Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Đề cương kinh tế quản lý doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.47 KB, 29 trang )

Câu 1: Đặc điểm của đầu tư phát triển.Sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác
quản lý đầu tư.
I. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển
1.1 Đầu tư và đầu tư phát triển
Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào một hoạt động nào đó
nhằm thu về, đem lại lợi ích cho chủ đầu tư trong tương lai.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn hiện tại
để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất
và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát
triển.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn
lực cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực bao gồm cả
tiền vốn, đất đai, lao động, thiết bị, tài nguyên.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ
vốn nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao động xã
hội, có hai nhóm đối tưọng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh
thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích, đối tượng đầu tư được chia thành hai
nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận…
Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất,
tài sản trí tuệ và tài sản vô hình. Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần làm
tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh
quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tê xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt
được kết quả đó. Kết quả và hiệu quả của đầu tư phát triển cần được xem xét
trên phương diện chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi
ích, phát huy vai trò chủ động sang tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra
giám sát của cơ quan quản lý nhà nước các cấp.
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc
gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Ở góc độ vĩ mô, đó là thúc đẩy tăng trưỏng kinh
tế, góp phần giảI quyết việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
xã hội. Ở góc độ vi mô, đó là tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận, nâng


cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực…
1.2, Phân loại đầu tư
Theo mục đích và tính chất của hoạt động đầu tư có thể chia đầu tư thành:
Đầu tư tài chính: người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có
giá để được hưởng lãi suất định trước như gửi tiết kiệm hay mua trái phiếu chính
phủ, tín phiếu kho bạc hoặc lãi suất tùy thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty phát hành. Đầu tư tài chính không làm gia tăng thêm tài sản cho nền
kinh tế, nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này, nó chỉ làm tăng
giá trị tài sản tài chính cho một cá nhân, tổ chức. Đầu tư tài chính thường được
thực hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, công ty
chứng khoán. Hoạt động đầu tư này là kênh huy động vốn quan trọng cho nền
kinh tế và là một trong những loại hình đầu tư lựa chọn để tối đa hoá lợi ích,
giảm thiểu rủi ro cho các chủ đầu tư.
Đầu tư thương mại :người có tiền mua hàng hóa và bán với giá cao hơn để
hưởng chênh lệch giá khi mua và khi bán. Nếu không xét đến quan hệ ngoại
thương thì loại đầu tư này không tạo ra hay làm tăng thêm tài sản cho nền kinh
tế mà chỉ làm tăng thêm tài sản tài chỉnh cho chủ đầu tư. Mặc dù vậy đầu tư
thương mại lại giúp cho quá trình lưu thông hàng hóa do đầu tư phát triển tạo ra
diễn ra một cách linh hoạt và dễ dàng hơn. Qua đó, nó lại làm cho đầu tư phát
triển, tăng tích lũy vốn cho mở rộng sản xuất kinh doanh dịch vụ của các đơn vị
cũng như cả nền kinh tế
Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư quan trọng nhất trong nền kinh tế, nó
là tiển đề, cơ sở cho các hoạt động đầu tư khác. Các hình thức đầu tư khác
không thể tồn tại và vận động nếu không có đầu tư phát triển.
Theo tiêu thức quan hệ quản lý của chủ đầu tư, đầu tư được chia thành
đầu tư gián tíêp và đầu tư trực tiếp:
Đầu tư gián tiếp :người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành
quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư:mua cổ phiếu hoặc trái phiếu trên
thị trường chứng khoán thứ cấp. Trong trường hợp này nhà đầu tư có thể được
Nhóm I

2
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
hưởng lợI ích vật chất ( như cổ tích, tiền lãi trái phiếu), lợì ích phi vật chất
(quyền biểu quyết, quyền tiên mãi) nhưng không được tham gia quản lý trực tiếp
tài sản mà mình bỏ vốn đầu tư.
Đầu tư trực tiếp: người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá
trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp bao gồm đầu tư dịch
chuyển và đầu tư phát triển. Đầu tư dịch chuyển là một hình thức đầu tư trong
đó việc bỏ vốn là nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị của tài sản. Thực chất
trong đầu tư dịch chuyển không có sự gia tăng giá trị tài sản.
Như vậy theo cách tiếp cận này, đầu tư phát triển là một hình thức đầu tư
trực tiếp. Hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản
xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống. Đây là hình thức đầu tư trực tiếp
tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình
thức đầu tư này đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của
nền kinh tế tại mỗi quốc gia.
2. Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm chủ yếu sau:
Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát
triển thường rất lớn. Vốn đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của vốn nói
chung. vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi
ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và
các khoản đầu tư phát trỉển khác.
Trên phạm vi nền kinh tế, vốn đầu tư phát triển bao gồm: vốn đầu tư xây
dựng cơ bản, vốn lưu động bổ sung và vốn đầu tư phát triển khác.Trong đó, vốn
đầu tư xây dựng cơ bản là quan trọng nhất. Đó là những chi phí bằng tiền để xây
dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hay là khôi phục năng lực sản xuất của tài sản
cố định trong nền kinh tế. Quy mô các dự án đầu tư có lớn hay không thể hiện ở
nguồn vốn đầu tư.
Mặt khác, các dự án đầu tư cũng cần một số lượng lao động rất lớn, đặc

biệt là các dự án trọng điểm quốc gia.
Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư được tính từ khi khởi công thực
Nhóm I
3
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
hiện dự án cho đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Do quy mô các
dự án đầu tư thường rất lớn nên thời gian hoàn thành các dự án thường tốn rất
nhiều thời gian, có khi tới hàng chục năm như các công trình thuỷ điện, xây
dựng cầu đường
Thời gian thực hiện các dự án đầu tư dài kéo theo sự ảnh hưởng đến tiến độ
nghiệm thu công trình và đưa vào sử dụng, do đó có thể làm giảm hiệu quả đầu
tư, thời gian thu hồi vốn chậm.Thời gian đầu tư càng dài thì rủi ro cũng như chi
phí đầu tư lại càng lớn, hơn nữa, nó còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu
tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn
và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản
lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch vốn đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng
vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhằm hạn chế thấp nhất những mặt tiêu cực có thể
xảy ra trong thời kỳ đầu tư.
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các
kết quả đầu tư được tính từ khi đưa vào hoạt động cho đến khi hết hạn sử dụng
và đào thải công trình.Các thành quả của hoạt động đầu tư có thể kéo dài hàng
chục năm hoặc lâu hơn thế như Vạn lý trường thành ở Trung Quốc, nhà thờ và
đấu trường La Mã ở Italia trong quá trình vận hành các kết quả của đầu tư phát
triển chịu tác động cả hai mặt, tích cực và tiêu cực của nhiêù yếu tố tự nhiên,
chính trị, kinh tế, xã hội Do đó, yêu cầu đặt ra đối với công tác đầu tư là rất
lớn, nhất là về công tác dự báo về cung cầu thị trường sản phẩm đầu tư trong
tương lai, quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa thành quả đầu tư đưa
vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao
mòn vô hình, chú ý đến cả độ trễ thời gian trong đầu tư. Đây là đặc điểm có ảnh

