chuyên gia đề xuất xét nghiệm này nên là
một xét nghiệm theo dõi sau khi thực hiện xét nghiệm FPG nếu kết quả xét
nghiệm FPG bình thường nhưng bệnh nhân lại có những triệu chứng hoặc những
yếu tố gây nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Xét nghiệm này sử dụng những tiến
trình sau:
• Trước tiên sử dụng xét nghiệm FPG.
• Xét nghiệm máu tiếp theo được thực hiện 2 giờ sau khi uống một dung dịch
glucose đặc biệt.
Những kết quả sau đây cho thấy những tình trạng khác nhau:
• Mức xét nghiệm OGTT là bình thường lên đến 140 mg/dL.
• Mức 140 – 199 mg/dL được xem là tình trạng dung nạp glucose không bình
thường, hoặc tiền tiểu đường.

• Bệnh tiểu đường được chẩn đoán ra khi mức xét nghiệm OGTT là 200 mg/dL
hoặc cao hơn.
Những người mà sẽ thực hiện xét nghiệm FPG (Xét nghiệm hàm lượng glucose
huyết tương lúc đói) và OGTT (Xét nghiệm dung nạp glucose bằng miệng) thì
không được ăn ít nhất là 8 giờ trước cuộc xét nghiệm.
Để chuẩn bị cho Xét Nghiệm Dung Nạp Glucose Bằng Miệng:
• Hãy dùng bữa ăn được cân bằng các chất dinh dưỡng mà có chứa ít nhất 150 đến
200 g chất carbohydrate mỗi ngày trong vòng 3 ngày trước cuộc xét nghiệm. Trái
cây, bánh mì, ngũ cốc (cereals), hạt ngũ cốc, gạo, bánh quy giòn (crackers), và các
loại rau quả như khoai tây, đậu, và bắp là những nguồn dồi dào chất carbohydrate.
• Không được ăn, uống, hút thuốc, hoặc tập thể dục căng thẳng trong ít nhất 8 giờ
trước khi được lấy mẫu máu.
• Hãy nói cho bác sĩ của bạn biết về tất cả những loại thuốc được kê toa và không
cần toa mà bạn đang sử dụng. Bạn có thể được hướng dẫn phải ngưng dùng một số
loại thuốc trước cuộc xét nghiệm này.
Xét Nghiệm Dung Nạp Glucose có thể cần đến 4 giờ để thực hiện. Vì hoạt động cá
nhân có thể ảnh hưởng đến các kết quả xét nghiệm, cho nên bạn sẽ được yêu cầu
ngồi yên trong suốt quá trình xét nghiệm. Không được ăn trong suốt quá trình xét
nghiệm. Bạn chỉ có thể uống nước (H2O) trong suốt thời gian này.
Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về những lo ngại về sự cần thiết của xét
nghiệm, những rủi ro, và cách thức cuộc xét nghiệm được thực hiện.
[Nội dung ẩn, đăng nhập để xem]
Xét Nghiệm Dung Nạp Glucose Bằng Miệng được thực hiện để chẩn đoán bệnh
tiểu đường. Phần đầu của cuộc xét nghiệm bao gồm việc uống một dung dịch
glucose đặc biệt. Sau đó vài giờ, máu sẽ được lấy mẫu để xét nghiệm hàm lượng
glucose trong máu. Những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường sẽ có hàm lượng glucose
trong máu cao hơn mức bình thường.
Xét Nghiệm Hàm Lượng Glycosylated Hemoglobin (Hemoglobin A1c). Xét
nghiệm này kiểm tra hàm lượng glycosylated hemoglobin trong máu, mà còn được
gọi là hemoglobin A1c (HbA1c). Xét nghiệm này không bị ảnh hưởng bởi thực

