Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Albert Einstein: Đỉnh cao của khoa học và nhân văn pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.39 KB, 6 trang )

Albert Einstein: Đỉnh cao của khoa
học và nhân văn
Albert Einstein đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời đầy bi kịch của mình cho
"sự cố gắng hiểu biết về vũ trụ” ấy với cả một vầng hào quang các giai thoại
hài hước, cùng với dáng điệu ngộ nghĩnh không trộn lẫn vào đâu được,
nhưng gần gũi với tất cả mọi người, như kiểu vua hề Charlie Chaplin.
Sự hiểu biết về Vũ trụ mênh mông, huyền bí luôn luônlà khát vọng cháy
bỏng của con người. Talà ai? Ta từ đâu tới và sẽ đi về đâu? Đâu là điểm tựa của
Đức Tinduy trìsự trươngtồn củanhân loại? Nhũng câu hỏi huyết mạch muôn
thuở ấy đã thôithúc con người tìm hiểu nguồn gốc củaVũ trụ, của vật chất, của
khônggian và thời gian. Và chínhnhững quanniệm (haylà sự hiểu biết) ấy là
nguồngốc củamọi nền Vănminh và Vănhóa.
Trongsuốt hơn năm trăm nghìnnăm lịch sử của mình,loài người mới chỉ có hai
lần maymắn đượcchứng kiến những thayđối có tính cách mạng trong những
quan niệm đó.Lần thứ nhất donhà thiên văn học Ba Lan kiệt xuất, Copernic
(1473-1543), mở đầu bằng mộtkết luận khoahọc bác bỏ quan điểm "Trái đấtlà
trung tâmVũ trụ!".Kết luận ấy đã xé tanbức màn đencủa đêmdài Trungcổ, đưa
loài người sangthời kỳ Phục hưng. Đó chính làcuộc cách mạng khoahọc lần thứ
nhất vớisự hình thành và phát triểnvật lý - thiên văncổ điểndo công lao sángtạo
của nhiều thế hệ các nhà khoa học, mà tiêu biểu là Kepler (BaLan),Galilée(Ý) và
Newton (Anh).
Einsteinlà người độtphá trong cuộc cách mạng khoahọc lần thứ hai,đúngvào lúc
khoa họccổ điển tương chừng như sắp có thể hoàn chỉnhsự mô tả toàn bộ Vũ trụ
bằnggiả thuyết chất ête (ether) tràn ngập không gian. Với trí tưởng tượng, siêu
đẳng vàtrực giácbẩm sinh, Einstein đã làm đố vỡ nền móng của khoahọc cổ điển
bằnglập luận khoa học xác đáng phủ nhận sụ tồn tại của chất ête, và dođó phủ
nhậnluôn cả haicái tuyệt đối của khoa học cổ điển(không giantuyệt đối. Và thời
gian tuyệt đối) bằng Thuyết tương đối bấthủ của mình. Lúc đó,cả thế giới triết học
lẫn khoahọc đã chao đảo như có ai đó, (hẳn làEinstein rồi!), rút mạnh tấm thảm
dướichân mình.Cùng với Thuyết lượng trangEinstein cũng đónggóp mộtphần
khôngnhỏ, Thuyếttương đối của riêng Einstein là phiến đá tảng của nền khoahọc


