Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Đầu tư nâng cao năng lực kinh doanh tại Cty tư vấn xây dựng Sông Đà - 1 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.79 KB, 12 trang )

Lời Mở đầu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu sự chuyển mình của nền kinh
tế Việt Nam. Đất nước ta chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế từ cơ chế hành
chính, tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quẩn lí của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo cơ chế mới này tất cả các thành
phần kinh tế đều được tự do phát triển, tự mình tìm thị trường kinh doanh, tự
hạch toán kinh doanh, mở rộng thị trường của mình. Nếu doanh nghiệp nào làm
ăn có lãi, có chỗ đứng trên thị trường thì sẽ tồn tại, nếu doanh nghiệp nào làm
ăn thua lỗ thì sẽ bị đào thải khỏi thị trường.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, môi trường kinh doanh luôn
biến động không ngừng cùng với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học kĩ
thuật thì các doanh nghiệp luôn phải tìm cách tự đổi mới, hoàn thiện mình cả
về trình độ, năng lực, kinh nghiệm và hiện đại hoá công nghệ. Do đó, hoạt
động đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp đã
trở thành mối ưu tiên quan trọng trong định hướng phát triển sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà là một doanh nghiệp Nhà nước, hoạt
động trong lĩnh vực tư vấn giám sát, khảo sát thiết kế xây dựng, phục vụ thi
công những công trình thuỷ điện, thuỷ lợi và các công trình xây dựng công
cộng. Sản phẩm của công ty là các bản vẽ thiết kế kĩ thuật của các công trình,
các hạng mục công trình và các con số khảo sát, đặc điểm về chất đất, các kết
luận thí nghiệm…. Đây là những sản phẩm chứa hàm lượng chất xám lớn, sản
phẩm có chính xác, có phù hợp với thiết kế kĩ thuật hiện đại hay không đều phụ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực, kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên
làm công tác khảo sát, thí nghiệm, thiết kế, tư vấn của công ty cùng với độ
chính xác , hiện đại của trang thiết bị máy móc thí nghiệm khảo sát. Do đó, đầu
tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ ở công ty có vai
trò quan trọng trong chiến lược sản xuất kinh doanh.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà, được sự
hướng dẫn tận tình của cô Phạm Thị Thêu-GVC bộ môn Kinh tế đầu tư cùng sự


giúp đỡ của các cô, các anh, chị trong phòng Dự án và tư vấn đấu thầu, đã giúp
em nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư nâng cao năng lực sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp và lựa chọn đề tài: “Đầu tư nâng cao năng lực
sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà”
Trên cơ sở nghiên cứu của chuyên nghành Kinh tế đầu tư và các tài liệu tham
khảo khác. Chuyên đề của em đã phân tích và đánh giá thực trạng công tác đầu
tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh tại công ty CP tư vấn xây dựng Sông
Đà, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt
động đầu tư của công ty.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết câu chuyên đề gồm 3 chương:
*ChươngI: Lí luận chung về đầu tư, đầu tư phát triển và sự cần thiết phải đầu
tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
*ChươngII: Thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh của công ty CP tư vấn xây dựng Sông Đà.
*ChươngIII: Mục tiêu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu
tư tại công ty CP tư vấn xây dựng Sông Đà.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Do trình độ nhận thức còn có hạn, thời gian thực tập tại công ty không nhiều,
những thiếu sót xuất hiện trong chuyên đề này là điều không tránh khỏi. Vì
vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô cùng các cô, chú và các
anh, chị trong công ty để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 7 tháng 5 năm 2005.
Sinh viên thực hiện
Hoàng Tuấn Khanh

Nội dung
Chương I: Lí luận chung về đầu tư, đầu tư phát triển và
sự cần thiết phải đầu tư trong hoạt động sản xuất
kinh doanh

