Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Giáo sư-Viên sĩ NGUYỄN VĂN HIỆU pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.28 KB, 9 trang )

Giáo sư-Viên sĩ NGUYỄN VĂN HIỆU
Nguyễn Văn Hiệu sinh ngày 21 tháng 7 năm 1938 ở tỉnh Hà Tây cũ. Ông là
con đầu trong một gia đình có mười người con. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư
phạm Hà Nội vàonăm1956.Năm1960 ông bắt đầu nghiên cứu đầu tiên củamình
tạiViệnnghiên cứuliênhợphạt nhân JINR (JointInstitute forNuclearResearch) ở
Dubna(Moscowthuộc LiênXôtrước đây). Tại đó ôngđã bảo vệ thànhcôngluận án
Tiếnsĩ vào năm1963,luậnánTiếnsĩ khoahọcvào năm 1964và trở thành giáosư
vật lý của Liên Xôvào năm 1968.
Cha của Nguyễn Văn Hiệu là Nguyễn VănNguyện sinh ở làng Cầu Đơ thuộc
tỉnh Hà Tây cũ. Ông Nguyễn Văn Nguyện làm ủyviên Ủy banHành chính thị xã Hà
Đông phụ trách tự vệ trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám. Năm 1946 khibùng nổ
cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Văn Hiệu támtuổi và đang họcdở lớp dự bị
(tươngđương với lớp 2hiện nay).Cha thoát li gia đình lên Việt Bắc. Cậubé Hiệu
cùng với mẹ và năm em nhỏ dắt díu nhau lánh sanghuyện Mỹ Đức rồi huyệnỨng
Hòa vào mạn bến Đục, chùa Hương. Sau này, khi đã trở thành mộtnhà vật lý nổi
tiếngthế giới, NguyễnVăn Hiệu đã kể về thời niên thiếu vất vả, khổ cực của mình
như sau: “Những nỗi buồn vui, những kỷ niệm của thời niên thiếu là những điều ta
thường hồi tưởng khi đã trưởng thành. Mỗi khi trong cuộc đời khoa học của tôI có
một sự kiện gì đặc biệt, bao giờ tôi cũng nhớ lại hai lần tôi phảI bỏ học khi mới hơn
mười tuổi vì nhà nghèo quá. Năm 1948, năm tôi tốt nghiệp tiểu học, cả tỉnh Hà Đông
lúc đó chỉ có một trường trung học là Trường Nguyễn Huệ ở huyện Mỹ Đức. Cha tôi
đi công tác xa ở một cơ quan thuộc Liên khu Ba. Mẹ tôi và bảy người con mà tôi là
con lớn nhất tản cư đến làng Đáo Xá phía nam huyện Ứng Hòa. Trường Nguyễn Huệ
ở quá xa và tôi không có tiền trọ nên đành phải bỏ học. Tuy mới mười tuổi những tôi
đã phải kéo sợi, tết dải rút để kiếm tiền giúp mẹ. Một năm sau, cơ quan của cha tôI
chuyển vào làng Lam Vĩ, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Bên kia sông Chu là làng
Ngò mà ở đó có Trường Trung học Nguyễn Thượng Hiền. Cha tôi đón tôi và ba em
lớn của tôi về làng Lam Vĩ. Tôi và ba em vừa kéo sơi
___________________________
(*)
Tham khảo từ cuốn sách “Nguyễn Văn Hiệu – Các công trình chọn lọc” của


Nhà xuất bảnGiáo dụcnăm 2007.
