Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

giải pháp cho việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.55 KB, 46 trang )

1
Lời mở đầu
Thị trờng chứng khoán - cho đến nay khái niệm này hẳn là không còn xa lạ
đối với chúng ta, hầu hết trên các phơng tiện thông tin đại chúng, các thông tin về
thành lập ủy Ban chứng khoán hay làm thế nào để tạo ra hàng hóa cho thị trờng
chứng khoán hoặc vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp đã trở thành những thông tin
sốt dẻo rất đáng quan tâm. Bên cạnh đó, hàng loạt những tài liệu, sách tham khảo về
thị trờng chứng khoán đợc xuất bản. Mặc dù vậy, mỗi tác giả có một cách hiểu và
cách nhìn nhận về thị trờng chứng khoán khác nhau, không nhất quán. Hơn nữa,
tuy đã rất nỗ lực và cố gắt, đến giờ phút này chúng ta vẫn cha có một trung tâm
giao dịch chứng khoán nh hằng mong đợi, chứ cha nói đến một sở giao dịch
chứng khoán bề thế nh sở giao dịch chứng khoán New York Và hằng ngày các
doanh nghiệp vẫn huy động vốn vay bằng cách qua ngân hàng - kênh dẫn vốn gián
tiếp - nhng cách này cũng có rất nhiều nhợc điểm, tồn tại.
Qua lịch sử phát triển thị trờng chứng khoán, chúng ta không thể phủ nhận
vai trò ngày càng quan trọng của nó trong sự vận hành của nền kinh tế quốc gia
cũng nh trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Thị trờng chứng khoán là công cụ huy
động vốn hết sức hữu hiệu (kể cả vốn nớc ngoài) để hớng trực tiếp vào mục tiêu
đầu t, ở những nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển thị trờng chứng khoán là
kênh dẫn vốn lớn nhất sau kênh ngân hàng. Thị trờng chứng khoán nâng cao tính
nhạy cảm và năng động của nền kinh tế, đợc ví nh phong vũ biểu của nền kinh tế,
cung cấp thông tin để Chính phủ điều chỉnh và định hớng phát triển kinh tế kịp
thời. Thị trờng chứng khoán là giải pháp giúp Chính phủ huy động vốn nhanh
chóng với quy mô lớn để tài trợ việc thực hiện những chơng trình kinh tế xã hội.
Không những thế, nhờ đặc tính công khai, công bằng, trung thực trong hoạt động,
thị trờng chứng khoán vừa tạo điều kiện vừa bắt buộc các doanh nghiệp phải hoạt
động nghiêm túc, có hiệu quả, đây là nơi cung cấp những dữ liệu đáng tin cậy để
đánh giá và kiểm soát hoạt động của các công ty.
Từ thực tiễn chuẩn bị cho sự hình thành và phát triển thị trờng chứng khoán ở
Việt Nam và tầm quan trọng của thị trờng chứng khoán đối với hoạt động nền kinh
tế, phải khẳng định rằng việc nghiên cứu để có một phơng pháp luận đúng đắn về


thị trờng chứng khoán ở Việt Nam là một việc làm cần thiết, bức xúc. Qua một
thời gian học tập, tìm hiểu về thị trờng chứng khoán đợc sự giúp đỡ tận tình của
2
thầy giáo bộ môn Lý thuyết tài chính tiền tệ em xin mạo muội trình bày một chút
kiến thức hiểu biết ít ỏi của mình về thị trờng chứng khoán và cách giải quyết để
có thể xây dựng và phát triển một thị trờng chứng khoán hoàn hảo ở Việt Nam.
Bài viết gồm 3 chơng.
Chơng I - Lý luận chung về thị trờng chứng khoán
Chơng II - Quá trình chuẩn bị cho sự hình thành và phát triển thị
trờng chứng khoán ở Việt Nam
Chơng III - Giải pháp cho việc xây dựng và phát triển thị trờng chứng
khoán ở Việt Nam.
3
CHơng I
Những vấn đề lý luận chung về thị trờng
chứng khoán (TTCK).
I-/ Khái niệm về thị trờng chứng khoán.
1.1-/ Khái niệm về thị trờng chứng khoán.
TTCK là nơi chứng khoán đợc phát hành và trao đổi. Thị trờng chứng khoán
là một bộ phận của thị trờng vốn do đặc tính của chứng khoán trong việc huy động
vốn dài hạn.
Hàng hoá giao dịch trên thị trờng chứng khoán là các cổ phiếu, trái phiếu và
một số công cụ tài chính khác có thời hạn trên 1 năm. Các trái phiếu có thời hạn
dới 1 năm là hàng hoá trên thị trờng tiền tệ.
Vị trí của TTCK trong hệ thống thị trờng tài chính có thể đợc biểu thị khái
quát qua sơ đồ sau:
TTCK có những đặc điểm chủ yếu sau:
+TTCK đợc đặc trng bởi hình thức tài chính trực tiếp, ngời cần vốn và
ngời có khả năng cung ứng vốn đều trực tiếp tham gia vào thị trờng, giữa họ
không có các trung gian tài chính.

Thị
trờng tài
chính
Thị trờng
tiền tệ
Thị trờng
vốn
Thị trờng
vốn
Thị trờng
vốn ngắn
hạn
Thị trờng
chứng khoán
4
+TTCK là thị trờng gần với thị trờng cạnh tranh hoàn hảo. Tất cả mọi ngời
đều đợc tự do tham gia vào thị trờng. Không có sự áp đặt giá cả trên TTCK mà
giá cả ở đây đợc xác định dựa trên quan hệ cung cầu của thị trờng và phản ánh
các thông tin có liên quan đến chứng khoán.
+TTCK về cơ bản là một thị trờng liên tục, sau khi các chứng khoán đợc
phát hành trên thị trờng sơ cấp nó có thể đợc mua bán nhiều lần trên thị trờng
thứ cấp. TTCK đảm bảo cho những ngời đầu t có thể chuyển các chứng khoán họ
nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn.
1.2-/ Chức năng của thị trờng chứng khoán
TTCK thực hiện các chức năng chủ yếu sau đây:
1.2.1- Chức năng huy động vốn đầu t cho nền kinh tế.
Sự hoạt động của TTCK tạo ra một cơ chế chuyển các nguồn vốn từ nơi thừa
đến nơi thiếu. TTCK cung cấp phơng tiện huy động số vốn nhàn rỗi trong dân c
cho các doanh nghiệp sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau nh đầu t phát triển
sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất mới Chức năng này đợc thực hiện khi công ty

phát hành chứng khoán và công chúng mua chứng khoán. Nhờ vào sự hoạt động của
thị trờng mà doanh nghiệp có thể huy động đợc một số lợng lớn vốn đâù t dài
hạn. Khi mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của các nhà
đầu t đã đợc đa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng
sản xuất xã hội. Trong quá trình này, TTCK đã có những tác động quan trọng trong
việc đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế quốc dân bằng cách hỗ trợ các hoạt động
đầu t dài hạn của các doanh nghiệp.
Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phơng cũng huy động
đợc các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu t phát triển hạ tầng kinh tế, phục
vụ các nhu cầu chung của xã hội.
1.2.2- Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán.
TTCK là nơi các chứng khoán đợc mua bán, trao đổi, bởi vậy nhờ các TTCK
các nhà đầu t có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền
hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng
chuyển đổi thành tiền) là một trong những yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng
khoán đối với ngời đầu t. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt của chứng khoán.
5
chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán là chức năng quan
trọng đảm bảo cho TTCK hoạt động một cách năng động và có hiệu quả.
1.2.3- Chức năng đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tính hình của nền
kinh tế.
TTCK là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình của cả nền kinh tế
một cách tổng hợp và chính xác thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trờng.
Từ đó tạo ra một môi trờng cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
1.2.4- Chức năng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
TTCK là thị trờng nơi cung và cầu vốn dài hạn gặp nhau. Trên TTCK giá cả
các chứng khoán phản ánh sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và các
ngành kinh tế nói chung, các giá chứng khoán tăng lên cho thấy đầu t đang mở
rộng, nền kinh tế tăng trởng và ngợc lại khi giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy

các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Chính vì vậy TTCK đợc gọi là phong vũ
biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu
chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát.
Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào
TTCK nhằm định hớng đầu t đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
Tổ chức tốt tạo điều kiện cho thị trờng phát huy đợc chức năng của nó sẽ làm
cho thị trờng hoạt động có hiệu quả từ đó tác động tích cực đến sự phát triển kinh
tế- xã hội. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng TTCK cũng ẩn chứa những khuyết tật,
nó mang tính chất đầu cơ rất cao. Vì thế, nếu nh thị trờng không đợc tổ chức tốt,
sự vận hành của nó không đợc đảm bảo bằng một khung pháp lý đủ hiệu lực và một
bộ máy điều hành có năng lực thì TTCK có thể rơi vào tình trạng trục trặc, rối loạn từ
đó, gây ra những tác động tiêu cực không nhỏ đe doạ sự ổn định, phát triển của nền
kinh tế và làm thiệt hại đến lợi ích của đông đảo công chúng.
II-/ Các công cụ của thị trờng chứng khoán
2.1-/ Khái niệm về chứng khoán
Nh phần trên đã nêu, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế làm nảy sinh nhu
cầu vốn ngày càng lớn nhất là nhu cầu vốn dài hạn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cấc
6
doanh nghiệp và Nhà nớc đã phát hành loại giấy ghi nợ để vay vốn công chúng,
loại giấy này đợc gọi là trái phiếu. Mặt khác, với sự ra đời của công ty cổ phần đã
nảy sinh một phơng tiện huy động góp vốn vào công ty là cổ phiếu. Đây là chứng
chỉ xác nhận phần sở hữu công ty tơng ứng với phần vốn góp vào công ty.
Trái phiếu và cổ phiếu đều là bằng chứng xác nhận ngời ta đã bỏ tiền ra đầu
t dới hình thức cho vay trực tiếp hay góp vốn vào công ty cổ phần và cũng là
bằng chứng đa lại cho ngời ta những quyền nhất định, trong đó quyền cơ bản là
đợc hởng những khoản thu nhập. Do vậy, trái phiếu và cổ phiếu đều đợc gọi là
chứng khoán. Ngày nay, ngoài trái phiếu và cổ phiếu là hai loại chứng khoán chủ
yếu, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trờng đã nảy sinh nhiều loại chứng
khoán mới rất đa dạng. Mặt khác, với sự ơhát triển của khoa học và công nghệ thay

vì việc phát hành các loại chứng chỉ huy động vốn dới dạng giấy tờ ngời ta còn
có thể ghi lại trên hệ thống thiết bị điện tử coi là sự phi vật chất hoá chứng khoán.
Từ những điều trình bày ở trên có thể rút ra: Chứng khoán là chứng từ dới
dạng giấy tờ hoặc đợc ghi trên hệ thống điện tử xác nhận các quyền hợp pháp của
ngời sở hữu chứng từ đó đối với ngời phát hành.
Xem xét chứng khoán có thể thấy rằng chứng khoán đại biểu cho một số tiền
nhất định mà ngời đầu t đã ứng ra và điều cơ bản là nó đa lại cho ngời sở hữu
chứng khoán quyền đợc hởng những khoản thu nhập nhất định trong tơng lai. Vì
thế, chứng khoán có thể đợc mua bán và đợc lu thông với t cách là hàng hoá.
2.2-/ Đặc trng của chứng khoán.
Sự phát triển của TTCK làm nảy sinh nhiều loại chứng khoán rất đa dạng. Tuy
nhiên, các loại chứng khoán đều có những đặc trng sau:
2.2.1- Chứng khoán luôn gắn với những khả năng thu lợi.
Khi mua chứng khoán ngời đầu t đã bỏ một khoản vốn của mình vào đầu t,
vì vậy họ chỉ đầu t khi có thể thu đợc những khoản lợi tức nhất định. Mỗi loại
chứng khoán đa lại những khả năng thu lợi khác nhau: các trái phiếu thờng có
mức lợi tức cố định và tơng đối chắc chắn trong khi đó các cổ phiếu có độ an toàn
thấp hơn mang lại khả năng đợc hởng cổ tức và đặc biệt là khả năng thu lãi lớn
hơn khi cổ phiếu tăng giá.
2.2.2- Chứng khoán luôn gắn với rủi ro.
7
Đầu t luôn gắn với rủi ro, và đầu t vào chứng khoán cũng có những rủi ro
nhất định. Có những rủi ro chung cho tất cả chứng khoán và cũng có những rủi ro
riêng gắn liền với từng loại chứng khoán nhất định. Các chứng khoán khác nhau có
mức độ rủi ro khác nhau.
2.2.3- Chứng khoán có khả năng thanh khoản.
Sau khi phát hành, chứng khoán có thể đợc mua đi bán lại nhiều lần trên
TTCK. Các nhà đầu t nắm giữ chứng khoán có thể chuyển các chứng khoán của họ
thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn. Mặc dù mỗi chứng khoán có khả năng thanh toán
khác nhau, nhng nhìn chung tất cả các chứng khoán đều có khả năng thanh toán

nhất định. Trong những thời điểm nhất định cũng có những chứng khoán mất khả
năng thanh toán, tuy nhiên những chứng khoán này sẽ nhanh tróng bị loại bỏ khỏi thị
trờng. Xem xét các loại đặc trng của chứng khoán có thể thấy rằng, cùng với sự
phát triển của TTCK ngày càng có nhiều loại chứng khoán khác nhau, mỗi loại chứng
khoán có đặc trng khác nhau về khả năng đa lại thu nhập hay nói cách khác đi là
mức lợi tức, mức độ rủi ro và mức độ thanh khoản. Đối với ngời phát hành điều
quan trọng là cần phải lựa chọn phát hành loại chứng khoán thích hợp để thu hút
đợc ngời đầu t đảm bảo cho việc phát hành thành công thực hiện đợc mục tiêu
huy động vốn. Đối với ngời đầu t cần nắm đợc đặc trng của từng loại chứng
khoán để cân nhắc lựa chọn đi đến quyết định đầu t đúng vào loại chứng khoán
thích ứng đáp ứng các yêu cầu mong muốn đề ra về thu nhập và mức độ mạo hiểm.
2.3-/ Phân loại chứng khoán.
Có nhiều cách phân loại chứng khoán dựa trên những tiêu chí khác nhau. Sau
đây là một số cách phân loại chứng khoán thờng đợc sử dụng.
2.3.1- Căn cứ vào chủ thể phát hành: Có thể phân loại chứng khoán thành
ba nhóm lớn.
-Chứng khoán doanh nghiệp: Là các chứng khoán do doanh nghiệp phát hành
bao gồm các cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp.
-Chứng khoán Chính phủ và chứng khoán chính quyền địa phơng: Là các
chứng khoán do Chính phủ và chính quyền địa phơng phát hành. Các chứng khoán
8
này thờng là các trái phiếu đợc Chính phủ hoặc chính quyền địa phơng đảm bảo
thanh toán tiền gốc và lãi.
Chứng khoán của ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng: Là các chứng
khoán do các ngân hàng và tổ chức tín dụng phát hành, nhằm phục vụ các hoạt
động nghiệp vụ của mình. Các chứng khoán này thờng là các trái phiếu hay một số
hình thức khác nh chứng chỉ thụ hởng
2.3.2- Căn cứ vào tính chất huy động vốn: Có thể phân loại chứng khoán
thành cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phái sinh.
- Cổ phiếu (chứng khoán vốn): Là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu một