I- Đầu tư và đầu tư phát triển :
1. Đầu tư:
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy,
mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với
những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu
tư.
Các nguồn lực phải hy sinh cho hoạt động đầu tư có thể là tiền , tài
nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ của con người.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền
vốn), tài sản vật chất( nhà xưởng, đường xá, bệnh viện, trường học…), tài sản
trí tuệ( trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lí, khoa học kĩ thuật ) và nguồn
nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản
xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự
hy sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai
trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ với người bỏ vốn mà cả đối
với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền
kinh tế xã hội được thụ hưởng. Chẳng hạn một nhà máy được xây dựng, tài sản
vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời tài sản vật chất, tiềm
lực sản xuất của nền kinh tế cũng được tăng thêm.
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho người đầu tư là
lợi nhuận còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và
cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách , giải quyết
việc làm cho lao động
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không
chỉ có lợi cho chính họ (trong việc có thu nhập cao và địa vị cao trong xã hội)
mà còn bổ sung nguồn lực có kĩ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công

nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao trình độ công nghệ và kĩ thuật của
nền sản xuất quốc gia.
Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ cho người đầu tư mà cả nền
kinh tế xã hội được hưởng thụ trên đây, không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
người chủ đầu tư mà cả của nền kinh tế xã hội chính là đầu tư phát triển. Ngoài
ra, còn có các loại hình đầu tư khác mà chỉ làm tăng tài sản, lợi ích của cá nhân
người đầu tư và không làm tăng tài sản và lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế, đó
chính là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Tuy nhiên, do đặc điểm của đầu
tư phát triển nên đây cũng là loại đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của
xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời,
tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
2. Đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển chính là một phạm trù hẹp của đầu tư chỉ những hoạt động sử
dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết
quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả
đó. Nghĩa là, người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài
sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt
động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm nâng cao đời sống của
mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa
nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên bệ và
bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền
với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các
cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Xét trong phạm
vi quốc gia thì đó là những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực
tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì
sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển chính là quá trình chi tiêu để duy trì
sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho

nền kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển xã hội trong dài hạn.
II- Phân loại và tác động của các hoạt động đầu tư phát triển trong sản xuất
kinh doanh:
Có nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư tuỳ theo bản chất , phạm vi lợi
ích do hoạt động đầu tư đem lại, tuỳ theo thời hạn đầu tư, phương thức đầu tư.
1. Theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt
đầu tư thành các dạng sau:
1.1. Đầu tư tài chính:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền cho vay hoặc mua các
chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước ( gửi tiết kiệm, mua trái phiếu
Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty phát hành( mua cổ phiếu hoặc trái phiếu công ty). Đầu tư tài sản tài
chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế quốc dân( nếu không xét đến
quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của
tổ chức, cá nhân đầu tư (đánh bạc, đánh đề cũng là một hình thức đầu tư tài
chính nhưng không được pháp luật cho phép do gây nên các tệ nạn xã hội). Với
sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển
dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển
nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có
tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi
một ít tiền. Đây là nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
1.2. Đầu tư thương mại:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán
với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại
hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét
đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản của người đầu tư trong quá trình
mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán và người
đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại
có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển

tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ
vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã
hội nói chung( Chúng ta cần lưu ý là đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu
tư thương mại xét về bản chất, nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa
thiếu hàng hoá một cách giả tạo, gây khó khăn cho việc quản lí lưu thông phân
phối, gây mất ổn định cho sản xuất, làm tăng chi phí của người tiêu dùng).
1.3. Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt
động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh
doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo ra việc làm,
nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó là việc bỏ tiền ra xây
dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt
chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí
thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã
hội. Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát triển.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì
sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho
nền kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong
dài hạn.
2. Theo thời hạn đầu tư, hoạt động đầu tư phát triển được phân thành các loại
sau:
2.1. Đầu tư dài hạn:
Là kế hoạch đầu tư mang tính chất lâu dài, định hướng sự phát triển của
công ty, thường kế hoạch đầu tư dài hạn có thời gian đầu tư từ 10 năm trở nên
và có quy mô thường to lớn. Do có thời hạn đầu tư dài và mang ý nghĩa định
hướng lâu dài trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp nên đầu tư dài hạn
có khối lượng tài sản số lượng lao động huy động là rất lớn.
Đầu tư dài hạn là hoạt động chủ yếu nhằm xây dựng cơ sở vật chất lâu dài cho