hưởng rất lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư.
Đặc điểm thứ tư là các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà
là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ngay tại nơi nó được
tạo dựng nên, do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của
các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. Các điều kiện tự nhiên của vùng
Nhóm I
4
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
như khí hậu, đất đai có tác động rất lớn trong việc thi công, khai thác và vận
hành các kết quả đầu tư. Đối với các công trình xây dựng, điều kiện về địa chất
ảnh hưởng rất lớn không chỉ trong thi công mà cả trong giai đoạn đưa công trình
vào sử dụng, nếu nó không ổn định sẽ làm giảm tuổi thọ cũng như chất lượng
công trình. Tình hình phát triển kinh tế của vùng ảnh hưởng trực tiếp tới việc ra
quyết định và quy mô vốn đầu tư. Ngoài ra môi trường xã hội cũng ảnh hưởng
rất lớn đến việc thực hiện các dự án đầu tư như phong tục tập quán, trình độ văn
hóa
Một đặc điểm dễ nhận thấy là hoạt động đầu tư phát triển có độ rủi ro
cao. Mọi kết quả và hiệu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu nhiều ảnh
hưởng của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không
gian. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành
các kết quả đầu tư cũng kéo dài nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát
triển thường rất cao, nhiều vấn đề phát sinh ngoài dự kiến buộc các nhà quản lý
và chủ đầu tư cần phải có khả năng nhận diện rủi ro cũng như biện pháp khắc
phục kịp thời. Để quản lý hoạt động đầu tư có hiệu quả trươc hết cần nhận diện
rủi ro. Có rất nhiều rủi ro trong hoạt động đầu tư,các rủi ro về thời tiết ví dụ như
trong quá trình đâu tư gặp phải mưa bão, lũ lụt làm cho các hoạt động thi công
công trình đều phải dừng lại ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ và hiệu quả đầu tư.
Các rủi ro về thị trường như giá cả, cung cầu các yếu tố đầu vào và sản phẩm
đầu ra thay đổi, ví dụ như do thông tin trong sữa Trung Quốc có chất gây bệnh
sỏi thận mà cầu về sữa giảm sút nghiêm trọng, hoạt động đầu tư mở rộng cơ sở

sản xuất chế biến sữa của một số doanh nghiệp vì thế cũng bị ngưng trệ Ngoài
ra quá trình đầu tư còn thể gặp rủi ro do điều kiện chính trị xã hội không ổn
định. Khi đã nhận diện được các rủi ro nhà đầu tư cần xây dựng các biện pháp
phòng chống rủi ro phù hợp với từng loại rủi ro nhằm hạn chế thấp nhất tác
động tiêu cực của nó đến hoạt động đầu tư.
Nhóm I
5
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
II. Sự ảnh hưởng của các đặc điểm đầu tư phát triển đến công tác đầu tư.
1.Trong công tác quản lý vĩ mô và vi mô
1.1 Cấp vĩ mô
Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật về đầu tư một cách chặt chẽ
và có hệ thống cũng như các văn bản liên quan như luật đất đai, luật đấu
thầu Các văn bản này có tác dụng khuyến khích đầu tư, hướng các hoạt động
đầu tư theo định hưóng của Nhà nước, khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân
tham gia vào các lĩnh vực đầu tư phát triển.
Nhà nước cần có các chính sách để huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư
phát triển. Các nguồn vốn có thể huy động được bao gồm nguồn vốn ngân sách,
vốn từ dân cư, vốn ODA, FDI, vốn vay thương mại quốc tế. Nhà nước cần có
các quy định chặt chẽ về phân bổ vốn đầu tư hợp lý theo tiến độ, đầu tư chiều
sâu để mang lại hiệu quả cao nhất.
Mặt khác, nhà nước cũng cần có các quy định về quy hoạch, tránh tình
trạng quy hoạch treo gây thất thoát lãng phí nguồn tài nguyên. Cùng với đó là
đào tạo nguồn nhân lực một cách hiệu quả, đáp ứng kịp thời nhu cầu về nguồn
lực con người trong hoạt động đâu tư.
Ngoài ra, Hệ thống cơ quan chuyên trách về quản lý dự án đầu tư và cán bộ
có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu thực tế cũng cần được nhà nước
chú trọng xây dựng.
1.2 Ở cấp vi mô
Khi nhà nước đã có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà

đầu tư thì các nhà đầu tư cũng cần có các biện pháp để quản lý hoạt động đầu tư
ở tầm vi mô một cách có hiệu quả.
Trước khi tiến hành các hoạt động đầu tư, chủ đầu tư cần nghiên cứu kỹ
các điều kiện về môi trường tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội ở địa
phương. Nó giúp cho chủ đầu tư có thể khai thác tối đa lợi thế vùng và nâng cao
hiệu quả vốn đầu tư.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược đầu tư rõ ràng, khoa
học để hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể gặp phải. Cần rõ ràng trong
Nhóm I
6
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
chuẩn bị về vốn đầu tư, tiến trình đầu tư Một điều cũng rất quan trọng đó là cần
xác định chính xác sự thay đổi của cung cầu trên thị trường về đầu vào và đẩu ra
của dự án, đưa ra được dự báo chính xác trong tương lai để có các biện pháp
điều chỉnh kịp thời.
2. Trong công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư
2.1Công tác chuẩn bị đầu tư
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai
đoạn sau, đặc biệt là với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Ở giai đoạn này, vấn
đề chất lượng, chính xác kết của kết quả nghiên cứu. Tổng chi phí giai đoạn
chuẩn bị chiếm từ 0,5- 15% vốn đầu tư chảy vào dự án. Làm tốt công tác chuẩn
bị đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng tốt phần vốn còn lại, tạo cơ sở cho quá
trình hành động của dự án được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư,
nhanh chóng phát huy hết nguồn lực phục vụ dự kiến.
Quá trình chuẩn bị đầu tư gồm 4 bước: nghiên cứu cơ hội đầu tư, nghiên
cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án.
Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác chuẩn bị
đầu tư được thể hiện qua các mặt như:
- Với đặc điểm vốn, vật tư lao động cho dự án đầu tư lớn:
Thứ nhất là có giải pháp huy tạo vốn và huy động vốn hợp lý. Các chính

sách và giải pháp huy động vốn cho các dựa án đầu tư phải gắn với chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn. Trong điều kiện mà nhu cầu vốn
đầu tư rất lớn như hiện nay việc đa dạng hóa các kênh huy động vốn, hiện đại
hóa các hình thức và phương tiện huy động vốn là vô cùng cần thiết. Các nguồn
huy động vốn cho đầu tư phát triển có thể qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu,
vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước Các chính sách huy
động vốn phải được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn và biện pháp thực hiện,
phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ và lĩnh vực ưu tiên.
Thứ hai là thực hiện đầu tư có trọng tâm trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải,
gây thất thoát lãng phí nguồn lực. Với các dự án trọng điểm cần tập trung thực
hiện dứt điểm, kiên quyết cắt giảm các hạng mục công trình chưa thực sự cần
Nhóm I
7
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
thiết, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải. Đồng thời có các biện pháp bố trí vốn
theo tiến độ của dự án, kế hoạch bố trí vốn phải bám sát những định hướng, chủ
trương của chính phủ, các bộ ngành có liên quan.
Thứ ba, cần có các giải pháp về tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ lao
động một cách hợp lý, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu về nhân lực theo tiến độ
đầu tư. Hiện nay vẫn xảy ra tình trạng nhân lực cho các dự án rất dồi dào nhưng
số lượng đáp ứng được các yêu cầu của dự án lại rất thấp, phần lớn lao động
không được đào tạo bài bản, hoặc không đáp ứng được yêu cầu của dự án. Nhiều
dự án mặc dù đã chính thức đầu tư và khởi công nhưng lại không thực hiện
được đúng tiến độ do bài toán về lao động. Để tránh tình trạng trên, các dự án
khi chuẩn bị đầu tư cần phải xây dựng kế hoạch tuyển dụng , phương án đào tạo
lao động kịp thời, để việc đào tạo lao động sát với nhu cầu thực tế.
-Với đặc điểm thời kỳ đầu tư kéo dài:Yêu cầu đặt ra là cần tiến hành quản
lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, lập tiến độ thi công xây dựng cụ thể trong
từng giai đoạn, đảm bảo tiến độ ngay từ khâu giải phóng mặt bằng. Tiến độ thi
công xây dựng công trình phải phù hợp với tiến độ của dự án đã được phê duyệt.