công ty cổ phần. Chứng khoán vốn do các công ty phát hành. Ngời sở hữu chứng
khoán vốn không phải là chủ nợ của công ty mà là ngời sở hữu công ty và có
quyền hởng các thu nhập từ lợi nhuận công ty.
-Trái phiếu (chứng khoán nợ vốn): Là chứng khoán xác nhận một khoản nợ
của ngời phát hành đối với ngời nắm giữ chứng khoán. Chứng khoán nợ thể hiện
sự cam kết của ngời phát hành thanh toán những khoản tiền lãi và khoản tiền gốc
vào những thời điểm nhất định.
-Các chứng khoán phát sinh: Là các chứng khoán thể hiện quyền đợc mua cổ
phiếu, trái phiếu theo các điều kiện nhất định đã đợc thoả thuận trớc. Các chứng
khoán phái sinh gồm một số loại chủ yếu sau:
+Chứng quyền
+Chứng khế
+Hợp đồng tơng lai
+Hợp đồng lựa chọn

2.3.3- Căn cứ vào lợi tức của chứng khoán:
Có thể phân loại chứng khoán thành chứng khoán có thu nhập cố định và
chứng khoán có thu nhập biến đổi.
9
-Chứng khoán có thu nhập cố định: Là các chứng khoán có thu nhập đợc xác
định trớc không phụ thuộc vào bất kỳ một yếu tố nào khác. Các chứng khoán có
thu nhập cố định thờng thấy là các trái phiếu có lãi suất cố định.
-Chứng khoán có thu nhập biến đổi: Là các chứng khoán có thu nhập thay đổi
phụ thuộc vào các yếu tố nhất định.Các chứng khoán có thu nhập biến đổi thờng
thấy là cổ phiếu (thu nhập phụ thuộc vào kết quả hoạt động và lợi nhuận của công
ty), các loại chứng chỉ thụ hởng (thu nhập phụ thuộc vào hiệu quả của quỹ đầu t)
2.3.4- Căn cứ theo hình thức chứng khoán:
Có thể chia chứng khoán thành hai nhóm: Chứng khoán ghi danh và chứng
khoán không ghi danh.
-Chứng khoán ghi danh: Là chứng khoán trên đó có ghi tên ngời sở hữu.

Thông thờng các chứng khoán ghi danh bị hạn chế khả năng chuyển nhợng, thể
hiện sự ràng buộc chặt chẽ của ngời sở hữu chứng khoán với ngời phát hành.
Chứng khoán ghi danh có thể là cổ phiếu hoặc trái phiếu. Cổ phiếu ghi danh thờng
là cổ phiếu của các sáng lập viên hoặc của các thành viên trong hội đồng quản trị.
-Chứng khoán không ghi danh: Là các chứng khoán không ghi tên ngời sở
hữu, các chứng khoán này đợc tự do chuyển đổi.
2.3.5- Căn cứ theo thị trờng nơi chứng khoán giao dịch:
Có thể chia chứng khoán thành hai loại:
-Chứng khoán đợc niêm yết: Là các chứng khoán đợc chấp nhận đủ tiêu
chuẩn và đợc giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán.
-Chứng khoán không đợc niêm yết: Là các chứng khoán không đợc niêm yết
tại sở giao dịch và đợc giao dịch trên thị trờng phi tập trung.
III-/ Cơ cấu, mục tiêu và các nguyên tắc hoạt động của TTCK.
3.1-/ Cơ cấu của TTCK.
Nghiên cứu về cơ cấu của TTCK là phân tích xem TTCK bao gồm những bộ
phận nào, và tìm hiểu mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Có thể xem xét cơ cấu
TTCK dới một số góc độ sau:
-Căn cứ vào tính chất của chứng đợc giao dịch: TTCK có thể đợc chia thành
thị trờng cổ phiếu, thị trờng trái phiếu và thị trờng các sản phẩm phát sinh.
10
Thị trờng cổ phiếu là thị trờng nơi các cổ phiếu đợc phát hành và giao dịch.
Thị trờng cổ phiếu gồm có thị trờng cổ phiếu sơ cấp và thị trờng cổ phiếu thứ cấp.
Thị trờng trái phiếu là thị trờng nơi các trái phiếu đợc phát hành và giao
dịch, thị trờng trái phiếu cũng gồm có thị trờng trái phiếu sơ cấp và thị trờng trái
phiếu thứ cấp.
Thị trờng các sản phẩm phát sinh bao gồm thị trờng các hợp đồng tơng lai,
các hợp đồng lựa chọn
-Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn: TTCK đợc chia thành thị trờng
sơ cấp và thị trờng thứ cấp:
Thị trờng sơ cấp: Thị trờng sơ cấp là thị trờng mua bán các chứng khoán

lần đầu phát hành.
Sự hoạt động của thị trờng sơ cấp tạo ra một kênh thu hút huy động nguồn
tiền nhàn rỗi của dân chúng chuyển thành vốn đầu t cho nền kinh tế. Thông qua
thị trờng này, nhà phát hành thực hiện đợc việc bán các chứng khoán mới cho
nhà đầu t thu đợc tiền về tăng thêm một lợng vốn mới.
Thị trờng thứ cấp: Thị trờng thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã
đợc phát hành trên thị trờng sơ cấp.
Sự hoạt động của thị trờng thứ cấp tạo ra khả năng dễ dàng, thuận tiện chuyển
đổi chứng khoán thành tiền. Trên thị trờng này diễn ra việc mua bán chứng khoán
giữa các nhà đầu t, tiền thu đợc từ việc bán chứng khoán không thuộc về nhà phát
hành mà thuộc về nhà đầu t bán chứng khoán nhờng lại quyền sở hữu chứng
khoán cho các nhà đầu t khác.
Giữa thị trờng sơ cấp và thị trờng thứ cấp có mối quan hệ tơng tác gắn bó
chặt chẽ với nhau. Nếu không có thị trờng sơ cấp thì không có hàng hoá để lu
thông trên thị trờng thứ cấp. Nhng nếu không có sự tồn tại của thị trờng thứ cấp
thì thị trờng sơ cấp cũng khó có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả. Vì thế,
mặc dù sự hoạt động của thị trờng thứ cấp không làm tăng thêm vốn đầu t cho
nền kinh tế song sự tồn tại và hoạt động nhịp nhàng của thị trờng thứ cấp làm cho
thị trờng sơ cấp hoạt động có hiệu quả và phát triển.
3.2-/ Mục tiêu của TTCK.
11
TTCK luôn hớng tới một mục tiêu nhất định. Nhìn chung có ba mục tiêu lớn
đợc đặt ra đối với TTCK ở các nớc đó là: hoạt động có hiệu quả, điều hành công
bằng và phát triển ổn định.
3.2.1- Hoạt động có hiệu quả.
Một TTCK hoạt động có hiệu quả là một thị trờng có tính hiệu quả về mặt
thông tin và cơ chế giao dịch. Để đạt đợc điều này TTCK cần phải đảm bảo:
Giá cả đợc hình thành trên thị trờng là giá cả cân bằng giữa cung và cầu và
phải phản ánh đợc tức thời các thông tin có liên quan có thể ảnh hởng tới giá cả.
Điều quan trọng nhất là phải thiết lập đợc một cơ chế giao dịch nhạy bén có khả

