Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.24 KB, 13 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Việt Nam đang bước vào thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đây là nhiệm vụ trọng tâm,
bởi vì chỉ có bằng con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa mới đất nước ta mới trở nên
giàu mạnh, đồng thời xây dựng được một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, từng bước
tiến lên chủ nghĩa xã hội, từ đó rút ngắn khoảng cách lạc hậu với các nước phát triển, hòa
vào dòng thác chung của nhân loại.
Tuy nhiên để sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa thành công và những mong muốn đó trở
thành hiện thực thì đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiên tiến, chúng ta nhất
thiết phải phát triển lực lượng sản xuất với năng suất lao động xã hội ngày càng cao. Không có
lực lượng sản xuất hùng hậu với năng suất lao động xã hội cao thì không thể nói đến chủ nghĩa
xã hội. Mà muốn có lực lượng sản xuất hùng hậu và năng suất lao động cao thì không thể chỉ dựa
vào nông nghiệp sử dụng lao động thủ công, trái lại phải phát triển mạnh công nghiệp cùng với
đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và
bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hiểu theo cách khác, nguồn lực trí tuệ và sức mạnh
tinh thần người Việt, sự phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là nền tảng và động
lực của sự nghiệp công nghiêp hóa – hiện đại hóa đất nước. Hay nói chính xác như quan điểm
của Đảng: “Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức”.
Thực hiện đề tài này, chúng em muốn thể hiện cái nhìn của mình về công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, về nền kinh tế tri thức, vai trò của nền kinh tế tri thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước, đồng thời có thể rút ra được những kiến thức cần thiết cho mình trong
công việc cũng như cuộc sống sau này.
2
PHẦN II: NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIÊN ĐẠI HÓA VÀ KINH TẾ TRI THỨC.
1.1. Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
a. Công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa (industrialization) là quá trình biến đổi xã hội và kinh tế từ một xã hội nông
nghiệp (hay tiền công nghiệp), trong đó tích lũy tư bản trên đầu người rất thấp, lên xã hội công
nghiệp. Đó là một bộ phận của quá trình hiện đại hóa rộng lớn hơn. Quá trình biến đổi xã hội và
kinh tế đó gắn liền với quá trình đổi mới công nghệ, nhất là các cuộc cách mạng kỹ thuật .


Quá trình đó liên quan với quá trình biến đổi hành chính, chính trị, ý thức tư tưởng và mọi mặt
của đời sống xã hội loài người.
Làn sóng công nghiệp hóa thứ nhất bắt đầu từ Anh Quốc vào cuối thế kỷ XVIII, tiếp theo là Pháp
vào đầu thế kỷ XIX. Làn sóng công nghiệp hóa thứ hai bắt đầu ở Đức và Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ
XIX, tiếp theo là Nhật bản vào thập niên 70 thế kỷ XIX, Nga và nhiều nước Châu Âu khác vào
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Sau thế chiến thứ hai, nhiều nước thuộc thế giới thứ ba thực hiện chiến lược công nghiệp hóa của
riêng mình, một số dựa theo mô hình công nghiệp hóa của Mỹ, một số dựa theo mô hình công
nghiệp hóa của Nga. Một số nước đã công nghiệp hóa rút ngắn thành công và trở thành những
nước công nghiệp mới.
Làn sóng công nghiệp hóa thứ nhất bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp (cách mạng kỹ thuật)
lần thứ nhất với công nghệ chủ đạo là cơ khí hóa, làn sóng thứ hai từ cách mạng công nghiệp lần
thứ hai với công nghệ chủ đạo là điện khí hóa, hóa học hóa, (cách mạng trong năng lượng, vật
liệu). Giữa thế kỷ XX cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển dẫn tới sự bùng
nổ công nghệ, nhất là công nghệ cao, và bắt đầu làn sóng công nghiệp hóa lần thứ ba. Thực ra ý
nghĩa và tác động xã hội của nó to lớn, sâu sắc hơn nhiều so với hai cuộc cách mạng công nghiệp
trước đây, đây là bước chuyển của lực lượng sản xuất từ dựa chủ yếu vào nguồn lực vật chất
sang dựa chủ yếu vào nguồn lực trí tuệ con người, xã hội công nghiệp đang chuyển sang xã hội
thông tin, nền kinh tế tri thức, loài người bước sang nền văn minh mới.
Trong hai thế kỷ qua công nghiệp hóa gắn liền với sự phát triển chủ nghĩa tư bản đã làm cho
kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ, khoa học và công nghệ bùng nổ, lực lượng sản xuất loài
người bước lên thang bậc mới, của cải tạo ra tăng lên hàng trăm lần, đem lại sự cường thịnh cho
nhiều quốc gia; nhưng đồng thời cũng gây ra nhiều hậu quả nan giải cho loài người: cạn kiệt tài
nguyên, suy thoái môi trường sống, khoảng cách giàu nghèo giữa các nước tăng hàng trăm lần,
cùng với nạn đói nghèo, sự bất công xã hội, sự suy giảm văn hóa, đạo đức Công nghiệp hóa tư
bản chủ nghĩa đang khoét sâu các mâu thuẫn của thời đại. Mô hình công nghiệp hóa đó không
còn phù hợp với thời đại ngày nay, chính chủ nghĩa tư bản cũng phải đại điều chỉnh.
b. Hiện đại hóa
Hiện đại hóa (modernization) là một quá trình thường được hiểu là quá trình biến đổi xã hội
thông qua công nghiệp hóa, đô thị hóa và những biến đổi xá hội khác nhằm làm thay đổi cuộc