nền kinh tế, cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đồng thời dựa trên các
mục tiêu kế hoạch của đầu tư dài hạn, doanh nghiệp, nền kinh tế sẽ đào tạo xây
dựng được một đội ngũ cán bộ công nhân viên kĩ thuật, cán bộ quản lí có trình
độ cao hơn. Thông qua các kế hoạch dài hạn, doanh nghiệp sẽ có chiến lược
mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu cho mình. Kế hoạch đầu tư dài hạn
đòi hỏi những người lập kế hoạch đầu tư dài hạn của công ty phải rất cẩn thận
và có tầm nhìn chiến lược thật tốt nếu không sẽ làm cho kế hoạch đầu tư không
được thành công và kéo theo là sự sụp đổ của doanh nghiệp hoặc làm cho
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
doanh nghiệp không thể phát triển được. Do thời hạn của đầu tư dài hạn là rất
dài so với sự thay đổi của tình hình phát triển của nền kinh tế thị trường nên
bên cạnh các kế hoạch đầu tư dài hạn có tính chất định hướng, doanh nghiệp
còn luôn luôn phải đề ra những kế hoạch ngắn hạn nhằm từng bước hiện thực
hoá kế hoạch đầu tư dài hạn, tránh sự phát triển lệch lạc và bám sát hơn với sự
phát triển của nền kinh tế.
2.2. Đầu tư ngắn hạn:
Là kế hoạch đầu tư có thời gian đầu tư ngắn, thường là dưới 10 năm.
Đầu tư ngắn hạn có tác dụng tạo lực đẩy cho sự phát triển của công ty tuỳ theo
mỗi thời kì ngắn. Là cách mà doanh nghiệp có thể bổ trợ, củng cố kế hoạch dài
hạn. Thông qua đầu tư ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ có đối sách tốt hơn, phản
ứng nhanh nhạy hơn với sự biến động của thị trường. Đầu tư ngắn hạn của
doanh nghiệp sẽ sớm thu hồi vốn và lợi nhuận hơn so với đầu tư dài hạn. Đầu
tư ngắn hạn không yêu cầu phải huy động một khối lượng vốn đầu tư lớn và
một số lượng nhân lực nhiều nhưng đòi hỏi những nhà quản lí của doanh
nghiệp phải có một cái nhìn, một phản ứng nhanh nhạy đối với thị trường trong
mỗi sự biến động của thị trường.
Đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn bổ sung những khuyết điểm của nhau
và tạo cho sự phát triển thông thoáng nhanh nhạy của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường đầy biến động. Các kế hoạch đầu tư tạo cho doanh nghiệp
hoạt động một cách trơn tru và phản ứng tốt với biến động của thị trường.

III- Vai trò của hoạt động đầu tư :
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lí thuyêt kinh tế, cả lí
thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lí thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu
tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự
tăng trưởng.
1. Tác động của đầu tư phát triển trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước
:
Đối với một nền kinh tế, hoạt động đầu tư có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, nó không chỉ đóng vai trò trong quá trình tái sản xuất của xã hội mà còn
tạo ra những cú hích cho sự phát triển của nền kinh tế ở những nước đang phát
triển thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nợ nần và nghèo đói, tạo ra sự phát triển
của các nền kinh tế phát triển.
a.Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
- Về mặt cầu:
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.
Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24% -28%
trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác
động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của
đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch chuyển sang D’) kéo sản lượng
cân bằng tăng theo từ Q0 -Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0-
P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0-E1.
-Về mặt cung:
Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào
hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên( đường S dịch
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chuyển sang S’), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q0-Q1 và do đó giá cả
sản phẩm giảm từ P0-P1. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng.
Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất
phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng

thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã
hội.
b. Đầu tư tác động đến sự ổn định của nền kinh tế theo 2 mặt:
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng
cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư,
dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là
yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho
giá của các hàng hoá có liên quan tăng( giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao
động, vật tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt
mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp
nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế
phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên
quan tăng, sản xuất của các nghành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm
tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lâo động, giảm tệ nạn xã
hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư( như Việt Nam thời kì 1982-1989) cũng dẫn đến tác
động 2 mặt, nhưng theo chiều hướng ngược láio với tác động trên đây. Vì vậy,
trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạch định chính sách cần thấy hết
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu,
phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
c. Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con dường tất yếu có
thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn ( từ 9-10% ) là tăng trưởng đầu tư
nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các
nghành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng
sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy,
chính đầu tư quyết định quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở các nước nhằm
đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.

Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kếm phát triển thoát khỏi
tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa
thế, kinh tế, chính trị những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn
đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
d. Đầu tư làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước :
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện
nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt
Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia
quá trình phát triển công nghệ thế giới thành 7 giai đoạnthì Việt Nam đang là
một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×