vừa qua sông theo học Trường Nguyễn Thượng Hiền. Sau một năm, khi tôi
vừa học xong lớp 5 (hệ phổ thông 9 năm), cha tôi được điều động ra công tác tại một
vùng thuộc Liên khu Ba. Mấy anh em chúng tôi phải quay về ở với mẹ tại thị trấn
Rừng Thông (Thanh Hóa). Gần nhà không có trường trung học. Thế là một lần nữa
tôi phải bỏ học ở nhà kéo sợi, xe chỉ tơ để kiếm tiền giúp mẹ nuôi em… Tôi vô cùng ao
ước được tiếp tục học lên. Khi các bạn cũ hồi lớp 5 trọ ở làng Ngò theo học Trường
Nguyễn Thượng Hiền có dịp nghỉ cuối tuần trở về nhàđI ngang qua Rừng Thông, tôi
liền khẩn khoản mượn vở của các bạn ấy, vội vã chép lại bài về một số môn chính để
mày mò tự học theo chương trình lớp 6. Năm 1952, một số thầy giáo tản cư về Rừng
Thông đứng ramở Trường Tống Duy Tân ở làng Sơn Viện. Nhờ vậy, tôi lại được cắp
sách đến trường. Do đã chịu khó tự học xong chương trình lớp 6, tôi mạnh dạn thi
thẳng vào lớp 7 và trúng tuyển. Được tiếp tục đi học, tôi sung sướng vô cùng và say
sưa “dùi mài” tất cả các môn từ Văn, Sử, Ngoại ngũ đến Toán, Lí, Hóa. Thầy giáo nào
cũng yêu tôi… Nhưng chả được bao lâu, cha tôi ốm. Cơ quan cho cha tôi thôi việc. Mẹ
tôi sinh đứa con thứ tám. Gia đình quá gieo neo. Tôi đau đớn vô cùng khi gạt nước
mắt xin thôi học lần thứ ba. May mắn thay, các thầy quá thương tôi. Nhà trường cử
người đến an ủi cha mẹ tôi và cho biết từ ngày hôm ấy, tôi chẳng những không phải
nộp học phí mà còn được cấp học bổng mặc dù Trường Tống Duy Tân là trường tư
thục. Xúc động trước sự thương yêu đùm bọc của trường, tôi và các em lớn của tôi
cùng ra sức kéo sợi, xe chỉ tơ kiếm thêm tiền để bù vào chỗ cha tôi mất việc, đủ cơm
ngày hai bữa độn khoai ngô, tiếp tục học hết cấp hai… Trong thời niên thiếu, tôi đã
phải nếm trải nhiều nỗi lo toan, nhiều điều bất hạnh nhưng tôi không oán trách số
phận đã dành cho tôi những cái đó bởi vì chính nó giúp tôi sớm hiểu được thế nào là
sức mạnh của ý chí và nghị lực kiên cường”.
Ngay từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945,NguyễnVăn Hiệu đã được giáo
dục, tiếpthu nền giáo dục cáchmạng. 16 tuổi, Nguyễn Văn Hiệu tốt nghiệp trường
phổ thông (hệ 9 năm) đúng vàolúc kếtthúc cuộc kháng chiến chốngPháp.Mùa
Thu năm 1956, saukhitốt nghiệp trường Đại họcSư phạm, Nguyễn VănHiệu làm
cán bộ giảng dạy trường Đại họcTổng hợp vừa mới đượcthành lập. Trongquá

trìnhhọc tập vàgiảng dạy, Nguyễn Văn Hiệu có mộtkhátvọng hiểu biết mãnh liệt
và bềnbỉ, mộtphươngpháp trau dồi học vấn thiết thực là học để hiểu biết và tiếp
thu những kiến thức khoahọcvật lý hiện đại nhất của thời đại nhằmphục vụ Tổ
quốcvà nhân dân. Nhữngkiến thức trongchươngtrình đại học sư phạmba năm
mà khóa NguyễnVăn Hiệu được học cấp tốc trong hainămthấtquá ít. Trước mỗi
buổi lênlớp, Nguyễn VănHiệuthường phải chong đèn thâu đêm họclại chi li, cặn
kẽ những môn mình vừađượchọc qua loa ở trường. Lạicòn phải học thêmrất
nhiều kiến thứccơ sở mới mongcó thể nghiên cứu khoahọc. Nguyễn VănHiệutự
vạchra một chương trình bổ túc kiến thứcvề toán và vật lí lí thuyết để thực hiện
trong khoảngbốn đến năm nămvới hi vọng là sauthời gian đó sẽ bắt đầunghiên
cứu cácvấn đề hiện đại. NguyễnVăn Hiệu hồi tưởng lạithời kỳ sinhviêncủa mình
như sau: “Hà Nội được giải phóng và tôi vào trường Đại học Sư phạm. Lần đầu tiên