và côngnghệ hiệnđại - mộttrong vàiba nét đặc trưngquan trọngnhất củathế kỷ
XX.Vì thế, Einsteinđã đượccộng đồngcác nhà khoahọc thế giới chọnlàm biểu
tượng của thế kỷ vừaqua - thế kỷ củakhoa học và cồng nghệ (xin xem Tạp chí
"Time", số 31/12/1999).
Cuộc đời của Einstein đã không suôn sẻ ngay từ nhỏ. Bên cạnh ngườimẹ độc đoán,
cậu bé Einsteinchậm biếtnói và hay"nổi loạn" chỉ cóđượcmột niềm an ủiduy
nhất: bà đã khuyến khích con mình hammê âm nhạccổ điểnvà chơiđàn viôlông.
Với người bố dễ dãi và thất bại liên tục trong kinh doanh,Einstein chỉ còn giữ một
kỷ niệm duy nhất về mộtmón quà đã gây cho cậu thú vuitòmò đầu tiên: chiếc la
bàn (vìsao đầu kimcủa nóluôn quayvề phươngBắc ?). Einstein đã phải tự quyết
định con đườnghọc tập của mìnhtừ năm 15 tuổi. Từ bỏ trường trunghọc có
khuynhhướng quân sự, Einstein sang Thụy Sĩ vàtốt nghiệp TrườngĐại họcBách
khoa Zurichrồi làm việc tại cơ quan đăng ký sángchế - phát minh.Chính ở đây,
vào năm 1905, ông đã công bố các kết quả nghiên cứu khoahọc của mình(khi 26
tuổi). Chỉ với hai bài báo rất ngắn gọn,trình bày haicôngtrình nghiên cứu quan
trọng nhất, Einstein đã trở thành một trong các nhà vật lý hàng đầu thế giới.Một
trong haibài báo đó trình bày kết quả nghiên cứu về hiệntượngquang - điện mà
sau này, vàonăm 1921, đã mang lại cho ông giải thưởng Nobel. Trớ trêu thay, công
trìnhnghiên cứu manglại cho ông niềm vinhquangbất diệt lại đã không hề nhận
được bất kỳ giải thưởng nào: côngtrình về Thuyết tương đốihợp với những kết
quả làm đảo lộn toàn bộ kháiniệm đươngthời về khônggian, thờigian và thực tại
(Reality).
Trongcông trình này, Einstein đã đặt ra bàitoán: nếu ta trưởng một con tàu
chuyểnđộng vớivậntốcbằngtốcđộ ánh sángthìtasẽ thấy sóngánhsángthế nào?
Liệu ta có thấy không gian vàthời giankhác đi so với bìnhthường ta vẫn thấy? ông
đã giải bài toán ấy một cách chínhxác và đi đến các kết luận kinh hoàng đốivới
khoa họcthời đó: tốc độ ánhsáng làkhôngđổi , gần bằng300.000km/giây, bất kể
ta chuyển độngvề phíanguồn sáng hayngược lại. Và khônggian cũngnhư thời
gian là tương đối: nếu tốc độ chuyển độngcủa con tầu gầnbằng tốcđộ ánh sáng,
thì thời gian trên con tầu chậmhơn so vớilúc nó đứngyên (hoặc chuyển động

chậmhơn), đồng thời chínhcon tầu cũng sẽ trở nên ngắn hơn và nặnghơn. Nói
cách khác, không tồntại chất ête và khôngcó cái gì là tuyệt đối cả. Quan điểm này
về sauđã lan truyền sangcác lĩnh vực văn học, nghệ thuật thậm chí cả đạo đức
trong suốt thế kỷ XX.
Đi xa hơnnữa, Einstein còn chứng minh rằng năng lượng và vật chất(khối lượng)
là haimặt khác nhaucủa cùng một thục thể. Quan hệ giữa chúng đượcmô tả bằng
một phương trìnhrất đơngiản nhưng lại cựckỳ lợi hại:E = mc2 (E là nănglượng
đượcgiải phóngkhivậtchất bị hụt đi một khốilượngbằngm, clàtốcđộ ánh sáng).
Đây chính là nguồn gốccủa năng lượngnguyên tử, và đauđớn thay (như saunày
ông tùngthan thở) của cả bom nguyên tử nữa!
Ngay từ năm 1907,ôngđã nhận thấy Thuyết tương đối hẹp của mình tuy phù hợp
với các định luật Điện - Từ trường (đã được xác lậpmột cách hoàn chỉnh), nhưng
khôngtương thíchvới Định luật Trọng trườngcủa Newton (đã được xáclập một
cách còn cóvẻ như hoàn chỉnh hơn!). Địnhluật Newton đã dẫn đến kết quả là: nếu
ta thayđổi sự phân bố vậtchất ở mộtvùngnào đó trong không gian thì trọng
trường trong toàn bộ Vũ trụ tức thời thayđổi. Có nghĩa là về nguyên tắc có thể
truyền tín hiệu với vận tốc lớnhơn vậntốc ánh sáng, và hơnthế nữa, thờigian là
tuyệt đối. Điều đó mâu thuẫnvới Thuyết tươngđối hẹp. Để khắc phục mâu thuẫn
này, Einstein đã lập luậnrằng, ắtphải có một mối liênhệ nàođó giũatrọng trường
và chuyển độnggia tốc. Mối liênhệ đó được ông -mô tả bằng sự uốn cong của
không- thời gianbốn chiều(ba - chiều không gian và một chiều thời gian)dưới tác
độnggian) dưới tác động của khối lượng (nănglượng). Đó chính là Thuyết tương
đối tổng quát, khác với Thuyê ttương đốihẹp ở chỗ có sự hiện diện củatrọng
trường. Einstein đã công bố công trình đồ sộ này của mình vào năm 1916,có lẽ đó
là đỉnh cao nhấttrong cuộc đời sáng tạo của ông.
Từ đây chođến khi qua đời, Einsteinkhônglàm được gì đáng kể hơn cho khoahọc
nữa, mặc dầu ông đã dồn tất cả tinh lực củamình choniềm đammê cuồngnhiệt:
tìm hiểu chân lý khoa học về nguồn gốcvũ trụ. Cũng bắt đầu từ đây, cuộcsống
riêng của ông gặp nhiều trắc trở, vànhư để bù lại , tiếng tămcủa ông càngngày
càng nổi như sóng cồn.