Một trong các yếu tố làm cho thời kỳ đầu tư thực tế thường kéo dài hơn nhiều so
với dự kiến đó là tình trạng thiếu vốn. Chính vì vậy cần có các giải pháp về bố
trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công
trình, bố trí xen kẽ các công việc cần thực hiện nhằm đảm bảo đúng thời gian
hoàn thành dự án.
- Về đặc điểm đầu tư phát triển phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên kinh
tế-xã hội vùng. Trước hết cần nghiên cứu tiềm năng thế mạnh của từng vùng, địa
phương, các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển. Điều này ảnh hưởng rất
lớn đến việc ra quyết định đầu tư. Chủ đầu tư cần nghiên cứu kỹ và lựa chọn địa
điểm đầu tư phù hợp nếu không chủ đầu tư sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro về
nhiều mặt cả về tự nhiên lẫn kinh tế xã hội. Do đó, khi lựa chon địa điểm đầu tư
cần dựa trên những căn cứ khoa học, dựa vào hệ thống các chỉ tiêu về tự nhiên,
kinh tế, chính trị, xã hội nhằm khai thác tối đa lợi thế của vùng, nâng cao hiệu
quả vốn đầu tư.
Nhóm I
8
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
- Với đặc điểm đầu tư phát triển có độ rủi ro cao: Cần có biện pháp tổng thể
quản lý rủi ro bao gồm từ việc nhận diện rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro và xây
dựng biện pháp phòng và chống rủi ro, điều này rất quan trọng. Xác định đúng
nguyên nhân rủi ro là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra giải pháp phù hợp để
khắc phục. Mặt khác, việc đánh giá xếp thứ tự ưu tiên rủi ro sẽ đưa ra được biện
pháp tối ưu xử lý rủi ro, hạn chế thấp nhất được các thiệt hại có thể có do rủi ro
gây ra trong suốt vòng đời của dự án.
2.2Quá trình thực hiện đầu tư
Giai đoạn thực hiện đầu tư: Vấn đề thời gian là quan trọng hơn cả, 85-
95.5% vốn đầu tư được chia ra và huy động trong suốt những năm thực hiện đầu
tư. Đây là những năm vốn không sinh lời, thời hạn thực hiện đầu tư cũng kéo
dai, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn. Thời gian thực hiện đầu tư phụ
thuộc nhiều vào công tác chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, quản lý quá trình

việc thưc hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của
quá trình thực hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả
của quá trình thực hiện đầu tư đã được xem xét trong dự án đầu tư.
Quá trình thực hiện đầu tư gồm: hoàn tất thủ tục đầu tư, thiết kế lập tổng dự
toán, xây dựng mua sắm trang thiết bị, tuyển dụng đào tạo lao động, nghiệm thu,
thanh quyết toán, bàn giao kết quả.
Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển ở giai đoạn hai này được
thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất cần quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Do ở giai đoạn
này vốn nằm khê đọng trong thời gian dài nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư,
cần tiến hành phân kỳ hoạt động đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung
hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế
hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nhất là trong xây dựng cơ bản. Do
yếu kém trong quản lý mà nhiều chủ đầu tư đã làm thất thoát nguồn vốn, khiến
cho vốn đầu tư thực tế cao hơn rất nhiều so với dự toán ban đầu Cần có chính
sạch đào tạo nguồn nhân lực, đãi ngộ công nhân và chuyên gia. Điều này càng
đảm bảo hơn cho sự thành công của giai đoạn thực hiện đầu tư.
Nhóm I
9
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
Mặt khác, cần rút ngắn thời gian đầu tư, đảm bảo đúng tiến độ thi công
công trình. Thời gian hoàn thành dự án càng ngắn thì chi phí và rủi ro càng ít.
Hoạt động đầu tư luôn luôn gắn liền với yếu tố rủi ro, điều quan trọng là nhận
biết và khắc phục được chúng trong quá trình thực hiện đầu tư. Kéo dài thời gian
thực hiện là kéo thêm một khoản chi phí, tăng thêm những rủi ro, những bất trắc,
mất đi cơ hội cạnh tranh trên thị trường, hiệu quả đầu tư vì thế cũng giảm
sút.Bên cạnh đó cần quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguyên vật liệu, tránh lãng
phí, nâng cao hiệu suất sử dụng. Bên cạnh đó, cũng cần có sự đầu tư về mặt
công nghệ, lắp đặt các dây chuyền thiết bị hiện đại, phù hợp với trình độ quản
lý và sử dụng giúp cho chủ đầu tư nâng cao được chất lưọng sản phẩm, mặt khác

lại tiết kiệm được đáng kể chi phí về vận hành, về nhân công, nguyên vật liệu và
năng lường, góp phần nâng cao hiệu quả trong thực hiện đầu tư.
2.3Quá trình vận hành kết quả đầu tư
Giai đoạn vận hành các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư nhằm đạt
được các giai mục tiêu của dự án, nếu các két quả do giai đoạn thực hiện đầu tư
tạo ra đảm bảo tính đồng bộ, tồn tại thấp, chất lượng tốt, đúng tiến độ tại thời
điểm thích hợp, với quy mô tối ưu thì hiệu quả hoạt động của các kết quả này và
mục tiêu của dự án chỉ còn phụ thuộc trực tiếp vào quá trình tổ chức quản lý
hoạt động. Làm tốt công tác của giai đoạn chuẩn bị và thực hiện đầu tư sẽ tạo
thuận lợi cho quá trình tổ chức quản lý phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư.
Thời gian phát huy tác động của các kết quả đầu tư chính là đời của dự án nó
gắn với đời sống của sản phẩm trên thị trưòng.
Đây là giai đoạn thu hồi vốn, dự án có đạt mục tiêu hay không phụ thuộc
vào kết quả hoạt động của giai đoạn này. Giai đoạn vận hành khai thác là giai
đoạn mà hiệu quả khai thác nguồn lực được thể hiện rõ nét phụ thuộc vào năng
lực tổ chức quản lý điều hành. Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển
trong công tác vận hành kết quả đầu tư bỉểu hiện ở các mặt:
Thứ nhất, xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học nhằm có
những bước đi phù hợp trong mỗi giai đoạn cụ thể cả ở cấp vĩ mô và vi mô về
nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến khả năng cung
Nhóm I
10
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
ứng từng năm và toàn bộ vòng đời của dự án. Từ đó nắm bắt được thời cơ để tạo
ra những bứơc nhảy vọt trong đời của dự án.
Thứ hai, quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa thành quả đầu tư
vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh các
hao mòn vô hình. Đồng thời cần tuân thủ chiến lược về công suất. Vòng đời sản
phẩm của dự án càng dài thì lợi nhuận thu được càng lớn, do đó hiệu quả đầu tư
càng cao.