trong đời, tôi có thì giờ đánh bang chuyền, tập đàn ghi ta. Mọi nhu cầu về ăn, ở đều
được nhà trường chu cấp. Năm tháng như có cánh bay đi. Ngày thi tốt nghiệp gần
tới và thất náo nức lạ thường.Trong trí tưởng tượng của tuổi mười tám, tôi hình
dung ra cảnh mình sẽ về dạy vật lí tại một trường cấp ba ở một huyện xa xôi. Tôi
muốn làm sao trở thành một người thầy dạy vật lí thật hay, giảng bài thật lôi cuốn,
làm sao để tất cả các em học sinh thân yêu của tôi đều say mê môn vật lí và rồi từ
những số đó sẽ xuất hiện những nhà vật lí có tài năng lớn. Tôi dự định sẽ tổ choc ở
cái trường cấp ba xa xôi cách trở đó những buổi nói chuyện ngoại khóa về các hiện
tượng tự nhiên trong trời đất và ding các định luật vật lí để giải thích nguyên lí hoạt
động của máy móc. Các bạn tôi sốt sắng giúp tôi chuẩn bị nội dung của các buổi
ngoại khóa để làm mẫu và phân công nhau lần lượt thuyết trình. Thiếu tài liệu tiếng
Việt để tyham khảo, chúng tôi học ngoại ngữ để đọc sách bằng tiếng nước ngoài.
Hằng ngày, đi bộ từ kí túc xá đến lớp mỗi lần mất gần một tiếng đồng hồ. Đó là thời
gian tốt nhất để tôi lẩm bẩm bằng tiếng Nga, tiếng Pháp và tiếng Anh. Tuổi trẻ là
tuổi khát khao hiểu biết. Thế hệ chúng tôi lại là thế hệ đã được rèn luyện chút ít
trong kháng chiến…”
Những năm làm việc tạiDubna (1960-1969) là nhữngnăm đẹp nhất trong
tuổi thanh xuân tràn trề nhựasống của Nguyễn Văn Hiệu.Trong những nămấy,

ông đã bảo vệ thành côngluậnán Tiến sĩ rồi luận án Tiến sĩ khoa học học và đã
công bố hàngloạt công trìn nghiên cứu có tiếngvang quốc tế. 20 năm sau,tiên
đoán lý thuyếttrong luậnán Tiến sĩ khoahọc của Nguyễn VănHiệu đã được thực
nghiệmxác nhận là hoàn toàn chínhxác. Các kếtquả nghiên cứu của Nguyễn Văn
Hiệu về lí thuyết đối xứng của cáchạt cơ bản đã đượctổng kết trong cuốnsách
"Bài giảng về đối xứng unita của các hạt cơ bản" do Nhà xuất bảnNguyêntử (Liên
Xô) in.Cuốn sách này đượcsử dụng rộngrãi ở Liên Xô và nhiềunước trênthế giới.
Việc nghiên cứu “quá trình sinh nhiều hạt”của Nguyễn Văn Hiệu có sự cộng tác
chặt chẽ của các nhà khoahọc Liên Xôđã được Bằng phát minhsố 228 (năm 1982)
của Ủy banNhà nướcLiên Xô về sángchế phát minh. Tại Dubna,Nguyễn Văn Hiệu
được mời thamdự báo cáo tạinhiều hội nghị khoa họcquốc tế và giảngbài tại
nhiều trường đại học ở Pháp, Italia,Hà Lan,Hungari,Tiệp Khắc, BaLan,…
Nguyễn Văn Hiệu ở Dubna vào thời kì khi vật lí năng lượng cao đang phát
triển mạnh theohai hướng là vật lí nơtrinovà lý thuyết giải tích về tương tác mạnh
của cáchạt. Các việnsĩ M.A.Markov và B.M.Pontecorvo chủ trì hướng nghiên cứu
vật lí nowtrino. Hướng nghiên cứu lý thuyết giải tích về tương tác mạnh của các
hạt do viện sĩ N.N.Bogoliubov và giáo sư A.A.Logunovchủ trì. Những vấn đề nghiên
cứu về vật lí nơtrino của Markov gắn liền thực nghiệm, cónội dung vật lírất cụ thể,
sinh độngvà đòi hỏi phải có trực giác rất nhạy bén.Các vấnđề nghiên cứu của
BogoliubovvàLogunov đòi hỏi phải có năng lực trìu tượng hóa cao và phảiáp
dụngnhững công cụ toán học hiện đại nhất. Sau một thờigian ở Dubna, Nguyễn
Văn Hiệu nhận rarằnghướng nghiên cứu lí thuyết giải tíchvề tán xạ của
BogoliubovvàLogunov làhướngcó triển vọng nhất nhằm mục đích giải quyết các
vấn đề cơ bản nhất, chủ chốt nhất và khó khăn nhất của vật lí năng lượng cao.