Tình duyên lỡ dở với người bạn gái thông minhcùnglớp, cùng mê saycả vật lý lẫn
âm nhạc là bi kịch nặngnề củađời ông. Saukhi đứacon ngoài pháp luật của họ
chết ngaysau khira đời. Einsteinvẫncưới người yêu củamìnhmặc cho giađình
phản đối. Họ đã chiatay nhau saumột thời gian ngắn, rồi lại chungsống, để rồi lại
vĩnh viên chia tay vào năm 1919.Khi chia tay, Einsteinhứa dành tiền thưởng của
giảiNobel, mà ông tin chắc là sẽ có được, cho vợ và haingười con trai củahọ. Hai
năm sau,khi nhận giải thưởng,ôngđã làm đúngnhư điều đã hứa.
Trongkhoa học,Einsteincũng không còn may mắn nữa. Ông đã tự mìnhlàm hồng
phần nàovẻ đẹp toànbích của Thuyết tươngđối tổng quátbằng cách thêm vào
phươngtrình nguyên thuỷ "hằng số vũ trụ” một cách vôcăn cứ hòngchứngminh
vũ trụ là "vô thủy vô chung" (như mọi người, kể cả ông, tưởngthế!). Giánhư ông
không“bịa" ra cái hằng số quái quỷ ấy,thì phươngtrình của ôngđã mô tả đúng: Vũ
trụ đang nở saumột vụ nổ lớn Bia Bang,đúng như mô hìnhchuẩn của vũ trụ mà
ngày nay đượccoi là gần với hiệnthực nhất. Trong lúccả gan“bịa" ra "hằng số vũ
trụ” thì Einstein lại không thể nào chấp nhận nổi sự mập mờ “bất khả trị” của cơ
học lượng tử (xin xem bài “Bohr chưa hắn đã sai” của tác giả, Tạp chí TiaSáng số
6/1999).Nhiều lần trongkhi tranh luận với Bohr, người bênhvực một cách không
nhânnhượng hệ thức bất định Heisenberg, Einstein cứ lúclắc cái đầu tovới mớ
tóc bù xù và lẩmbẩm: “Thượng đế không chơi trò xúc xắc!". Có lần Bohr nổi giận,
vặc lại: “Thôi đi Anhxtanh, đừngbảo Thượng đế phái làm gì?” Điều đó đã giày vò
Einsteinsuốt đời, đến nỗi trướckhi mất một năm,năm 1954, ôngcòn thanvãn:
"Tôichắc giống như con đà điểu, rúc đầu mãi vào đôngcát thấy con quỷ “tương
đối” để khỏi phảitìm thấy con quỷ “Lượngtử” .Khốn thaytrong đống cát 'Tương
đối" ấy ông càngtrở nên bất hạnh hơn: suốtba mươinăm cuối đời ôngđã sa lầy
vào cái "bẫy" Lý thuyết trường thốngnhất (chứađựng cả điện - từ trường và trọng
trường)mà không saothoátra được.Ngày nay, Lý thuyếttrường thốngnhất vẫn
còn là giấc mơ xa vời củacác nhàvật.
Trongnhững năm20, Einsteinđã sống tronghoàn cảnhbị kìm kẹp bởichủ nghĩa
bài Dothái củaĐức quốc xã, nhất là saukhi ông cùng ba nhà khoahọc Đứckhác,
ông sangMỹ năm 1933 và làmviệc cho đến cuối đời tạiViện nghiêncứu cao cấp ở