Ngoài ra, cần chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu
tư trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong
năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất
riêng của lĩnh vực đầu tư, ảnh hưỏng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư.
Nhóm I
11
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ TÌNH
HÌNH QUÁN TRIỆT CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG CÔNG TÁC ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
I,Thực trạng đầu tư phát triển ở Việt Nam
1,Huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Thực tiễn Việt Nam từ khi thực hiện chính sách đổi mới mở cửa ,bên cạnh
việc thoát khỏi khủng hoảng kinh tế Việt Nam còn đạt đựoc thành tích tăng
trưởng kinh tế cao liên tục(bình quân GDP hàng năm trong giai đoạn 1991_2005
đạt 7.5%có những giai đoạn cá biệt 2 năm tăng liên tục trên 9% mỗi năm). Điều
đó làm cho khả năng huy động ,khai thác và sử dụng các nguồn vốn đầu tư được
mở rộng hơn.Tốc độ gia tăng quy mô đầu tư gia tăng đáng kể trung bình tăng
hơn 20%/năm).Tỷ trọngvốn đầu tư phát triển gia tăng mạnh mẽ (năm 1991 chỉ
khoảng 17.6% GDP thì đến năm 2005 đã đạt xấp xỉ 38.7%GDP).Trong đó cả
nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài đều có sự chuyển biến về quy
mô và tốc độ tăng trưởng.
Trong nguồn vốn đầu tư của nước ta nguồn vốn trong nước chiếm 70%
tổng sổ vốn đầu tư và 30% tổng vốn đầu tư là huy động từ nước ngoài. Trong
nguồn vốn trong nứoc thì vốn tư ngân sách Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà
nước là chủ yếu,chiếm khoảng 53.7%.Trong đó vốn đầu tư từ ngân sách Nhà
nứơc chiếm khoảng 22.5%trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, vốn
tín dụng đầu tư của nhà nước chiếm tỷ 15,7%, vốn đầu tư của những doanh
nghiệp Nhà nước chiếm 17.1%.Vốn đầu tư của khu vực tư nhân và dân cư chiếm
25,3%,vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17,8%,các nguồn vốn huy động

khác chiếm khoảng 4,7%.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hôi tăng đáng kể năm 2005 số vốn đầu tư toàn xã
hội là 3.301,780 tỷ đồng; năm 2006 tổng số vốn đầu tư tòan xã hội là 4.027,166
tỷ đồng; và năm 2007 con số đó là 4.851,917 tỷ đồng(tính theo giá trị hiệ hành).
Như vậy trong vòng 3 năm 2005-2007 tổng số vốn đầu tư toàn xã hội tăng
khoảng 46,95%.
Vốn nhà nước tăng liên tục qua các năm;năm 2005 là 1.198,814 tỷ đồng,
năm 2006 là 1.244,303 tỷ đồng, năm 2007 là 1138,762 tỷ đồng. Ngân sách nhà
Nhóm I
12
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư phát triển và vốn ngân sách
nhà nước chiếm khoảng 70% vốn nhà nước.Trong ngân sách nhà nước thì nguồn
thu chủ yếu là từ thuế và phí (chiếm tới 90%),tăng trung bình 17%/năm.Trong
đó ngân sách trung ương chiếm khoảng 10%(năm 2007 vốn ngan sách trung
ương là 74,911 tỷ đồng trong tổng ngân sách nhà nước là 778,46 tỷ đồng, chiếm
khoảng 9,624%);ngân sách địa phương đóng góp khoảng 90%(năm 2007 vốn
ngân sách đia phương là 703,549 tỷ đồng, chiếm khoảng 90,376%) .GDP đóng
góp vào ngân sách nhà nứơc khoảng 23.5%.Tỷ lệ đầu tư phát triển chiếm 29.7%
trong tổng vốn ngân sách nhà nước. Nguồn vốn tín dụng đầu tư cũng cố những
chuyển biến tiến bộ, tuy nhiên trong những năm gần đây nguồn vốn đầu tư tín
dụng Nhà nước xu hướng giảm dần do nhà nước có chủ trương thu hẹp đối
tương cho vay ,hạn chế cho vay theo dự án và đẩy mạnh thực hiện hỗ trợ lãi suất
đầu tư.Năm 2005 số vốn tín dụng nhà nước là 159,816 tỷ đồng, năm 2006 là
117,554 tỷ đồng,, và năm 2007 là 91,877 tỷ đồng; giảm khoảng 42,5% trong
vòng 3 năm. Nguồn vốn tín dụng từ các nguồn khác tăng lên rất nhanh;năm
2005 là 122,317 tỷ đồng, năm 2006 là 288,165 tỷ đồng;năm 2007 là 221,608 tỷ
đồng; mức tăng khoảng 81,17%.
Vốn đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh trong những năm gần đây được
chú trọng, tăng khoảng 78,5%trong vòng 3năm 2005-2007 (năm 2005 là

2024,563 tỷ đồng và năm 2007 là 3613,629 tỷ đồng).Theo điều tra thực tế năm
2007 thì số vốn của các hộ gia dình là 1283,919 tỷ đồng và vốn của các tổ chức
doanh nghiệp là 2329,71 tỷ đồng.
Để tăng vốn cho đầu tư phát triển, chính phủ thực hiện huy động vốn thông
qua việc phát hành trái phiếu chính phủ từ năm 2003.Năm 2003 là 8.1 nghìn tỷ
đồng, năm 2004 là 6.5 nghìn tỷ đồng và năm 2006 khoảng 13.1 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, chúng ta luôn coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài.
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản luật và cơ chế chính sách với mục đích
khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài mang vốn,công nghệ quản lý hiện đại vào
Việt Nam.Cùng với đó là tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư
nước ngoài,giữ vững môi trường kinh tế vĩ mô ổn định,giảm chi phí đầu tư,giải
quyết những vướng mắc cụ thể cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
Đặc biệt từ khi Việt Nam là thành viên của tổ chúc thương mại thế giới WTO
Nhóm I
13
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng đáng kể.Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài năm 2005 là 78,400 tỷ đồng, năm 2006 là 97,175 tỷ đồng, năm 2007
99,525 là tỷ đồng.Vốn đầu tư nước chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư phát
triển của nền kinh tế.Ngoài các nguòn vốn chủ yếu là ODA và FDI,vào Việt
Nam còn có lượng vốn mà doanh nghiệp tự đi vay nước ngoài hoặc vốn huy
động thông qua phát hành trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ ra nước ngoài.Tuy
nhiên chúng ta cũng chỉ mới phát hành tráiphiếu chính phủ ra nước ngoài nên
nguồn vốn này chưa đáng kể.
Nguồn vốn ODA trong thời gian qua đạt thành tựu quan trọng.tổng mức ODA
các nhà tài trợ cam kết cho nước ta trong giai đoạn 2000-2006 ước tính đạt 31 tỷ
USD,trong đó các khoản viện trợ không hoàn lại chiếm 15-20%.Nguồn vốn ODA
đã được giải ngan khoảng 15.5 tỷ USD ,chiếm khoảng 50% giá trị ODA cam kết
tài trợ,trong đó 80% nguồn vốn đầu tư cho đầu tư phát triển còn lại là chi cho sự
nghiệp,tốc độ giải ngân là 11.3%.Hiện nay có 25 nhà tài trợ song phương,14 tổ