Tháng 4năm 1963, đúnghai năm rưỡisau ngày đặt chân tới Liên Xô, Nguyễn Văn
Hiệu bảo vệ luận án Tiến sĩ về các cácvấn đề vật lí nơtrinovới sự hướng dẫn của
viện sĩ M.A.Markov. Lúc đó, Nguyễn VănHiệu đã công bố 12 bàibáo về nơtrino.
Đầu năm1963,NguyễnVăn Hiệu cộngtác vớigiáo sư A.A.Logunovnghiên cứu các
tính chất của biên độ tán xạ ở vùng năng lượng cao với công cụ toán họclà lí
thuyết hàm giải tích vàđã tìmra hàng loạt địnhlí tiệmcận mới. Ngày 4 tháng 5

năm 1964,Nguyễn Văn Hiệu bảo vệ luận án Tiếnsĩ khoahọc vớinhanđề “Hệ thức
tiệm cận các biên độ tán xạ trong lí thuyết trường lượng tử định xứ tương đối tính”.
Lúc bấygiờ, Nguyễn Văn Hiệu mới hơn 25tuổi. Viện sĩ M.A.Markovcho biết: “Chỉ
vài tháng sau khi đến Dubna, Nguyễn Văn Hiệu đã trình bày một bản báo cáo khoa
học đáng chú ý. Anh dự các xêmina không phải với thái độ thụ động mà thường tìm
ra những giải pháp mới lạ. Anh quan tâm đến hoạt động của tất cả các phòng thí
nghiệm của Viện Liên hiệp Nghiên cứu Hạt nhân và được các nhà bác học lỗi lạc,
những cộng tác viên của Viện giúp tìm ra phương hướng trong các lí thuyết hiện đại.
Sau bốn năm đến Dubna, anh đã viết xong luận án tiến sĩ rồi tiến sĩ khoa học”. Viện sĩ
M.A.Markov đánh giá về luận án Tiến sĩ khoa họccủa Nguyễn Văn Hiệu như sau:
“Nguyễn Văn Hiệu đã thiết lập những hệ thức mà nếu được thực nghiệm xác nhận
thì sẽ xác lập những nguyên lí của lí thuyết trường lượng tử hiện đại và nếu không
thì cũng cho they sự cần thiết phảI sáng tạo một lí thuyết mới dựa trên các nguyên lí
cơ bản mới”. Saunày, thực nghiệm đã hoàn toànxác nhận tính đúng đắn của tiên
đoán lí thuyếtnói trên của Nguyễn Văn Hiệu. Các bản nhận xét luậnán Tiến sĩ khoa
học của NguyễnVăn Hiệu đều khẳng định Nguyễn Văn Hiệu là “một nhà bác học cỡ
lớn”, “đầy tài năng”, “có trình độ khoa học cao”.Viện sĩ N.N.Bogoliubovkhiđó là
viện trưởng Viện Nghiêncứu Dubnacoi luận án Tiến sĩ khoa học của Nguyễn Văn
Hiệu là“một luận án xuất sắc”. Viện sĩ M.A.Markov nói về lao động của Nguyễn Văn
Hiệu như sau:“ Đôi khi người ta thực sự gặp may trong công việc: tìm they một ý
tưởng thiên tài dẫn đến những kết quả quan trọng như tìm they một mỏ vàng.