năng xác định giá cả thị trờng của các chứng khoán một cách chính xác nhất.
-Cơ chế và các thủ tục giao dịch chứng khoán cần phải đợc tiêu chuẩn hoá để
có thể thực hiện đợc một số lợng lớn các giao dịch một cách thông suốt. TTCK
phải đảm bảo tính thanh khoản cao giúp cho các nhà đầu t có thể mua và bán
chứng khoán bất cứ lúc nào họ muốn.
-Chi phí giao dịch trên thị trờng phải đợc tối thiểu hoá, đảm bảo những lợi
ích thu đợc từ đầu t vào chứng khoán không bị chi phí giao dịch ăn mòn. Muốn
vậy, hệ thống giao dịch chứng khoán phải đợc tổ chức sao cho tiết kiệm nhất về
mặt chi phí.
-TTCK phải đợc tổ chức một cách thuận tiện cho những ngời sử dụng, có
nh vậy mới thu hút đợc nhiều nhà đầu t tham gia vào thị trờng.
3.2.2- Điều hành công bằng.
Điều hành công bằng TTCK là việc đảm bảo sự bình đẳng giữa những ngời
tham gia vào thị trờng, muốn điều hành công bằng TTCK cần đảm bảo:
-Các cơ quan điều hành thị trờng phải xác lập các quy chế đảm bảo sự cạnh
tranh tự do, bình đẳng trên thị trờng. Các nhà đầu t và các tổ chức có liên quan
đến chứng khoán đợc tự do tham gia và rút khỏi thị trờng. Mọi giao dịch không
bình đẳng nh giao dịch tay trong, u tiên cho đơn mua hàng của một số nhà đầu t
sai nguyên tắc đều bị nghiêm cấm.
-Bảo đảm quyền lợi của các nhà đầu t thông qua việc duy trì thị trờng hoạt
động lành mạnh, chống lại các trờng hợp lũng đoạn thị trờng và bóp méo giá gây
thiệt hại cho nhà đầu t.
12
3.2.3- Phát triển ổn định TTCK.
Để đảm bảo TTCK phát triển ổn định và lành mạnh phải chú trọng phát hiện
và loại trừ các khả năng xảy ra khủng hoảng thị trờng do mất khả năng thanh
khoản hoặc do biến động giá cả quá lớn.
Trên TTCK, do nhiều khi ngời mua không biết nhiều về ngời bán và khả
năng thanh toán của họ, nên nhiều khi việc một vài chứng khoán mất khả năng
thanh khoản sẽ làm cho nhiều nhà đầu t rời bỏ thị trờng, dẫn tới phản ứng dây

chuyền và gây ra khủng hoảng của toàn bộ thị trờng. Để giải quyết đợc vấn đề
này cần có một cơ chế giao dịch đảm bảo thông suốt, thành lập các tổ chức tài chợ
chứng khoán hỗ trợ thị trờng nhằm ngăn ngừa khả năng mất khả năng thanh khoản
đối với các thị trờng chứng khoán và các công ty vẫn hoạt động tốt.
Các biến động lớn về giá cả xảy ra khi cung và cầu tạm thời không cân bằng.
Sự biến động qua mức của giá cả chứng khoán gây ra nỗi lo sợ cho các nhà đầu t
và cản trở sự hoạt động tốt của thị trờng. Để khắc phục những trờng hợp này, cần
có các công cụ ổn định giá cả trên TTCK, ví dụ nh thông qua hoạt động của các
công ty hỗ trợ thị trờng và việc đa ra các giới hạn về thay đổi giá trong ngày tại
các Sở giao dịch
3.3-/ Các nguyên tắc hoạt động của TTCK.
Để đạt đợc những mục tiêu nêu trên, TTCK phải hoạt động dựa trên các
nguyên tắc nhất định. Nhìn chung có một số nguyên tắc hoạt động cơ bản của
TTCK nh sau:
3.3.1- Nguyên tắc cạnh tranh tự do.
TTCK phải hoạt động trên cơ sở cạnh tranh tự do. Các nhà phát hành, nhà đầu
t đợc tự do tham gia và rút khỏi thị trờng. Giá cả trên thị trờng phản ánh mối
quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tơng quan cạnh tranh giữa các công
ty. Trên thị trờng sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng
khoán của mình cho các nhà đầu t, các nhà đầu t đợc tự do lựa chọn các chứng
khoán mà họ muốn đầu t vào. Trên thị trờng thứ cấp, các nhà đầu t cũng cạnh
tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất.
13
3.3.2- Nguyên tắc giao dịch công bằng.
Có rất nhiều ngời tham gia vào TTCK với mục đích khác nhau. Để đảm bảo
lợi ích cho tất cả những ngời này, TTCK phải hoạt động dựa trên nguyên tắc giao
dịch công bằng. Tất cả mọi giao dịch phải đợc thực hiện trên cơ sở những quy định
chung, những ngời tham gia thị trờng đều bình đẳng trong việc thực hiện những
quy định này. Các trờng hợp giao dịch bất bình đẳng nh giao dịch tay trong, sử
dụng vốn lớn để đầu cơ lũng đoạn giá đều bị nghiêm cấm.

3.3.3- Nguyên tắc công khai.
Một yếu tố hết sức quan trọng đối với ngời đầu cơ chứng khoán là thông tin.
Để TTCK hoạt động có hiệu quả và công bằng thì các tin tức có tác động đến sự
thay đổi giá cả của chứng khoán cần phải công khai cung cấp cho các nhà đầu t
nhằm tạo cho họ có cơ hội đầu t nh nhau, đồng thời cũng là biện pháp quan trọng
để ngăn chặn các hành vi gian lận trong kinh doanh chứng khoán lũng đoạn thị
trờng. Các thông tin đợc công khai thông qua các phơng tiện thông tin đại
chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan khác.
3.3.4- Nguyên tắc trung gian mua bán.
Trên TTCK, các giao dịch đợc thực hiện thông qua tổ chức môi giới để đảm
bảo các loại chứng khoán đợc giao dịch là chứng khoán thực tế và hợp pháp, tránh
sự giả mạo, lừa đảo trong giao dịch. Các công ty chứng khoán, bằng việc thực hiện
các nghiệp vụ của mình đảm nhận vai trò trung gian cho cung và cầu chứng khoán
gặp nhau. Trên thị trờng sơ cấp, các nhà đầu t thờng không mua trực tiếp của
các nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trờng thứ cấp,
thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh các công ty chứng khoán mua chứng
khoán giúp các nhà đầu t hoặc mua chứng khoán của nhà đầu t này để mua và
bán cho các nhà đầu t khác.
14
IV-/ Các tổ chức và cá nhân tham gia vào TTCK.
Các tổ chức và cá nhân tham gia vào TTCK đợc chia thành ba nhóm sau: Nhà
phát hành, nhà đầu t và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
4.1-/ Nhà phát hành.
Nhà phát hành là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động vốn thông qua
TTCK. Nhà phát hành là ngời cung cấp các chứng khoán- hàng hoá của TTCK.
Thông thờng nhà phát hành bao gồm:
-Chính phủ và chính quyền địa phơng là nhà phát hành các trái phiếu Chính
phủ và trái phiếu địa phơng.
-Doanh nghiệp là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp.
-Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính nh các trái