Prinston N.Y.
Trongsuốt 20 năm,Einsteinlà linh hồn của Viện này.Với tính tình bộctrực, hồn
nhiên,giản dị là vô cùnghóm hỉnh, ông àbạn củamọi người trong thành phố, tù
các nhà khoa lọc lớn đếncác cháu nhỏ damầu con củacác gia đìnhlao độngnghèo.
Chuyện kề rằng, khiông tớiPrinston, có người hỏi: “Sao ông không thaycái áo
măng tô này đi ? Nó sờncũ rồi". Ông trả lời: "Ôidào! Ở đây cóai biết tôi là aiđâu
mà lo!”. Mấy năm sau người ta vẫnthấy ông mặc chiếcáo đó, ông lại biện bạch:
( Vẽ ! ở đây ai người ta chêmà tôi, thaylàm gì!". Tấm áocũ kỹ ấy ấp ủ mộttấm lòng
vị thavà một trái tim nhânhậu. Với tấm lòng vị tha và trái tim nhân hậu ấy,
Einsteinđã trở thành mộtnhà hoạt độngxã hội nhiệt thànhvà hơn thế nữa, một
nhà hoạt độngchính trị nhân văn cao độ.Năm 1939, khiđược biết Đức quốc xã âm
mưu phát triển vũ khí nguyên tử,ôngđã viết thư thúc giục Tổng thốngRu- giơ-
ven phê duyệt đề ánchế tạo bom nguyên tử của Mỹ.Thế nhưng, khiđược biết hai
quả bomnguyên tử đã rơi xuống Hiroshimavà Nagasakivào cuối Thế chiến thứ
hai thì Einsteinđã vô cùng hối hận. Ông thúnhận: "Có lẽ đó là sailầm lớn nhất của
đời tôi”.Từ đó,ông đã trở thành một chiến sỹ hòa bình tích cực, rasức chốngchiến
tranh phinghĩa và chống phổ biến vũ khínguyên tử. Tuy vậy chínhtrị “thựcsự” thì
Einsteinkhông màng. Khi nhà nước Do thái đượcthành lập năm 1952, người ta
ngỏ lời mới ônglàm Tổng thống, ông từ chối với mộtquan điểm rất rõ ràng:
"Chínhtrị là nhất thời, phươngtrình làvĩnh cửu”. Ít ralàvề saucủa lời tuyên bố ấy
đã rấtđúng: những phương trình củaThuyết tương đối tổng quát chắc chắn sẽ
trường tồncùngvũ trụ. Ba năm sauđó, Einsteinqua đời vớisự bìnhtĩnhvàthanh
thản lạ thường. Ông nói với những người thân vây quanh giườngbệnh:"Đừng bối
rối thế!Ai mà chẳng phải chết một lần!". Trước đó ông đã từng viết: "Nỗi losợ về
cái chết là nétphổ quát rấtdễ thương của loàingười. Đó là một trong những
phươngthức mà tạo hóa dùng để duy trìsự sống của muôn loài.Nhưng côngbằng
mà nói, nỗi losợ ấy thật là khó biệnminh, bởi vì chẳng có rủi rotai họa nào có thể
xảy ra đối với một người đã chết”. Những người thựchiện di chúcđã đưaôngtrở
về với cát bụi bằngcách rắc nắm tro thi hàilòngôngvào thinh không. Họ đã không
ngờ rằng, có một nhàbệnh lýhọc táotợn dámcất giấu bộ não của Einstein vàbảo

quản cho đến tận ngàynay. Nhờ thế màgần đây, các nhà khoahọc Canađa mới có
điều kiện thông báo rằng: thùy nãodưới (trungtâm tư duytoánhọc và hình tượng
khônggian) của con ngườivĩ đại ấy lớn hơn nhiều sovới bình thường.
Einsteinđã vĩnh biệt chúngta gần nửathế kỷ rồi, nhưng tên tuổi và hình ảnh của
ông sẽ mãi mãi sống cùngthời gian.Người đời sausẽ vẫn cứ luôn luôn kinhngạc
trướctrí tuệ siêu phàm của Anhxtanh.Đồng thời, cũng sẽ mãi lưu truyền những
câu cáchngôn hómhỉnh mà lúcnào ôngcũng cóthể úng khẩu.một cáchcũng dễ
dàng nhượng làm toán vậy.Chẳng hạn:"Khoa họclàmột thứ tuyệt vời nếu như ta
khôngphải kiếmsống bằngkhoa học!”.

×