chức tài trợ đa phương và trên 350 NGO hoạt động tại Việt Nam.
Thu hút vốn FDI cũng đạt kết quả tích cực khoảng 298,4 nghìn tỷ
đồng,tương ứng khoảng 19.5% nguồng vốn đầu tư phát triển của toàn nền kinh
tế.Trong số 64 nước đầu tư tại Việt Nam ,các nước châu Á chiếm trên 76% số
dự án và trên 70% số vốn đăng kí,trong đó Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc
,Hồng Kông chiếm trên 605 số dự án và đăng kí còn các nước EU chiếm khoảng
16% vê số dự án và 24% số vốn đăng kí,Hoa Kì chiếm khoảng 19.55 số dự án
va 2.7%sô vốn đăng kí.
Bên cạnh ODA và FDI thì một lượng vốn không nhỏ được chuyển vào
nước ta là kiêu hối chuyển về hang năm .Lượng kiều hố năm 2006 dạt 4.5 tỷ
USDvà năm 2007 lên tới 10 tỷ USD, mức cao nhất từ trước tới nay.So với tổng
mức ngoại tệ Việt kiều gửi về nước năm 2006, lượng kiều hối năm 2007 tăng gần
50%. Nguyên nhân là do chính phủ Việt Nam áp dụng các quy chế mới đối với
Việt kiều trong các lĩnh vực đầu tư, bất động sản và miễn thị thực nhập cảnh. Đặc
biệt gần đây quốc hội thông qua điều luật cho Việt kiều mua nhà tại Việt Nam.
Ngoài các nguồn vốn trên thì còn một lượng vốn vay của nước ngoài .Tuy
nhiên, lượng vốn này không đáng kể, chỉ đạt khoảng 50 nghìn tỷ đồng. Lượng trái
phiếu chính phủ phát hành ra nước ngoài bằng ngoại tệ khoảng 5.5 nghìn tỷ đồng.
Nhóm I
14
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
II. Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công
tác đầu tư ở Việt Nam hiện nay.
1,Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong quản
lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hiện nay.
1.1,Công tác quản lý đầu tư ở cấp độ vĩ mô.
Dựa trên việc nắm bắt các đặc điểm của đầu tư phát triển, ở mức độ vĩ mô
chính phủ đã có những cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển có
nhiều đổi mới, góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư,
khuyến khích các chủ thể trong nền kinh tế đầu tư.Do nguồn vốn đầu tư phát

triển rất lớn, đầu tư phát triển có độ rủi ro cao đòi hỏi ở cấp độ vĩ mô phải xây
dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch dầu tư đúng đắn, quản lý chặt chễ
tổng vổng vốn đầu tư, bố trí vốn đầu tư, thực hiện đầu tư có trọng tâm trọng
điểm.Cùng với đó phải đưa ra các phương pháp dự báo nhận diện rủi ro cho các
doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Chính phủ đã ban hành các chính sách phù hợp huy động các nguồn lực
cho đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư phát triển ngày càng được đa dạng hoá,
cơ chế bao cấp trong dầu tư dần được xoá bỏ. Cùng với đó đã nâng cao hiệu quả
sử dụng và nỗ lực cải thiện môi trường kinh tế chính trị cho đầu tư, củng cố lòng
tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển đã có nhiều thay đổi. Các văn bản
pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát triển luôn được cập nhật, đổi mới, phù hợp
theo hướng phân cấp mạnh hơn trong quản lý đầu tư và xây dựng, đồng thời
tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều
nghị định mới, văn bản luật mới được ban hành thay thế cho những nghị định
không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và xu hướng toàn cầu
hoá như (luật đất đai, luật tài nguyên, luật đầu tư, luật đấu thầu…).
Cùng với đó, Nhà nước cũng thực hiện đổi mới trong công tác quy hoạch,
thực hiện tốt vai trò định hướng đầu tư và là công cụ quản lý của nhà nước.Chất
lưọng của công tác quy hoạch đã được chú ý,gắn kết với thực tế, bám sát với
nhu cầu thị trường, khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương.
Nhóm I
15
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
Kiện toàn và tăng cường năng lực các bộ quản lý dự án đầu tư phát triển.
Đa dạng hoá các hình thức và mở rộng các lĩnh vực cho đầu tư nước ngoài là
một hướng đi mới mà Bộ kế hoạch và đ ầu tư đang nghiên cứu để kiến nghị
Chính phủ nhằm thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
Nhiều giải pháp cải thiện môi trường đầu tư đang được triển khai mạnh mẽ.
Đối với vốn ODA, những khó khăn sẽ được tập trung tháo gỡ là giải phóng mặt

băng, bảo đảm đối ứng trong các dự án, đấu thầu và sử dụng tư vấn, kiện toàn và
tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý dự án, cải thiện thủ tục hành
chính và haì hoà hoá các thủ tuch đối với các nhà tài trợ.Các giải pháp thu hút
vốn FDI được chú trọng đẩy mạnh là khâu quy hoạch, nhất là gắn quy hoạch
ngành, sản phẩm với quy hoạch vùng, nâng cao chất lượng và tính khả thi của
danh mục ưu tiên gọi vốn FDI.Liên quan đến giải pháp về cơ chế chính sách vĩ
mô, Chính phủ yêu cầu các ngành chức năng khi soạn thảo, bổ sung, sữa đổi
chính sách, luật phấp phải tính đến tác động của chúng tới FDI, bảo đảm tính
nhất quán, thông thoáng hơn và áp sát hơn với cac quy định của tổ chức WTO.
Các cơ chế chính sách ưu đãi về thuế, đất sẽ đặc biệt quan tâm đến các nhà đầu
tư đã có dự án đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời cũng có nhưng quy chế
riêng đói với các công ty xuyên quóc .
Tuy nhiên trong quản lý công tác đầu tư ở cấp vĩ mô cũng còn một số hạn
chê.Với một quốc gia đang phát triển nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn.
Tuy nhiên thực tế hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của Việt Nam thì chưa cao.
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: “ Việt Nam, tồn tại một nghịch lý là
nước nghèo nhưng không biết tiêu tinền hợp lý,gây lãng phí”.Chúng ta chưa
quan tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách,
nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA. Đầu tư trong nướ là một
nguồn lực tốt ,thậm chí năm 2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết
đầu tư trong nước là các DN tư nhân,các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc
đẩy hiệu quả càng cao càng tốt.Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn
còn hạn chế do tác động chung của cac nguôn lực khác: Cơ chế chính sách, vấn
đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho DN nhà nước. Đáng ra, tư
Nhóm I
16
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều.Tất nhiên không phủ
nhận sự yếu kém của DN tư nhân trong nước, nhưng yếu tố quan trọng chính là
môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do chính nhà nước tạo