sống con người. Đó là quá trình biến đổi xã hội từ trình độ nguyên sơ lên trình độ phát triển và
văn minh ngày càng cao. Công nghiệp hóa là một bước đi, một giai đoạn trên con đường hiện đại
hóa.
2
Các thuyết về hiện đại hóa thường đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của các biến số xã hội đến sự
phát triển và tiến bộ xã hội, họ không chỉ chú trọng vào quá trình biến đổi mà còn cách biến đổi
như thế nào, có liên quan đên cấu trúc xã hội và văn hóa cũng như tính năng động và khả năng
thích nghi công nghệ mới.
Công nghệ mới là nguồn gốc chủ yếu của sự biến đổi xã hội. Hiện đại hóa phải xem xét từ góc
nhìn công nghệ. Công nghệ mới là yếu tố then chốt thúc đẩy hiện đại hóa. Con người trong xã
hội luôn tìm đến những ý tưởng mới, cách làm tốt hơn – những công nghệ mới, để phát triển sản
xuất, làm cho cuộc sống tôt hơn, đó cũng là quá trình nâng cao năng lực con người, phát triển
vốn tri thức xã hội, làm cho xã hội trở nên sáng tạo hơn, văn minh hơn, và trải qua nhiều thế kỷ
sẽ tạo nên sự biến đổi to lớn về xã hội, công nghiệp, kinh tế…, khái quát lại, chính đó là quá
trình hiện đại hóa.
Thuật ngữ hiện đại hóa xuất hiện từ thời đại “Khai sáng”, với ý tưởng là bản thân con ngưởi có
thể làm thay đổi và phát triển xã hội của mình. Tiến bộ công nghệ và biến đổi kinh tế sẽ làm thay
đổi giá trị đạo đức và văn hóa của xã hội, sự gắn kết kinh tế - xã hội trong phát triển sẽ thúc đẩy
sự tiến bộ và nâng cao năng lực của con người; đó cũng là những đặc trưng chủ yếu của quá trình
biến đổi không ngừng của thế giới.
Cần lưu ý đến sự phụ thuộc lẫn nhau và tương tác giữa những thiết chế của một xã hội trong việc
giữ gìn tính thống nhất của xã hội và văn hóa. Các xã hội nguyên sơ có thể chuyển tiếp sang xã
hội công nghiệp tiến bộ hơn, và trong quá trình chuyển tiếp ấy nhiều khi xảy ra khủng hoảng và
mất ổn định.
Quá trình hiện đại hóa phụ thuộc nhiều nhất vào điều kiện bên trong của một xã hội. Sư quản lý
của nhà nước có thể tạo thuận lợi cho hiện đại hóa nhưng cũng có thể cản trở hiện đại hóa làm
cho các nguồn lực chạy sang các nước khác; quyền lực cũng có thể trở thành công cụ kìm hãm
phát triển kinh tế, làm chậm quá trình hiện đại hóa.
Những thập kỷ 70, 80 thế kỷ trước thịnh hành quan điểm nhấn mạnh tầm quan trọng của xã hội
mở để đón nhận sự thay đổi, coi khép kín là kìm hãm sự phát triển; sự cố gắng duy trì truyền