Nguyễn Văn Hiệu đi theo một con đường khác. Như người ta nói, anh không ngồi
chờ khoa học đến “bố thí” cho anh, anh đã đạt được những kết quả khiến mọi người
ngạc nhiên bằng cách lao động rất nhiều bằng năng lực lao động rất lớn. Viện Liên
hiệp Nghiên cứu Hạt nhân đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho Nguyễn Văn Hiệu.
Mọi điều còn lại phụ thuộc vào lao động và những phẩm chất cá nhân. Nguyễn Văn
Hiệu là một nhà bác học thật lớn. Tôi tin chắc rằng anh sẽ còn đóng góp được nhiều
cho khoa học”. Viện sĩ B.M.Potecorvo– mộtnhà bác họcgốc Italia,mộtcộng sự của
E. Fermi(GiảiNobel Vật lý năm 1958) nhận xét về NguyễnVăn Hiệu như sau: “Có
thể tóm tắt đặc điểm của nhà bác học Việt Nam trẻ tuổi ấy bằng hai từ là tài năng và

nghị lực. Song có thể thêm một từ nữa là năng suất”. Saukhibảo vệ thành công luận
án Tiến sĩ khoa học, Nguyễn Văn Hiệu là chủ trì củamộtnhóm nghiên cứumới ở
Dubnanghiên cứu về lí thuyết đối xứngcao. Các kết quả nghiên cứu củanhóm này
đã được tập hợp trongcuốn sách của Nguyễn VănHiệumang tên “Những bài giảng
về lí thuyết đối xứng unita” với lời giới thiệu của viện sĩ N.N.Bogoliubov.Songsong
với nghiên cứu lí thuyết đối xứng của cáchạt cơ bản, Nguyễn Văn Hiệu còn hợptác
với A.A.Logunovtrong quátrình sinh nhiều hạt ở vùng nănglượng cao. Khi đó,
Logunovđang là tổng giám đốc Viện Vật lí năng lượng cao tại Serpukhov.Trong
vòng 3năm (1966-1969), Nguyễn Văn Hiệu đều đặn hàng thángđi về trênquãng
đườngDubna –Moscow – Serpukhovdài hơn 225km bằngxe lửa.Trong nhóm
nghiêncứu của Logunov– Nguyễn Văn Hiệu, cósự tham gia của các tiếnsĩ khoa
học M.A.Mestvirishvili, Yu.D.Prokoshkinvà S.P.Denisov. Trongnhững năm 1966-
1967, nhóm này đã tiênđoán quy luậtbất biếnkích thướctiết diện trong các quá
trìnhsinh nhiềuhạt. Tiên đoán lí thuyết nổi tiếngcủa Logunov– Nguyễn Văn Hiệu
được công bố lần đầu vào tháng10 năm1967 và sau14 năm đến tháng 12 năm
1981 mới đượcxác nhậnbằng thực nghiệm. Phát minh nàyđã được Nhànước
Liên Xô cấp Bằng phát minhsố 228 vàongày 21 tháng 12 năm 1981.Theogiáo sư
Đào Vọng Đức, có thể trình bày tóm tắt phát minh của Logunov-NguyễnVăn Hiệu
như sau: “Giả sử ta có hai hạt vi mô A và B với năng lượng rất ca ova chạm với nhau.
Quá trình va chạm này làm nảy sinh rất nhiều hạt khác. Trong số các hạt mới nảy
sinh ấy, ta chỉ để ý đến một loại hạt C nào đó mà không quan tâm đến các hạt còn lại.
Xác suet để sau quá trình va chạm sinh ra hạt C phụ thuộc vào năng lượng của nó.
Logunov-Nguyễn Văn Hiệu tiên đoán rằng sự phụ thuộc này được diễn tả bởi một
hàm của tỉ số giữa năng lượng của hạt C và năng lượng cực đại khả dĩ của nó.