ra.Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản
thânViệt Nam lai chưa tạo điều kiện đầy đủ.Hình thức BOT đã được luật hoá
nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia.Cách đây chưa
lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán để tham gia xây dựng hạ tầng, để đạt
được kí kết.Họ phải mất them 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng
không có kết quả.Cuối cùng nước này đã rút dự án ra khỏi Vệt Nam. Chúng ta
càn rút ra kinh nghiệm để tránh những sai lầm trong công tác quản lý đầu tư.
1.2, Tình hình quản lý đầu tư phát triển ở cấp độ vi mô.
Cùng với cải thiện đáng kể của công tác quản lý đầu tư ở cấp độ vĩ mô thì ở
các cấp độ doanh nghiệp công tác quản lý đầu tư ngày càng được chú trọng.
Năm 2007 số lượng các công ty tư vấn giám tăng khoảng 10% so với năm 2006.
Điều này chứng tỏ các nhà quản lý đã chú trọng rất nhiều đến chất lượng công
trình và tiến độ công trình.Công tác lập dự án cũng đóng vai trò quan trọng
trong công tác đầu.Trong nhiều dự án có quy mô lớn và trình độ kỹ thuật phức
tạp các công ty còn thuê chuyên gia nước ngoài để tư vấn lâp và thẩm định khả
thi của dự án đầu tư.Các công ty cũng sẵn sang bỏ một số chi phí không nhỏ để
thuê các tổ tư vân để lập ra các dự án có tính khả thi cao.
Bên cạnh đó có một bộ phận doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa làm tốt quá
trình đầu tư.Trong đó công tác đấu thầu là bất cập nhất.Nghiên cứu cho thấy
:trong tổng số 400 hợp đồng thuộc 6 khoản tín dụng đã được phân tích, có sự
tham gia của 1000 công ty,1500 người, 50 ngân hang và hơn 250 giao dịch.Dựa
trên kết quả phân tích ban đầu này, 110 hợp đồng đã được chọn lựa để phân tích
sâu không phát hiện thấy dấu hiệu bất thường trong công tác quản lý tài chính và
giải ngân.Ngoài ra chất lượng của các công trình xây dựng chấp nhận được ở
phần lớn trong số 40 công trình đã được kiểm tra.Tuy nhiên phân tích sâu hơn
cho thấy có dấu hiệu liên kết giữa các nhà thầu trong hầu hết các cuộc đấu thầu
đã thẩm tra. Đặc biệt nghiên cứu còn cho thâý hầu hết giá bỏ thầu đều nằm trong
Nhóm I
17
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư

khoảng rất hệp . Điều đó có thể ký giải được trên cơ sở việc nhiêu nhà thầu
thường căn cứ vào các định mức về giá đựơc quy định chính thức vì phần lớn là
các DNNN.
Nhiêu chủ đầu tư ở Việt Nam do chưa có các giải pháp, nhận dạng và
phòng ngừa rủi ro thích hợp, nên khi đứng trước những biến động của thị trường
lạm phát cao, giá nguyên vật liệu, lãi suất tăng cao ( kể từ cuối năm 2007) gần
như đứng trước nguy cơ phá sản, nhiều công trình thi công bị bỏ dở dang do chủ
đầu tư không huy động được nguồn vốn.Qua đó cồn thể hiện sự non kém trong
năng lực quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp. 2.Những mặt được
và hạn chế trong việc quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển ở Việt
Nam.
2.1,Những mặt được của công tác đầu tư phát triển.
Thư nhất là, huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển trong những
năm qua tăng khá .Hàng năm vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khoảng
18%, nhờ đó, tỷ lệ vốn đầu tư so với GPD không ngừng gia tăng…Nguồn thu từ
ngân sách nhà nước đã có tác động thu hút các nguồn vốn khác.Trong điều kiện
nguồn vốn ngân sách còn hạn hẹp, chính phủ dẫn thực thi nhiều cơ chế để tăng
cường thu hút đầu tư từ khu vực khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước
ngoài, huy động nguồn vốn công trái , trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị, trái
phiếu công trình góp phần tăng nhanh tổng nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy kinh tế
phát triển.
Thứ hai là ,cơ cấu đầu tư đã có sự chuyển dịch, tập trung vào các mục
tiêu quan trọng về phát triển kinh tế -xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Do các nguồn lực được huy động tốt hơn và tập trung đầu tư vào các công trình
chủ yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi
mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế của từng
vùnh, từng ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế;
chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh tế nông thôn; đầu tư
theo chiều sâu, bổ sung các thiết bị công tiên tiến trong các ngành công nghiệp,
xây dựng và chuẩn bị xây dựng một số cơ sở công nghiệp,kết cấu hạ tầng kỹ

Nhóm I
18
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
thuật (giao thông vận tải, viễn thông, thuỷ lợi, công nghịêp điện),hạ tầng cơ sở
nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường,giảm nhẹ thiên tai.Vốn đầu tư tập trung
cho phátt triển nguồn nhân lực,giáo dục khoa học công nghệ,môi trường, y tế xã
hội,các công trình quốc gia ,xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện phát
triển kinh tế xã hội các tỉnh Tây Nguyên,Miền núi phía Băc, Đồng bằng sông
cửu long ,các tỉnh còn khó khăn,các vùng thường bị thiên tai bão lụt.
Thứ ba là,có nhiều đổi mới trong cơ chế quản lý đầu tư và xây
dựng ,trong chỉ đạo điều hành của chính phủ.Cơ chế quản lý đầu tư đựơc cải
tiến một bước quan trọng theo hướng giảm đáng kể sự can thiệp trực tiếp của
nhà nước đôí với hoạt động đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng
cường vai trò, trách nhiệm của các chủ đầu tư trong công việc quyết địmh tổ
chức thực hiện và phát huy hiệu quả của các công trình đầu tư, đồng thời thực
hiện phân cấp triệt để cho các bộ, ngành và các địa phương về thẩm định, quyết
định, tổ chức quản lý thực hiện dự án đầu tư theo Nghị định số 07/CP của
Chính Phủ.
Trong hoạt động đầu tư, Nhà nước quản lý chặt chẽ đầu tư từ nguồn ngân
sách nhà nước và tao khung pháp lý cùng các hỗ trợ cần thiết cho nhà đầu tư mà
không trực tiếp quyết định đầu tư. Đồng thời Nhà nước thực hiện cơ chế giám
sát, kiểm tra, đánh giá, để thực hiện hiệu quả dự án đầu tư,giảm bớt sai sót, vi
phạm thất thoát. Trong quản lý đầu tư, đã được tăng cường vai trò của hội đồng
nhân dân, coi trọng sự tham gia giám sát của cộng đòng và các tổ chức xã hội.
Thứ tư là, chúng ta đã khai thac tốt các nguồn đầu tư nứơc
ngoài.Trong giai đoạn 2000-2007 huy động vốn nước ngoài gia tăng đáng kể,
góp phần khắc phục tình trạng khan hiếm nguồn vốn trong nước, thúc đẩy nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong nước, tạo thế và lực mới cho
nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh còn tạo điều kiện
tốt cho việc mở rộng thị trường trong nước, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp

trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường thế giới.
Chính phủ tiêp tục nỗ lực để tạo môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn
hơn, cởi mở minh bạch và thông thoáng hơn. Các bộ,ngành, địa phương đang
Nhóm I
19
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
thực hiện các biện pháp chỉ đạo hữu hiệu của thủ tướng Chính phủ về kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững
bằng nhiều biện pháp như bộ Kê hoạch và đầu tư đã triển khai công tác địa
phương thực hiện việc điều hành đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách
nhà nước nhằm phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát và các đoàn công tác thúc
đẩy việc giải ngân nguồn vốn FDI.
2.2,Những mặt chưa đựợc của công tác quản lý đầu tư phát triển của
Việt Nam.
Một là, chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư phát
triển của nền kinh tế. Nhiều bộ, ngành địa phương chưa chú trọng huy động
các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ
yếu vẫn trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn khác tham
gia vào đầu tư, đặc biệt là khu vực thư nhân còn hạn chế rất lớn về quy mô, nhất
là đầu tư những công trình cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn.
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những hạn chế ,chưa
phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây .Hầu hết các dự
án dược cấp giấy phép gần đây đều có quy mô nhỏ; môi trường đầu tư tuy đã
được cải thiện nhiều,nhưng mức độ cạnh tranh so với các nước trong khu vực
chưa cao và vẫn còn nhièu bất cập như: một số chính sách hay thay đổi và khó
dự báo trước,có tình trạnh cạnh tranh chưa hợp lý trong việc thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài giữa các địa phương.
Khối lượng giải ngân nguồn vốn ODA đật thấp so với kế hoạch, hàng năm
chỉ đạt khoảng 80-90% mức đề ra. Sau 10 năm kêu gọi nguồn vốn ODA, đến
nay mới giải ngân dược khoảng 13,5 tỷ USD trên tổng số 25 tỷ USD cam kết; tỷ

lệ giải ngân giảm dần qua các năm, khối lượng giải ngân thấp do nhiều nguyên
nhân, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan như chậm giải phóng mặt
bằng, các bộ ngành địa phương bố trí không đủ vốn đối ứng,năng lực của các
ban ngành quản lý dự án ODA còn thấp, thủ tục chưa hài hoà trong và ngoài
nước…
Hai là, cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, các nguồn sử dụng vốn đầu tư
Nhóm I
20
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
chưa thật hiệu quả.Trong nông nghiệp: chủ yếu vẫn tập trung đầu tư vào thuỷ
lợi (chiếm khoảng 705 vốn đầu tư vào ngành ), mà chưa chú ý đến đầu tư nhằm
nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp như đầu tư phát triển khoa học, công
nghệ phục vụ nông nghiệp, đầu tư cho hệ thống giống, cây trồng, vật nuôi,chế
biến sản,mạng lưới cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp.
Chưa quan tâm đúng múc đến công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn
do chưa đầu tư tương xứng để phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở
nông thôn, phát triển trang trại, làng nghề truyền thống nhằm chuyển đổi cơ cấu
sản xuất trong nông nghiệp. Ngành thuỷ sản có mức tăng trưởng cao, nhưng đầu
tư vào lĩnh vực này còn khiêm tốn.Trong công nghiệp: cơ cấu đầu tư cho công
nghiệp chiếm 43% trong tổng số đầu tư toàn xã hội là thấp chưa đủ để phát triển
cơ cấu lại ngành công nghiệp, chuyển dịch cơ câu sản phẩm công nghiêp để có
thể hôi nhập, trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt, hiện tượng đầu tư theo phong
trào, theo lợi nhuận trước mắt vẫn còn tồn tại, lãng phí vốn, tài nguyên làm giảm
hiệu quả đầu tư.Chưa chú trọng đến công tác phát triển ngành cơ khí, đầu tư
công nghiệp đóng tàu, chế biến máy công cụ, máy phục vụ nông nghiệp, chế
nông sản Đầu tư chưa gắn chặt với chuyển giao công nghệ cao, hạn chế khả
năng cạnh tranh của một số lĩnh vực công nghiệp chế biến.
Về giao thông vận tải: chủ yếu tập trung vào các ngành giao thông đường
bộ (chiếm khoảng 70% vốn đầu tư của ngành). Trong đó lại tập trung chủ yếu hệ
thống đường quốc lộ , hệ thống đường giao thông nông thôn, vùng kinh tế khó

khăn chưa được đầu tư thoả đáng để phát huy hiệu quả chung; đầu tư phát triển
phưong tiện vận tải còn thấp. Đầu tư cho lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực còn
thấp ,chưa gắn chặt với chiến lược phát triển các ngành kinh tế, các vùng kih tế.
Cơ cấu vùng:mặc dù những năm qua đã có cố gắng điều chỉnh cơ cấu đầu
tư giữa các vùng, nhưng tỷ lệ đầu tư cho vùng núi phía Bắc, duyên hải miền
Trung, vùng tây nguyên vẫn còn khiêm tốn (chỉ ở mức 8-12% tổng mức đầu tư
toàn xã hội) vốn đầu tư vẫn tập trung cao ở các vùng đồng bằng sông Hồng
(khoảng 24%) các vùng Đông Nam bộ (27%). Đầu tư cho các liên vùng liên tỉnh
còn kém, bị chia cắt bởi giới hành chính địa phương.
Nhóm I
21
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
Các công trình, dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giải
ngân chậm,thời gian thực hiện dự án kéo dài, nợ quá hạn chưa trả được có xu
hướng tăng, ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn; chất lượng công tác thẩm định
các dự án vay vốn tại hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển còn nhiều bất cập so với yêu
cầu, đặc biệt là sự dự báo sự biên động của thị trường, ảnh hưởng đến việc xác
định hiệu quả của dự án.
Ba là, công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém,
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Chất lượng các dự án quy họach phát
triển kinh tê -xã hội còn nhiêù hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn
dài hạn, chưa có đủ căn cứ vững chắc, nhất là các thông tin về dự báo, dự báo cá
tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công
nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp
Quản lý nhà nước về quy hoạch còn nhiều yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là
phân công, phân cấp không rõ ràng thiếu một khung pháp lý cho viêc lập, phê
duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về cả vấn đề
liên quan đến công tác quy hoạch trong phạm vi cả nước, thiếu kiểm tra, giám
sát thực hiện quy hoạch.
Nhiều cơ quan nhà nước, nhiều cá nhân có trách nhiệm chưa quan tâm

đúng mức và chưa nhận thức đúng đắn về công tác quy hoạch, trách nhiệm đối
với công tác quy hoạch chưa đủ tầm.Quy hoạch hoá nền kinh tế quốc dân chưa
được thể chế hoá, phương pháp lập quy hoạch chưa thống nhất, thiếu sự phối
hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình lập các quy hoạch ngành ,nên
xảy ra tình trạng chồng chéo và không ăn khớp giữa các quy hoach ngành, quy
hoạch vùng và quy hoạch tỉnh; thiếu quy chế phê duyệt thống nhất.
Nhận thức về quy hoạch trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế còn nhiều điểm chưa thống nhất; việc phân định nội dung cũng như
phạm vi giữa các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội các vùng lãnh
thổ,quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng còn nhiều điển chưa rõ.
Các quy hoạch ngành, tuy chưa xác định rõ hơn những ngành thuộc loại
quyhoach, nhưng ngay đối với các ngành sản phẩm chủ lực cần được lập quy
Nhóm I
22
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
hoạch cũng như chưa xác định ở cấp nhà nước.
Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều nhưng trước hết phải kể đến công
tác điều tra cơ bản chưa đủ, thông tin phục vụ nghiên cứu quy hoạch thiếu, lực
lượng nghiên cứư quy hoạch còn hạn chế,công tác dự báo và xử lý liên ngành,
liên vùng yếu, công tác chỉ đạo quy hoạch chưa đúng mức.
Quy hoạch ngành và quy hoạch ngành quy hoạch vùng, quy hoạch của từng
tỉnh ít gắn kết với nhau. Quy hoạch phát triển ngành chưa thể hiện cụ thể trên
các địa bàn lãnh thổ của các tỉnh, thành phố. Mặt khác trong khi có một số quy
hoạch thể hiện trên lãnh thổ nhưng quy hoạch tỉnh, thành phố chưa căn cứ vào
quy hoạch ngành bố trí trên lãnh thổ của mình.Trong quá trình thực hiện quy
hoạch , một số ngành, một số địa phương còn tuỳ tiện thay đổi mục tiêu của quy
hoach sau khi đã được Thủ tướng chính phủ hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Nhiều quy hoạch sau khi được cấp có thẩm quyên phê duyệt đã không kịp triển
khai các quy hoạch cụ thể, quy hoạch chi tiết để tiến hành đầu tư, dẫn tới tình
trạng quy hoạch “treo”. Việc thẩm định, kiểm tra, giám sát quy hoạch còn yếu,