phiếu, chứng chỉ thụ hởng phục vụ cho hoạt động của họ.
4.2-/ Nhà đầu t.
Nhà đầu t là những ngời bỏ tiền đầu t vào chứng khoán nhằm mục đích thu lời.
Nhà đầu t có thể chia thành hai loại: Nhà đầu t cá nhân và nhà đầu t chuyên nghiệp.
4.2.1- Các nhà đầu t cá nhân.
Nhà đầu t cá nhân là những cá nhân tham gia mua bán trên TTCK với mục
đích tìm kiếm lợi nhuận.
Các nhà đầu t cá nhân là những ngời có vốn nhàn rỗi tạm thời muốn đầu t
để kiếm lời. Khi nền kinh tế còn yếu kém thì các nhà đầu t cá nhân thờng đa
vốn của mình vào đầu cơ bất động sản hoặc cất trữ những tài sản an toàn, ít mất giá.
Khi nền kinh tế phát triển và đạt đợc tốc độ tăng trởng kinh tế tốt thì các nhà đầu
t cá nhân lại lựa chọn TTCK để đầu t, vì TTCK phản ánh sự tăng trởng kinh tế,
do các nhà đầu t có thể thu đợc các khoản lời từ sự tăng trởng kinh tế thông qua
việc đầu t vào TTCK.
Các nhà đầu t cá nhân khi đầu t vào TTCK đều có mục đích tìm kiếm lợi
nhuận. Tuy nhiên, trong đầu t thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng
cao thì rủi ro càng lớn và ngợc lại. Chính vì vậy các nhà đầu t cá nhân luôn phải
lựa chọn các hình thức đầu t cho phù hợp với khả năng của mình.
15
4.2.2- Nhà đầu t chuyên nghiệp.
Nhà đầu t chuyên nghiệp hay còn gọi là các tổ chức đầu t là các tổ chức
thờng xuyên mua bán chứng khoán với số lợng lớn trên thị trờng. Các tổ chức
này thờng có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để
nghiên cứu và đa ra quyết định đầu t. Nhìn chung có một số nhà đầu t chuyên
nghiệp chính trên TTCK nh sau:
-Các quỹ tín thác đầu t.
-Các công ty bảo hiểm.
-Các quỹ lơng hu, và các quỹ bảo hiểm xã hội khác.
-Công ty tài chính.
4.3-/ Các tổ chức kinh doanh trên TTCK.

4.3.1- Công ty chứng khoán.
Là các công ty hoạt động trong ngành công nghiệp chứng khoán với các
nghiệp vụ chính là bảo lãnh và phát hành môi giới chứng khoán và kinh doanh.
Không phải công ty chứng khoán nào cũng đợc thực hiện cả ba nghiệp vụ nh
trên. Để có thể đợc thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm
bảo đợc một số vốn nhất định và phải đợc phép của cơ quan có thẩm quyền.
4.3.2- Các ngân hàng thơng mại.
Hoạt động của các ngân hàng thơng mại trong lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán là tuỳ theo điều kiện và luật pháp của mỗi nợc quy định. Trên thế giới có
hai kiểu mẫu của vấn đề này.
Kiểu mẫu thứ nhất là Ngân hàng Vạn năng nh ở Hà Lan, Đức, Thụy Sỹ.
Theo kiểu mẫu này không có sự tách biệt giữa công nghiệp ngân hàng và công
nghiệp chứng khoán. Trong một hệ thống ngân hàng vạn năng, các ngân hàng
thơng mại hoạt động cung cấp một loạt đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, chứng
khoán và bảo hiểm.
Kiểu mẫu thứ hai là có một sự tách biệt pháp lý giữa công nghiệp ngân hàng và
công nghiệp chứng khoán mà điển hình là ở Mỹ và Nhật. Tuy nhiên, trong những
16
năm gần đây xu hớng ở các nớc này là nới lỏng hàng rào tách biệt bằng cách cho
phép các ngân hàng thơng mại đợc phép hoạt động kinh doanh chứng khoán
thông qua việc thành lập các công ty con chuyên hoạt động trong lĩnh vực này với
tài sản riêng và hạch toán riêng, và ngợc lại các công ty chứng khoán cũng đợc
hoạt động kinh doanh ngân hàng theo cách trên. Đây là xu hớng khá phổ biến hiện
nay ở nhiều nớc đang phát triển. ở Việt Nam, cũng sẽ thực hiện theo hớng này
chỉ đợc đầu t vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định để bảo vệ ngân
hàng khỏi sự thay đổi giá chứng khoán. Ngân hàng cúng có thể đợc thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
4.3.3- Công ty t vấn đầu t chứng khoán.
Là công ty có chức năng t vấn, giúp đỡ các nhà đầu t trong việc ra quyết
định đầu t và thực hiện các quyết định đầu t đó. Công ty t vấn đầu t cũng có

thể đa ra các lời khuyên về các hoạt động nghiệp vụ đối với các công ty chứng
khoán và các tổ chức tài chính khác. Tại nhiều nớc, công ty chứng khoán cũng có
thể đảm nhận luôn chức năng t vấn chứng khoán.
4.3.4- Công ty quản lý quỹ đầu t chứng khoán.
Là công ty đứng ra quản lý tài sản của các quỹ tín thác đầu t, công ty này dựa
trên đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ tiến hành phân tích về TTCK để
đa ra các quyết định đầu t hợp lý nhằm làm sinh lời tài sản của các quỹ đầu t.
4.4-/ Các tổ chức có liên quan đến TTCK.
4.4.1- Cơ quan quản lý Nhà nớc đối với TTCK.
Sự quản lý của Nhà nớc đối với TTCK là nhân tố rất quan trọng để đảm bảo
cho thị trờng hoạt động trật tự, công bằng, đúng luật pháp. Tuy nhiên, mô hình về
cơ quan quản lý Nhà nớc đối với TTCK ở các nớc đều có những điểm khác nhau.
Nhìn nhận khái quát có thể thấy có hai loại mô hình về cơ quan quản lý Nhà nớc
đối với TTCK: Một số nớc giao trách nhiệm chủ yếu quản lý về mặt Nhà nớc đối
với TTCK cho một Bộ của Chính phủ nh ở Nhật Bản, Hàn Quốc.v.v trách nhiệm
này đợc giao cho Bộ Tài chính; một số nớc thành lập cơ quan độc lập trực thuộc
Chính phủ nh ở Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và giao dịch.
4.4.2- Sở giao dịch chứng khoán.
17
Sở giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch có tổ chức để giao dịch các
chứng khoán đợc niêm yết. Sở giao dịch thực hiện vận hành thị trờng thông qua
bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên thị
trờng sở giao dịch. Ngoài ra, sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều
chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán ở sở, phù hợp với các quy định luật
pháp về chứng khoán và giao dịch chứng khoán.
4.4.3- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công chứng
khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành công nghiệp chứng khoán
đợc thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và
cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán

thờng là một tổ chức tự điều hành.
4.4.4- Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán.
Là tổ chức nhận lu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh
toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
4.4.5- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán.
Là tổ chức phụ trợ, phục vụ cho các giao dịch chứng khoán. Công ty này cung
cấp hệ thống máy tính với các chơng trình để thông qua đó có thể thực hiện đợc
các lệnh giao dịch một cách chính xác, nhanh chóng. Thông thờng, công ty dịch
vụ máy tính chứng khoán ra đời khi TTCK đã phát triển đến một trình độ nhất định,
bắt đầu đi vào tự động hoá các giao dịch.
4.4.6- Các tổ chức ty tài trợ chứng khoán.
Là các tổ chức đợc thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng
trởng của TTCK thông qua các hoạt động cho vay bảo lãnh, cho vay để mua cổ
phiếu, cho vay chứng khoán cho các giao dịch chênh lệch (giao dịch margin) Các
tổ chức tài trợ chứng khoán ở các nớc khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một
số nớc không có loại hình tổ chức này.
4.4.7- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
Là công ty chuyên thực hiện công việc đánh giá về tình hình và triển vọng hoạt
động của các doanh nghiệp dới dạng các hệ số tín nhiệm. Các nhà đầu t có thể
18
dùa vµo c¸c hÖ sè tÝn nhiÖm do c¸c c«ng ty ®¸nh gi¸ hÖ sè tÝn nhiÖm cung cÊp ®Ó
c©n nh¾c ®a ra quyÕt ®Þnh ®Çu t cña m×nh.
19
Chơng II
Quá trình chuẩn bị cho việc hình thành và phát triển thị
trờng chứng khoán ở Việt Nam.
I-/ Sự cần thiết phải xây dựng TTCK hoàn chỉnh ở Việt Nam.
1-/ Vấn đề tạo lập vốn trong nền kinh té.
Sẽ không có nền kinh tế tăng trởng cao, thất nghiệp ở mức thấp nếu nhu cầu
về vốn của các doanh nghiệp không đợc đáp ứng một cách đầy đủ. Hiện nay nền

kinh tế Việt Nam đang đứng trớc một thực trạng éo le- các doanh nghiệp đói
vốn trầm trọng, không có vốn cho những dự án có quy mô lớn, không có vốn để
mở rộng sản xuất, ngợc lại Ngân hàng lại dùng vốn không cho vay đợc để mua
trái phiếu của Chính phủ, tiền tiết kiệm còn tồn rất nhiều trong dân c.v.v
Sở dĩ có những mâu thuẫn nh vậy là do:
Thứ nhất là tăng đáp ứng về vốn của các công cụ tài chính tiền tệ hiện có bị
hạn chế.
Thứ hai là thủ tục cho vay vốn của các Ngân hàng đối với các doanh nghiệp
còn rờm rà gây nhiều trở ngại cho ngời đi vay. Đơn cử một ví dụ: doanh nghiệp
cha có cơ sở sản xuất riêng phải đi thuê địa điểm, khi muốn vay vốn của Ngân
hàng thì Ngân hàng lại yêu cầu phải có tài sản thế chấp, nh vậy vô hình chung đã
đẩy doanh nghiệp đến chỗ tiến thoái lỡng nan, không vay thì không có vốn để
sản xuất, vay thì không có gì để thế chấp để yêu cầu Ngân hàng cung cấp vốn.
Thứ ba là tâm lý thích giữ tiền mặt, lãi suất của Ngân hàng không hấp dẫn để
ngời dân gửi tiền đã khiến cho việc huy động vốn trong dân gặp nhiều trở ngại,
khó khăn.
Thứ t quan trọng hơn và cũng là vấn đề then chốt đó là: nguồn vốn mà doanh
nghiệp cần để sản xuất, để đầu t cho các dự án .v.v thờng là nguồn vốn trung và
dài hạn, trong khi đó vốn mà các Ngân hàng thơng mại huy động phần lớn là
nguồn vốn ngắn hạn, vì vậy việc đầu t dài hạn cho các doanh nghiệp bị hạn chế,
thờng thì Ngân hàng thơng mại chỉ đáp ứng đợc một phần rất nhỏ nhu cầu vốn
của doanh nghiệp.
20
Để giải quyết tình trạng đói vốn của mình, các doanh nghiệp cũng đã áp
dụng rất nhiều hình thức huy động vốn khác ngoài việc vay ở các Ngân hàng
thơng mại nh: phát hành trái phiếu công ty hoặc phân chia quyền sở hữu doanh
nghiệp bằng cách phát hành thêm cổ phiếu.
Từ năm 1990, cùng với sự ra đời của luật công ty là sự xuất hiện một số loại
trái phiếu với số lợng không lớn mà chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, còn trái phiếu
của ngân hàng và các công ty cổ phần cũng có khiêm tốn về số lợng. Sự việc xảy

ra tơng tự đối với các doanh nghiệp nhà nớc, chỉ tính riêng hai doanh nghiệp
ngành xi măng số trái phiếu phát hành mới ở mức 330 tỷ- một con số khiêm tốn so
với nhu cầu hàng nghìn tỷ của doanh nghiệp. Theo thống kê mới nhất, việc huy
động vốn thông qua phát hành trái phiếu chỉ chiếm 5%GDP của cả nớc. Nh vậy,
các doanh nghiệp Việt Nam vẫn bị đặt trớc tình trạng làm thế nào để có vốn, để
mở rộng sản xuất một cách có hiệu quả?
Câu hỏi dờng nh có giải đáp khi ta xem xét việc tạo vốn từ cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc (DNNN). Tuy nhiên không hẳn là nh vậy, bởi vì chúng ta
đã tiến hành cổ phần hoá một cách cỡng ép, không tạo đợc động cơ khuyến khích
DNNN cổ phần hoá cũng nh thiếu kiên quyết với một số doanh nghiệp, dẫn đến rất
ít DNNN đợc cổ phần hoá, các loại trái phiếu phát hành cho đến nay ở Việt Nam
có tổng giá trị chiếm khoảng 1%GDP, tập trung vào 10 công ty cổ phần và 10
DNNN đã cổ phần hoá.
Tóm lại, từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng đã đến lúc cần phải có một
thị trờng vốn hoàn chỉnh, hoạt động một cách có hiệu quả nhằm thực hiện chức
năng làm cầu nối, chuyển vốn từ những ngời có nhu cầu cho vay sang những ngời
có nhu cầu vay. Có nh vậy các doanh nghiệp sản xuất mới thoát khỏi sự lệ thuộc
về vốn vào hệ thống Ngân hàng thơng mại- hoạt động còn yếu kém, thủ tục hành
chính còn rờm rà, khơi đợc nguồn tiền tiết kiệm còn tiềm tàng với quy mô lớn
trong dân, làm cho các doanh nghiệp linh động hơn về vốn, dân c có khả năng
quyết định việc cho vay hay đầu t của mình để thu đợc nhiều lợi nhuận nhất- đây
chính là yếu tố thúc đẩy sự tăng trởng của nền kinh tế, làm cho các hoạt động của
nền kinh tế trở nên sôi động, kích thích các nhân tố trong nền kinh tế tham gia một
cách tích cực.
2-/ TTCK- một hình thức kinh tế hiện đại.
21
Hiện nay, hầu hết nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đều vận hành theo
cơ chế thị trờng- trong lịch sử phát triển, kinh tế thị trờng đã chứng tỏ tính u việt
hơn của nó so với kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Ưu
việt rõ hơn ở chỗ nào, mỗi chúng ta đều đã thấy rõ. TTCK ra đời trong nền kinh tế