Không những thế, hàm này còn có tính vạn năng, nghĩa là một hàm chung cho tất cả
mọi quá trình, không phụ thuộc vào loại của các hạt A, B, C. Từ đó suy ra rằng nếu
tăng năng lượng của hạt C và năng lượng của các hạt va chạm nhau A và B lên một
số lần như nhau thì xác suất sinh ra hạt C cũng sẽ không thay đổi. Nói cách khác, ở
vùng năng lượng rất lớn, các hệ quả vật lí sẽ không thay đổi khi ta nhân các giá trị
năng lượng với cùng một số”. Ngày 22 tháng 4 năm 1986, Nhà nước Liên Xôquyết

định tặngGiải thưởng Lênin về khoa họcvà kỹ thuật cho tập thể các nhà bác học
Liên Xô và ViệtNam, tậpthể các tác tác giả đã phát minh raqui luật“bất biến kích
thước tiết diện của các quá trình sinh hạt” ở vùng năng lượng cao mà Nguyễn Văn
Hiệu làmột trong hai tác giả chính. Giáosư Đào Vọng Đứcđánhgiá phát minh
Logunov- Nguyễn Văn Hiệu như sau: “ Qui luật này có tầm quan trọng đặc biệt ,
làm nền tảng cho cả một chuỗi các phương hướng nghiên cứu về lí thuyết và thực
nghiệm tiếp theo, giúp chúng ta hiểu được sâu sắc hơn cấu trúc của thế giới vi mô
cùng với các cơ chế tác động trong đó để tạo nên các vật chất xung quanh ta. Qui
luật này đã có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành vật lí hạt
nhân năng lượng cao về mặt lý thuyết cũng như về mặt thực nghiệm. Đặc biệt là nó
đã góp phần đáng kể vào việc hình thành lí thuyết quark – một trong những thành
tựu kì diệu nhất của vật lí học hiện đại”.
Nguyễn Văn Hiệu trở nên nổi tiếngtrênthế giới và được giới khoa học quốc
tế thừa nhận donhững đóng góp xuất sắccủa ông trong lĩnh vực vật lý lý thuyết.
Những công trìnhkhoa học chủ yếu của ông bao gồm: a/ Nghiên cứu lý thuyết
trường lượngtử của các hạt cơ bản với những đóng góp đặcbiệt có ý nghĩa mở
đầu về dángđiệu của các biênđộ tán xạ ở năng lượngcao; Sự đối xứng của các
tương tác mạnh,tươngtác điện từ vàtương tác yếu,b/ Nghiêncứu lý thuyếtchất
rắn với nhữngđóng góp lớn về các tương tác điện từ của các chuẩn hạt trongcác
bán dẫn; Siêu dẫn nhiệt độ cao; Các phương pháp của lý thuyết trườnglượng tử
trong vật lý chất đông đặc. Ông đã công bố gần 200 bài báo trên các tạp chí khoa
học quốc tế và đã viết một số sách chuyên khảo trong đó có cáccuốn sách nổi tiếng
xuấtbản ở Liên Xô mang tên "Bài giảng về đối xứng unita của các hạt cơ bản"
(Moscow,1967)và "Các nguyên lý của các phương pháp lượng tử hóa thứ cấp"
(Moscow,1984),nhiều sách chuyên khảo và giáo trìnhssauđại học khác.
Với nhữngđónggóp tolớn của mình Nguyễn Văn Hiệu đã đạt đượcnhiều
giảithưởng lớn về khoahọccủa Việt Namvàquốc tế như Huy chương vàng của
Viện hàn lâm khoahọcCzechoslovak (1985), Giải thưởng Lênin về khoa họcvà
công nghệ của Liên Xô (1986),Huychương của Liên đoànHàng khôngvũ trụ Xô
Viết (1987),Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoahọc và công nghệ của Việt Nam

(1996)vì “nghiên cứu về các hạt cơ bản (tính đối xứng, cấu tạo và sự tương tác của
các hạt cơ bản và các chuẩn hạt trong chất rắn) trong giai đoạn 1960 – 1965”.
Nguyễn Văn Hiệu là viện sĩ của nhiều việnhàn lâmkhoahọc trên thế giới
trong đó có Viện Hàn lâmKhoa học Liên Xô(1982),Viện Hàn lâm Khoa học Thế
giới thứ ba (1984),Viện Hàn lâm Khoa họcCộnghòa Dânchủ Đức (1984),…và
được tặngnhiều danhhiệu cao quí như Tiến sĩ danhdự củaĐại học Tổnghợp
Gothenburg, ThụyĐiển(1991).