có trường hợp quy hoạch có chất lượng vẫn được thông qua.
Bốn là, bố trí đầu tư còn dàn trải. Nhìn chung , bố trí đầu tư còn rất dàn
trải, phân tán thể hiện ở tất cả các nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc
ngân sách nhà nước. Những năm gần đây đã có những tiến bộ bước đầu ( tập
trung choc ac dự án thuộc nhóm A); tuy nhiên nhiều bộ, ngành và nhiều địa
phương vẫn cồn tình trạng bố trí vốn chua tập trungchủ yếu là đối các công
trình, dự án nhóm B và C.
Số công trình dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước sau nhiều
năm trước. Năm 2001 khoảng 7000 dự án; năm 2002 tăng lên trên 8000 dự án
,năm 2003 tăng lên 10500 dự án (tăng khoảng 2500 dự án so với năm 2002).
Nguyên nhân của tình trạng trên là;
Về phía trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương: nhu cầu đầu tư còn
có khoảng cách rất lớn so với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước, khi bố
trí cụ thể bị căng kéo bởi quá nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, khi xem xét để quyết
định dự án đầu tư mới chưa chấp hành đúng các quy định trong việc xết duyệt
Nhóm I
23
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
một dự án đầu tư. Nhiều dự án chưa được xem xét kỹ hiệu quả, tính khả thi
thấp.Trên thực tế, số lượng dự án các Bộ, ngành và địa phương phê duyệt đã
không phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước. Ngoài ra việc bố
trí phân bổ đầu tư cho các dự án không loại trừ có trương hợp do nể nang , do
quan niệm vốn ngân sách phải chia đều giữa các huyện, xã dẫn đến tình trạng
đầu tư phân tán, dàn trải.
Về trách nhiệm của cơ quan quản lý; còn buông lỏng trong công tác quản
lý đầu tư và xây dựng. Việc phân cấp quản lý trong đầu tư và xây dựng cho các
bộ, ngành và địa phươngđã thực hiện tương đối mạnh. Tuy nhiên, cơ chế quản
đầu tư và xây dựng còn thiếu các chế tài,những quy định cụ thể (kể cả nhưng
biện pháp hành chính )nhằm kiểm soát và hạn chế được việc phê duyệt các dự
án đầu tư tràn lan, kém hiệu quả.

Công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa đáp ứng được các yêu cầu theo
quy định, một mặt do đội ngũ cán bộ chưa được chuẩn bị chu đáo, cán bộ
nghiệp còn thiếu kinh nghiệm, năng lực còn hạn chế, chưa có hệ thống thông tin
phục vụ hoạt động giám sát. Mặt khác, lãnh đạo ở một số bộ, ngành và địa
phương cũng chưa nhận thức đầy đủ được vai trò của công tác giám sát, đánh
giá đầu tư trong quản lý đầu tư nói chung.
Năm là, lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn còn lớn. Lãng phí, thất
thoát trong đầu tư và xây dựng vẫn còn là ữân đề nổi cộm hiện nay. Còn có
những biểu hiện tiêu cực trong quản lý đầu tư và thi công công trình. Chất lượng
ở một số công trình còn thấp, gây lãng phí và kém hiệu trong đâu tư .Theo kết
quả kiểm tra năm 2002 của 995 dự án voi tổng số vốn đầu tư 20.736 tỷ đồng, đã
phát hiện sai phạm về tài chính và sử dụng sai về vốn đầu tư là 1151 tỷ đồng,
bằng khoảng 5,5%tổng vốn đầu tư các công trình được kiểm tra. Riêng 17 công
trình do thanh tra Nhà nước thực hiện kiểm, phát hiện sai phạm về tài chính
chiếm khoảng 13%. Đó là chưa kể tới các lãng phí do chậm triển khai công
trìnhvà nhất là sai sót trong chủ trương đâu tư mà hiện chưa có đánh giá thống
nhất.
Năm 2003 thanh tra nhà nứơc đã phối hợp với các bộ,ngành tiến hành
Nhóm I
24
Đặc điểm của Đầu tư Phát triển, quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
nhiều hoạt động trong việcchấp hành các quy định đầu tư, đơn giá, khối lượng
,chủng loại, vật tư,thết bị…Trong số các dự án được thanh tra nhà nước thanh
tra với số vốn là 8235 tỷ đồngthì tổng số sai phạm về tài chính là 1235 tỷ đồng
chiếm trên 14% tổng số vốn.
Nguyên nhân của tình trạng lãng phí thất thoát trong đầu tư có nhiều, thể
hiện ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư, hệ thống chính sách, pháp luật về
quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý đất đai chưa đồng bộ; chưa xác định rõ vai
trò đại diện chủ sở hữu của nhà nước; phân công, phân cấp chưa rõ rang. Ngay
từ khâu tính toán, xác định tổng mức vốn đâu tư cho dự án chưa quan tâm sâu

sát tới việc tiết kiệm vốn đầu tư; nhiều dự án thiết kế phô trương hình thức
không phù hợp với thực tế sử dụng. Nhiều dự án không tuân theo quy hoạch,
đièu tra khảo thị trường không kĩ, chưa quan tâm sâu sát tới đầu ra của sản
phẩm,dự án hoàn thành nhưng không phát huy được hiệu quả. Ngoaì ra trình độ
năng lực quản lý, điều hành của các chủ đầu tư, của ban quản lý dự án, các tổ
chức tư vấn cồn yếu kém cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu
tư.
Sáu là, tình hình nợ đọng trong đầu tư và xây dựng còn là vấn đề bức
xúc. Nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc hiện nay,
vượt quá khả năng cân đối của ngân sách, chưa được xử lý dứt điểm.Do nhiều
nguyên nhân khác nhau, tình hình thực hiện vượt kế hoạch vốn đầu tư xây dựng
cơ bản của các Bộ, ngành và địa phương vẫn tiếp diễn và có hướng tăng (sau khi
rà soát lại, số nợ vẫn còn trên 5 nghìn tỷ đồng, trug ương khoảng 2 nghìn tỷ
đồng, địa phương khoảng 3 nghìn tỷ đồng)
Nguyên nhân của tình trạng nợ đọng:
Khả năng cân đối nguồn vốnn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn rất hạn
hẹp, chỉ đáp ứng được từ 40-50% nhu cầu; do sự cấp bách phải thực hiện một số
mục tiêu quan trọng của các địa phương, một số công trình, dự án thuộc các
ngành thuỷ lợi, giao thông phải khẩn trương thi công trước mùa mưa lũ, phải
vay mượn hoặc ứng trước vốn để thi công.Do đặc thù của các công trình, dự án
thuộc hạ tầng giao thông vận, thuỷ lợi bên A,cơ quan cấp phát vốn,cơ quan kiểm
Nhóm I
25

×