thống văn hóa sẽ làm hại cho tiến bộ và sự phát triển. Theo mô hình này muốn hiện đại hóa phải
phá hủy nền văn hóa truyền thống bản địa và thay nó bằng một thứ văn hóa Tây phương. Quan
điểm trên đây đã bị chỉ trích mạnh mẽ, vì thực chất đó là “Tây phương hóa”. Tính hiện đại không
phụ thuộc vào văn hóa; bất cứ xã hội nào cũng có thể hiện đại hóa. Hiện nay hầu hết các nước
đang phát triển đều đang thực hiện chiến lược hiện đại hóa để hội nhập vào nền kinh tế tri thức
toàn cầu hóa, nhưng vẫn giữ bản sắc văn hóa của mình.
Trong chiến lược công nghiệp hóa nước ta, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa để nhấn
mạnh tính hiện đại, tiến bộ, văn minh, sử dụng công nghệ mới, phương pháp mới, nhất thiết
không lặp lại mô hình công nghiệp hóa của các nước đi trước.
1.2. Nền kinh tế tri thức
a. Một số khái niệm về nền kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức (KBE - Knowledge - Based Economy), còn gọi là kinh tế dựa vào tri thức là
nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao.
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) định nghĩa: "Nền kinh tế tri thức là
nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực
chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế”.
2
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa : kinh tế tri thức là nền kinh tế
trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát
triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức, những
ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào
các thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ
cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành kinh tế truyền thống như
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học, công nghệ cao.
b. Sự ra đời của kinh tế tri thức và vai trò quan trọng của nó
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX, dựa trên những tri thức
sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, dẫn tới sự phát minh ra các máy móc,
thuộc loại hoàn toàn mới, gọi là máy móc thông minh. Điển hình là máy điện toán, mô phỏng
được những chức năng chủ yếu của não người: biết nhớ, biết tính toán kể cả các bài toán rất phức
tạp, biết thực hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số việc , đóng vai trò chính

trong các hệ tự động hóa toàn phần của sản xuất và trong các mạng thông tin toàn cầu. Máy móc
thông minh kết hợp với tri thức sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như: công
nghệ thông tin hoặc công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
tiên tiến - nano , trong đó công nghệ thông tin và truyền thông giữ vai trò dẫn đầu. Hệ thống
công nghệ cao là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất mới đã thúc đẩy hình thành nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX.
Trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là động vật duy nhất có năng lực sáng
tạo tri thức, do đó biết lao động sản xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức là chính. Bởi
vậy, kinh tế tri thức là một lịch sử tất yếu mang tính khách quan. Cũng như kinh tế nông nghiệp
và kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức ra đời không phụ thuộc vào ý chí của một nhóm người
nào, mà hoàn toàn tuân theo quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử của xã hội loài người.
Nền kinh tế tri thức là bước phát triển mới, vươt bậc của lực lượng sản xuất xã hội, trong đó tri
thức trở thành hình thức cơ bản nhất của vốn, sự tăng trưởng kinh tế từ dựa chủ yếu vào nguồn
lực vật chất chuyển sang dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ con người. Nền kinh tế tri thức hình
thành và phát triển là kết quả của sự phát triển khoa học và công nghệ và kinh tế thị trường.
Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát triển chưa từng thấy của
nhân loại. Kinh tế tri thức là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Kinh tế tri thức được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao.
Từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế
Nó thúc đẩy công nghiệp, không ngừng gia tăng hàm lượng khoa học – kỹ thuật, công nghệ trong
sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm công
nghiệp.
Nó thúc đẩy trí nghiệp ở các ngành dịch vụ, thông tin, thương mại, tiền tệ… với nhiều hình thức
phong phú. Nó thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền văn minh cao hơn.
Kinh tế tri thức mang lại công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, từ đó các hệ thống
máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện và sáng tạo ra
nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên liệu mới, năng lượng mới,…có thể trước đây chưa
từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt
hơn, giảm bớt việc khai thác các nguồn tài nguyên hiện hữu. Trong nền kinh tế tri thức máy móc

2
không chỉ thay thế lao động cơ bắp mà còn thay thế lao đông trí óc, nhân lên sức mạnh trí óc của
con người. Sáng tạo và đổi mới là động lực chủ yếu của sự phát triển kinh tế xã hội. Sự giàu có,
cường thịnh của một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào năng lực trí tuệ, hơn là tài nguyên. Tài
nguyên là có hạn, năng lực sáng tạo của con người là vô hạn; một khi nền kinh tế dựa chủ yếu
vào năng lực sáng tạo của con người, thì khả năng của nền kinh tế là hết sức to lớn. Như Ngân
hàng Thế giới đã đánh giá "Đối với các nền kinh tế tiên phong trong nền kinh tế Thế giới, cán
cân giữa hai yếu tố tri thức và các nguồn lực đang nghiêng về tri thức. Tri thức thực sự đã trở
thành yếu tố quan trọng nhất quyết định mức sống - hơn cả yếu tố đất đai, hơn cả yếu tố tư liệu
sản xuất, hơn cả yếu tố lao động. Các nền kinh tế phát triển nhất về công nghệ ngày nay thực sự
đã dựa vào tri thức".
c. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức:
- Trong nền KTTT, các yếu vật chất cũng như hàm lượng vật chất trong các sản phẩm
ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động chất xám, lao động trí óc tăng lên, chiếm tỷ trọng
ngày càng cao trong giá trị sản phẩm, tuy hai yếu tố này vẫn là cơ bản không thể thiếu.
- Trong nền KTTT, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực hàng đầu là tri thức. Đây là
nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội, thay vì chỉ là đất đai, tài
nguyên và vốn tiền tệ như trước đây. Thông tin, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng
nhiều, ít sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Những trung tâm công nghệ cao được hình thành. Đặc
biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ thuật cao là thành phần quan trọng của
lực lượng sản xuất, là lợi thế phát triền kinh tế. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa.
Sự sáng tạo đổi mới trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người.
- Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc, theo hướng tri thức hóa, làm thay đổi
phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các ngành đó mà còn tác động đến các ngành
kinh tế khác trong nền kinh tế. Do những thay đổi trong cơ cấu kinh tế - kỹ thuật sẽ làm thay đổi
về chất trong cơ cấu sản phẩm, làm thay đổi cơ cấu giá trị sản phẩm; điều này tất yếu dẫn đến sự
thay đổi trong cơ cấu lao động xã hội.
- Công nghệ đổi mới rất nhanh,
vòng đời công nghệ rút ngắn, nhiều ngành sản xuất và doanh nghiệp mất đi, nhiều ngành và
doanh nghiệp mới ra đời (sự phá hủy có tính sáng tạo) đồng thời làm cho năng xuất lao động