Nguyễn Văn Hiệu đã tham gia sáng lập nhiều cơ quan nghiên cứu quan trọng
của Việt Nam như Viện Vậtlý (1969) và Phân viện Vậtlý ở thành phố Hồ Chí Minh
(1975),Viện Khoa học Việt Namvà Phânviện Khoa học kĩ thuật miền Nam(1975 –
sau đó đổi tênlà Trungtâm Khoa họcTự nhiên vàCông nghệ Quốc gia năm 1993
và naylà Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam), Viện Khoahọc vậtliệu với các
Phân viện tại thành phố Hồ Chí Minhvà NhaTrang(1993), Khoa Côngnghệ
(2000 – nay là Đại học Công nghệ, Đại họcQuốc giaHà Nội),v.v. . .Ông là Đồng chủ
tịch Hội đồng sáng lập của Trung tâm Vật lý lý thuyết khu vựcchâu Á Thái Bình
Dương APCTP có trụ sở ở Seoul(1995,nay chuyển về Pohang), Hàn Quốc.
Là nhàtổ chức và lãnhđạo nhiệt tâm của nềnkhoa học và công nghệ Việt
Nam,giáo sư Nguyễn Văn Hiệu đã giữ nhiều trọng trách như Việntrưởng đầu tiên
của Viện Vật lý, Viện Khoa học kỹ thuật miềnNam và Viện Khoa học vật liệu;Viện
trưởng Viện Khoa họcViệt Nam; Giám đốcTrungtâm Nghiên cứu Khoa học Quốc
gia; Giám đốc Trungtâm Khoa họcTự nhiên và Công nghệ Quốc gia; Chủ tịch Hội
đồngTrung tâm Khoa học Tự nhiên và Côngnghệ Quốc gia;Hiệu trưởng Trường
Đại họcCông nghệ, Chủ tịch Hội đồng Trungtâm Vật lý lý thuyết khuvực
châu ÁThái Bình Dương APCTPhainhiệm kỳ (1996-2001),chủ tịch và chủ tịch
danh dự Hội Vật lý ViệtNam, Ủy viên Ban chấp hành trungương ĐảngCộngsản
Việt Namcác khóa 5, 6, 7 và 8, Đại biểu Quốchội các khoá 4, 5, 7, 8, 9 và 10.Tháng
11 năm2005, giáo sư Nguyễn Văn Hiệu được Hội đồng APCPTbầu làm Chủ tịch
APCPTnhiệmkỳ 2005– 2010. Đây là một vinh dự rất đặcbiệt vì chủ tịch của hai
nhiệmkỳ trước là các nhà khoa học nổi tiếng thế giới. Đó là Dương Chấn Ninh(Mỹ
gốc TrungQuốc, Giải NobelVậtlý năm 1958)và A. Arima(Nhật, nguyên Bộ trưởng

Bộ Giáo dục Nhật Bản, Chủ tịch Viện Nghiên cứu RIKEN).
Là mộtnhà giáo dục hàngđầu của ViệtNam với thâm niên hơn 49 năm làm
công tác giảngdạy đại học và hướngdẫnsau đại học, ông đã đào tạo đượcmột đội
ngũ đông đảonhiều thế hệ các nhà khoahọcvật lý vàvật lí toán có năng lực
chuyên môn cao đang nối tiếp sự nghiệp củaông,hoạt động rất tích cực trongcả
công tác nghiên cứu lẫn đào tạo vàmộtsố người trong số đó đang giữ những trọng
trách trong cáccộng đồng khoahọc và giáo dục.
Trênđây chỉ là một phần giới thiệu không đầy đủ về cuộc đời vàsự nghiệp
của giáo sư viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu nhưngđã phầnnàonói được tầm vócvĩ đại
của ông. Cùngvới thời gian, lịch sử sẽ đánhgiá vàghi danh Nguyễn Văn Hiệu như
là một vĩ nhân trong khoahọc và nhà lãnh đạokhoa học xuất sắccủa Việt Nam.

×