thị trờng, chỉ có trong nền kinh tế thị trờng hình thức TTCK mới xuất hiện và
đơng nhiên TTCK đợc coi là hình thức hiện đại.
Tính hiện đại ở đây còn đợc thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, giống Ngân hàng, nó huy động vốn nhàn rỗi và cung cấp vốn đó
cho ngời có nhu cầu vốn số lợng lớn, nhng u việt hơn Ngân hàng ở chỗ đây là
kênh chuyển vốn trực tiếp, nghĩa là vốn đợc đa trực tiếp từ nhà đầu t tới nơi có
nhu cầu vay vốn mà không phải thông qua một hình thức tài chính trung gian nào
cả. Nh vậy có nghĩa là: ngời đầu t biết chắc tiền của mình giao cho ai, có nên
đầu t vào hay không, đầu t vào bao nhiêu và đợc hởng lãi bao nhiêu. Ngời vay
vốn thì biết đối tợng mình định vay là ai, có thể vay thêm hoặc không muốn vay
thì chỉ cần phát hành thêm chứng khoán hoặc mua lại chứng khoán mà không phải
qua Ngân hàng với thủ tục rờm rà, phải có vật cầm cố hoặc thế chấp.
Thứ hai, cho đến nay, các TTCK đều đợc điện tử hoá, còn rất ít hình thức
giao dịch thủ công, nh vậy máy móc thiết bị để trang bị cho TTCK đều rất hiện đại
để thông tin kịp thời, nhanh chóng, chính xác.
Thứ ba, con ngời tham gia vào TTCK đều là những phần tử nhanh nhạy, hiểu
biết, có kiến thức sâu rộng, quyết đoán nhanh, tác phong công nghiệp- đây là những
đức tính yêu cầu nhân loại hiện đại cần phải có nếu không muốn tụt hậu lại phía sau
sự phát triển của lịch sử.
Thứ t, trên TTCK, hàng hoá để mua bán không phải là hàng hoá thông
thờng có giá trị và giá trị sử dụng mà là loại hàng hoá đặc biệt chỉ có giá trị mà
không có giá trị sử dụng. Những loại hàng hoá đó là những giấy tờ xác định một
khoản tiền mà ngời sở hữu nó sẽ đợc trong tơng lai- chúng cũng đợc coi là
phơng tiện để thanh toán. Nh vậy trên TTCK ngời ta mua bán phơng tiện để
thanh toán có giá cả và cũng có cả sự thuận mua vừa bán, không có độc quyền-
một hình thức thị trờng cạnh tranh hoàn hảo.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy rõ tính thời đại của TTCK nó sẽ trở
thành công cụ đắc lực giúp quốc gia nào biết sử dụng nó hợp lý để phát triển kinh
tế. Tất nhiên nh vậy không có nghĩa là chỉ có những quốc gia biết sử dụng mới nên
22

có TTCK bởi tất cả các quốc gia muốn có một nền kinh tế hiện đại, ổn định, tăng
trởng, phát triển bền vững đều cần phải có TTCK- với t cách là một hình thức
kinh tế hiện đại và phải biết cách để có một TTCK hoạt động hữu hiệu.
Bớc ra từ hàng nghìn cuộc chiến tranh giành độc lập đầy máu và nớc mắt,
đất nớc Việt Nam nh là một cơ thể ốm yếu đầy thơng tích, nghèo đói với một
nền kinh tế còn mang nặng tính tự cung tự cấp phát triển què quặt. Trong khi đó thế
giới đã chứng kiến những thành tựu rực rỡ về khoa học kỹ thuật và có những tiến bộ
vợt bậc về kinh tế, chủ nghĩa t bản với những cái vòi bạch tuộc của nó vơn ra
chiếm lĩnh thị trờng mọi ngóc nghách trên thế giới làm cho nền kinh tế toàn cầu
trở nên sôi động, xuất hiẹn sự gắn kết giữa những nền kinh tế quốc gia nhỏ để tạo
nên nền kinh tế quốc tế với những hình thức kinh tế tiên tiến hiện đại. Với xu hớng
nh vậy, nền kinh tế Việt Nam- một bộ phận của nền kinh tế thế giới phải thay đổi,
phải nỗ lực khắc phục khó khăn do chiến tranh để lại, áp dụng những cái sẵn có để
phát triển, để bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại.
Chúng ta đã phát triển sau các nớc t bản, mà lại gặp nhiều khó khăn, chính
vì vậy chúng ta cần rút ngắn thời gian phát triển kinh tế bằng cách tạo ra các điều
kiện cho phép vận dụng sớm những hình thức kinh tế hiện đại, có nh vậy khả năng
bắt kịp nhịp độ phát triển kinh tế thế giới mới có cơ hội xảy ra. Đây không phải là
nhận định máy móc, lý thuyết, mà nó đã đợc chứng minh bằng thực tiễn hơn 10
năm đổi mới tính từ năm 1986, chúng ta đã áp dụng cơ chế thị trờng vào nền kinh
tế, sử dụng ngay từ đầu các công cụ tài chính tiền tệ nh là đòn bẩy và xung lực chủ
yếu để đa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng khắc phục đợc siêu lạm phát, nền
kinh tế có sự tăng trởng đáng kể cao nhất là 9-10%. Chúng ta đã thoát khỏi những
năm kinh tế kế hoạch hoá, có một nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị
trờng, nh vậy việc xây dựng và phát triển TTCK là một tất yếu phù hợp với xu thế
thời đại để chúng ta có những điều kiện thuận lợi hơn, rút ngắn khoảng cách giữa
tốc độ phát triển của kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới.
Kết luận: Việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam trở thành một
nhiệm vụ cấp bách và có tầm quan trọng lớn lao và đã đợc cụ thể hoá trong nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 Đảng Cộng Sản Việt Nam: Chuẩn bị

các điều kiện cần thiết để từng bớc xây dựng TTCK phù hợp với điều kiện Việt
Nam và định hớng phát triển kinh tế- xã hội của đất nớc. Nh vậy, việc chuẩn bị
những điều kiện cần và đủ để sớm cho ra đời TTCK là vấn đề có tầm chiến lợc
23
trong công cuộc cải cách kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nớc
theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
II-/ Những thuận lợi và kết quả bớc đầu đạt đợc trong nỗ
lực nhằm xây dựng, duy trì và phát triển TTCK ở Việt Nam.
2.1-/ Thuận lợi.
2.1.1- Kinh tế.
TTCK là con đẻ của nền kinh tế hàng hoá mà ở mức độ cao là nền kinh tế thị
trờng, nó ra đời nhằm giải quyết mâu thuẫn về vốn trong nền kinh tế, nhằm đáp
ứng nhu cầu về vốn mở rộng sản xuất hàng hoá của các doanh nghiệp. Nh vậy
không thể tồn tại một TTCK trong nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung- mà ở đó quy mô sản xuất đợc ấn định một cách chủ quan, các
quy luật kinh tế bị triệt tiêu, sản xuất không vì mục đích lợi nhuận. Từ đây, ta có thể
thấy rõ thuận lợi đầu tiên của Việt Nam khi xây dựng TTCK là chúng ta đang có
một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng- mặc dù có ý kiến cho rằng đây là
một điều đơng nhiên thôi, không nên coi đó là thuận lợi, nhng phải khẳng định
rằng không có nó thì không có tất cả những thuận lợi kế tiếp.
Hiến pháp 1992 xác định chế độ kinh tế của Nhà nớc Việt Nam Nhà nớc
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng có sự quản
lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
với các hình thức tổ chức đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể
và sở hữu t nhân. Từ chiến lợc này- bắt đầu từ năm 1986- nền kinh tế Việt Nam
bớc sang một giai đoạn phát triển mới, từ chỗ sản xuất không đủ lơng thực để đáp
ứng nhu cầu trong nớc,Việt Nam đã trở thành nớc đứng thứ hai trên thế giới về
xuất khẩu gạo, tăng trởng kinh tế đạt bình quân 8-9% trong nhiều năm vừa qua, đã
có thời gian Việt Nam đợc xếp vào một trong số những quốc gia đứng đầu khu vực
Đông Nam á về tăng trởng kinh tế. Yếu tố tăng trởng kinh tế cao và liên tục đã