phẩm được dùng, do đó xét nghiệm có thể được thực hiện bất cứ lúc nào.
• Các kết quả xét nghiệm glucose trong máu giúp cho bệnh nhân và bác sĩ biết tình
trạng bệnh tiểu đường được kiểm soát như thế nào chỉ trong ngày xét nghiệm đó.
• Một khi một phân tử đường trong máu kết dính vào một phân tử hemoglobin, mà
phân tử này được tìm thấy trong mỗi tế bào máu đỏ (hồng huyết cầu), thì nó sẽ kết
dính mãi mãi [một quá trình được gọi là liên kết với phân tử đường (glycation)].
Nếu một bệnh nhân bị bệnh tiểu đường có hàm lượng đường gia tăng trong nhiều
ngày, thì sẽ có càng nhiều các phân tử glucose trong máu kết dính với phân tử
hemoglobin. Nếu điều đó xảy ra, thì mức hemoglobin A1c sẽ tăng lên cao hơn.
• Do đó, mức hemoglobin A1c gia tăng như thế sẽ giúp cho bác sĩ và bệnh nhân
biết được tình trạng bệnh tiểu đường được kiểm soát như thế nào ở bệnh nhân
trong 3 tháng qua.
• Việc đo hàm lượng glycosylated hemoglobin không được khuyến khích cho sự
chẩn đoán ban đầu của bệnh tiểu đường, vì kết quả đo bình thường không loại trừ
được bệnh tiểu đường.
Hàm lượng glycosylated hemoglobin bị gia tăng có liên quan chặt chẽ với phần
lớn, nếu không phải là tất cả, các triệu chứng của bệnh tiểu đường. Mức chỉ tiêu
của HbA1c đối với những người thành niên nên là:
• Thông thường, khoảng 7%.
• Nếu một người thành niên có thể quản lý chặt chẽ chứng bệnh tiểu đường của họ
mà không gặp phải tình trạng giảm glucose trong máu (hypoglycemia) thường
xuyên hoặc nghiêm trọng, thì hàm lượng HbA1c càng gần 6% thì càng lý tưởng.
• Hàm lượng glycosylated hemoglobin lên cao trong khoảng 11 – 12% cho thấy
việc kiểm soát glucose rất kém.
Mức chỉ tiêu của HbA1c đối với trẻ em nên là:
• Thấp hơn 7, 5 – 8, 5% đối với trẻ em dưới 6 tuổi
• Thấp hơn 8% đối với trẻ em từ 6 – 12 tuổi
• Thấp hơn 7, 5% đối với trẻ em từ 13 – 19 tuổi.
Hãy lên kế hoạch kiểm tra hàm lượng HbA1c:
• Mỗi 6 tháng nếu bệnh tiểu đường được kiểm soát chặt chẽ

• Mỗi 3 tháng nếu không được kiểm soát chặt chẽ
Xét Nghiệm Kháng Insulin. Các chuyên gia hy vọng rằng một ngày gần đây sẽ có
một xét nghiệm đơn giản về tính năng kháng insulin (insulin resistance – một tình
trạng insulin kém hiệu quả trong việc hạ thấp hàm lượng đường trong máu, thường
là do insulin liên kết với các kháng thể, và có liên quan đến các chứng bệnh béo
phì, nhiễm toan xeton, và nhiễm trùng) để xác định những người có nguy cơ bị
bệnh tiểu đường. Một số nghiên cứu cho thấy rằng việc đo hàm lượng insulin và
triglyceride trong thời gian nhịn đói có thể dự đoán được tính nhạy cảm insulin
của một người.
Các Xét Nghiệm Tự Kháng Thể
Bệnh tiểu đường loại 1 được đặc trưng bởi sự hiện diện của các loại kháng thể mà
chúng tấn công các tế bào đảo tụy. Những kháng thể này được xem là những tự
kháng thể (autoantibodies) bởi vì chúng tấn công các tế bào của chính cơ thể đó –
không phải là sinh vật lạ xâm nhập. Các xét nghiệm máu cho những tự kháng thể
này có thể giúp phân biệt giữa bệnh tiểu đường loại 1 và loại 2.
Các Xét Nghiệm Đánh Giá Ban Đầu về Những Biến Chứng
Các Xét Nghiệm Đánh Giá Ban Đầu về Bệnh Tim. Tất cả những bệnh nhân bị bệnh
tiểu đường nên được xét nghiệm về:
• Áp suất máu. Bác sĩ của bạn nên kiểm tra áp suất máu của bạn mỗi khi đến
khám. Chỉ tiêu áp suất máu là 130/80 mm Hg hoặc thấp hơn.
• Hàm lượng lipit, bao gồm cholesterol. Những người bị bệnh tiểu đường nên giữ
cho mức LDL (cholesterol “xấu”) thấp hơn 100 mg/dL, mức HDL (cholesterol
“tốt”) cao hơn 40 mg/dL, và mức triglyceride thấp hơn 150 mg/dL. Xét nghiệm
nên được thực hiện hàng năm và có thể cách một năm cho những bệnh nhân kiểm
soát tốt hàm lượng lipit và không có chứng cứ bị bệnh tim.
• Kiểm tra thể dục tim nên được xem xét cho những bệnh nhân thành niên với bất
kỳ triệu chứng hoặc những phát hiện nào ở biểu đồ điện tim, hoặc trước khi bắt
đầu một chương trình thể dục.
[Nội dung ẩn, đăng nhập để xem]
Biểu đồ điện tim (electrocardiogram - ECG, EKG) được sử dụng rộng rãi trong