kích thích sự tăng lên về nhu cầu vốn đầu t, nhất là đầu t dài hạn.
Bên cạnh đó, cùng với những chính sách hợp lý, chúng ta đã đẩy lùi đợc lạm
phát, đa lạm phát từ mức ba con số xuống một con số, lạm phát đợc kiểm soát
chặt chẽ.
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
24
Tỷ lệ lạm phát
14,4%
17,5%
5,2%
14,4%
12,7%
4,5%
Những tháng đầu năm 1997 tỷ lệ lạm phát là 1,4% đợc dự đoán là 2% cho
cả năm. Việc giữ lạm phát ở mức cho phép làm giá trị đồng tiền nội tệ, tỷ giá hối
đoái đợc ổn định, cán cân thanh toán đợc kiểm soát chặt chẽ. Đây là những yếu
tố làm yên lòng các nhà đầu t khi muốn đầu t vào những mục đích sinh lời khác
nhau trong đó có các chứng khoán mua bán trên thị trờng. Không những thế, cộng
thêm yếu tố về chính trị, kinh tế, một nguồn tài nguyên thiên nhiên cha đợc thăm
dò khai thác, chúng ta sẽ khuyến khích đợc đầu t nớc ngoài trực tiếp (FDI) và
tiến tới khai thác theo hớng đầu t gián tiếp qua TTCK (FPI- Foreign Portfolio
Investment) từ đó sẽ thúc đẩy việc mở rộng TTCK Việt Nam trong tơng lai thị
trờng quốc tế.
Tuy nhiên, nói nh trên không có nghĩa là ngay lập tức nay mai chúng ta đã có

thể có một TTCK nh mong muốn, không phải thấy cần là sẽ có, mà việc có xây
dựng đợc TTCK hay không phụ thuộc vào việc sản xuất có đủ chủng loại và chất
lợng hàng hoá để mua bán trên thị trờng này hay không. Câu trả lời phụ thuộc
vào các định chế tài chính quốc gia, đó là: các doanh nghiệp quốc doanh, thuộc khu
vực kinh tế nhà nớc, các doanh nghiệp t nhân, doanh nghiệp hợp doanh và công
ty cổ phần thuộc khu vực kinh tế t nhân, hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ,
thơng mại, dịch vụ, tài chính tín dụng và Ngân hàng.Dựa trên chính sách phát triển
kinh tế trong những năm gần đây, các định chế tài chính này đã đợc hình thành và
phát triển thuận lợi cho hoạt động của TTCK. Đây là những chủ thể kinh tế tạo ra
chứng khoán- hàng hoá của TTCK, họ quyết định số lợng và chất lợng của những
hàng hoá đó dựa trên nhu cầu về vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ.
Chủ thể kinh tế đầu tiên đợc đề cập đến là công ty cổ phần- động lực chính
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế- xã hội- họ dùng công cụ cổ phiếu để huy động
vốn trên thị trờng. Cổ phiếu đợc coi là thứ hàng hoá đặc sản của TTCK do có
đặc điểm là lợi tức và rủi ro rất lớn, cổ phiếu làm TTCK trở nên sôi động. Không có
công ty cổ phần, không có cổ phiếu TTCK mất hẳn tính hấp dẫn- do sự sôi động do
mua bán cổ phiếu tạo nên. Từ năm 1992, nhà nớc đã có chủ trơng cổ phần hoá
những doanh nghiệp nhà nớc làm ăn kém hiệu quả, điều này đã tạo ra khả năng
huy động vốn còn tồn đọng trong nền kinh tế, vừa hình thành nên nền tảng cho sự
ra đời của TTCK đó là sự xuất hiện của các cổ phiếu và việc mua bán nó giữa doanh
nghiệp và các nhà đầu t. Bên cạnh việc phát hành cổ phiếu, công ty cổ phần cùng
25
với các doanh nghiệp nhà nớc, doanh nghiệp hợp doanh, doanh nghiệp t nhân đã
tiến hành phát hành trái phiếu- loại hàng hoá cũng có tầm quan trọng và đợc mua
bán rộng rãi trên TTCK. Cho đến nay, chúng ta đã và đang có một TTCK sơ khai với
các loại hàng hoá nh: công trái chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái
phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp nhà nớc, trái phiếu ngân hàng, trái phiếu
và cổ phiếu công ty. Những chứng khoán này chủ yếu đợc mua bán trên thị trờng
cấp 1 hay thị trờng sơ cấp, tức là chúng đợc mua bán, tiêu thu lần đầu tiên sau khi
phát hành giữa ngời phát hành và nhà đầu t. Nói nh vậy không có nghĩa là chúng

ta không có thị trờng thứ cấp, có nhng nó cha đi vào hoạt động một cách chính
thức công khai, đơn cử một ví dụ: trong đợt phát hành công trái thời hạn 5 năm vừa
qua của Chính phủ đã xuất hiện những tổ chức hoặc cá nhân thu mua công trái trong
dân và bán cho ngân hàng với mệnh giá thấp hơn - đây chính là những biểu hiện
manh nha của việc xuất hiện thị trờng cấp hai (thứ cấp ) ở Việt Nam.
Chủ thể kinh tế có vai trò không kém phần quan trọng so với công ty cổ phần
là hệ thống ngân hàng. Nh chúng ta đều biết, không có những ngân hàng- những
trung gian tài chính- thị trờng tài chính không có đợc lợi ích trọn vẹn. Lý do là:
nếu không có ngân hàng- ngời thu gom những nguồn tiền tiết kiệm ít ỏi, và đáp
ứng nhu cầu vay khiêm tốn, trong một thế giới chỉ có tài chính trực tiếp, những
ngời đi vay và cho vay những khoản nhỏ đó không thể đợc thoả mãn do chi phí
mà họ phải trả cho những dịch vụ đó là quá cao.
Trong quá trình cải cách ở Việt Nam, một loạt các Ngân hàng thơng mại, các
tổ chức tài chính, tín dụng, cơ quan bảo hiểm và một số quỹ đã ra đời nh: hệ thống
ngân hàng cổ phần (có 52 ngân hàng cổ phần trong đó có 31 ngân hàng thành thị và
21 ngân hàng nông thôn) hợp tác xã tín dụng, hệ thống ngân hàng thơng mại quốc
doanh, ngân hàng nớc ngoài. Các ngân hàng này trong quá trình phát triển phải
cạnh tranh, kết quả là sự giảm sút về lãi suất cho vay dẫn đến kích thích việc vay
tiền. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng là một yếu tố thuận lợi thúc đẩy sự ra đời
của TTCK trên cơ sở một thị trờng vốn phát triển.
2.1.2- Hệ thống pháp luật.
Để đảm bảo cho TTCK hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả, yêu cầu
phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Sở dĩ nh vậy là do không phải bất cứ
một doanh nghiệp nào khi cần vốn đầu t là có thể phát hành chứng khoán và dùng
nó nh một công cụ để huy động vốn. Muốn phát hành chứng khoán, doanh nghiệp

×