việc chẩn đoán bệnh tim, từ bệnh tim bẩm sinh ở trẻ sơ sinh đến nhồi máu cơ tim
và viêm cơ tim ở những người thành niên. Có một số loại biểu đồ điện tim khác
nhau hiện đang được sử dụng.
Các Xét Nghiệm Đánh Giá Ban Đầu về Tổn Thương Thận. Biểu thị đầu tiên của
bệnh thận là chứng anbumin vi niệu(microalbuminuria), trong đó một số lượng rất
ít (30 – 300 mg mỗi ngày) protein được gọi là anbumin được tìm thấy trong nước
tiểu. Chứng anbumin vi niệu cũng là nguyên nhân tạo ra các biến chứng khác liên
quan đến những bất thường của mạch máu, bao gồm nhồi máu cơ tim và đột quỵ
(tai biến mạch máu não).
Hiệp Hội Bệnh Tiểu Đường Hoa Kỳ khuyến khích rằng những người bị bệnh tiểu
đường nên tiếp nhận xét nghiệm nước tiểu để phát hiện chứng anbumin vi niệu.
Các bệnh nhân cũng nên được xét nghiệm hàm lượng creatinine trong máu mỗi
năm ít nhất một lần. Creatinine là một sản phẩm thải mà sẽ được thận lọc ra khỏi
máu. Hàm lượng cao chất creatinine có thể là dấu hiệu tổn thương thận. Bác sĩ sử
dụng các kết quả từ xét nghiệm creatinine trong máu để tính toán tỉ lệ dịch lọc cầu
thận (glomerular filtration rate - GFR). Tỉ lệ GFR là một dấu hiệu cho thấy chức
năng hoạt động của thận; nó đánh giá khả năng lọc máu của thận.
Kiểm Tra về Bệnh Võng Mạc. Hiệp Hội Bệnh Tiểu Đường Hoa Kỳ khuyến khích
rằng các bệnh nhân bị bệnh tiểu đường loại 1 nên có một cuộc kiểm tra mắt toàn
diện hàng năm, với phương pháp tăng nhãn cầu, để kiểm tra các dấu hiệu về bệnh
võng mạc (retinopathy). Các bệnh nhân có ít nguy cơ có thể chỉ cần kiểm tra trong
mỗi 2 – 3 năm.
Kiểm Tra về Bệnh Thoái Hóa Thần Kinh. Tất cả bệnh nhân nên được kiểm tra về
tổn thương thần kinh (neurophathy), bao gồm một cuộc kiểm tra toàn diện về bàn
chân. Những bệnh nhân bị mất cảm giác ở bàn chân nên được kiểm tra bàn chân
mỗi 3 – 6 tháng để xem xét những vết lở loét hoặc nhiễm trùng.
Kiểm Tra về Những Bất Thường ở Tuyến Giáp. Các xét nghiệm về chức năng hoạt
động của tuyến giáp nên được thực hiện.

×