ngày càng tăng, cường độ lao động ngày càng giảm, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng,
phong phú, chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc
sống…sự cạnh tranh được tạo điều kiện đầy đủ, sự tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, tạo ra lợi
thế cho quốc gia, tác động lớn đến đời sống xã hội. Tạo ra của cải và nâng cao năng lực cạnh
tranh chủ yếu là nhờ nghiên cứu, sáng tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới, chứ không chỉ là tối
ưu hóa và hoàn thiện cái đã có.
- Siêu xa lộ thông tin trong hệ thống mạng toàn cầu được hình thành, có ảnh hưởng to lớn
đến lĩnh vực khoa học, kinh tế và văn hóa, quan hệ quốc tế, đặc biệt giúp mở rộng thị trường cho
các nước… bởi vì nó đảm bảo sự tham gia đông đảo của tất cả các quốc gia trên thế giới. Siêu xa
lộ thông tin sẽ tạo ra một xã hội tri thức, xã hội thông tin mà không có biên giới.
- Trong điều kiện của kinh tế tri thức, các thành tựu khoa học – công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin được phổ biến và ứng dụng hết sức nhanh chóng, trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Các ngành kinh tế được tri thức hóa đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và
phát triển.
- Ngành nghề, việc làm thay đổi nhanh, không ổn định, người lao động phải học tập suốt
2
đời, không ngừng nâng cao kiến thức và kỹ năng, thích nghi với sự đổi mới.… Nhiều khái niệm
đã đổi khác, cách nghĩ, cách làm thay đổi nhiều.
d. Nền kinh tế tri thức - cơ hội cho các nước đi sau đẩy nhanh, rút ngắn quá trình công nghiệp
hóa.
Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày nay. Phát triển kinh tế tri
thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu.
Phát triển kinh tế tri thức là xu thế phát triển tất yếu khách quan, lôi cuốn tất cả các quốc gia. Các
nước phát triển đi tới kinh tế tri thức là quá trình phát triển tự nhiên. Các nước đi sau phải nắm
bắt các thành tựu mới của khoa học và công nghệ và kinh nghiệm các nước đi trước, đề ra chiến
lược phát triển kinh tế tri thức ngay trong quá trình công nghiệp hóa, để nhanh chóng rút ngắn
khoảng cách với các nước đi trước.
2. VÌ SAO PHẢI KẾT CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRI THỨC
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở mức độ nhiều hay ít.

Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười ngàn năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết
về canh tác, chăn nuôi, thời tiết tức là những tri thức cơ bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất
đai, lao động thủ công lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện và phát triển mạnh, dựa
vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy móc cơ khí phục vụ sản xuất. Nhưng để hình
thành được thị trường hàng hóa của kinh tế công nghiệp cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư bản) lại
quan trọng hơn nên tri thức cơ học cổ điển cũng chỉ có vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm năng phát triển và bắt đầu suy
thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe
dọa thường xuyên Trong bối cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện
và phát triển bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng phong phú về
thế giới vật chất vĩ mô và vi mô, với thuyết tương đối và thuyết lượng tử. Lực lượng sản xuất
mới được hình thành dựa trên nguồn lực chủ yếu là tri thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với
máy móc thông minh mà điển hình là máy tính điện tử (máy điện toán) mô phỏng não người.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một hình thái kinh tế mới. Đó
là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức, sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa
vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất
cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và tên gọi này
hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của Ngân hàng thế giới. Trong nền
kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn
dù quan trọng vẫn chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Tại đại hội X, Đảng nhận định: “khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri
thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh
đó, xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách
thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa
theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp công nghiệp hóa với
hiện đại hóa.
2
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức đã phát triển.

Chúng ta có thể và cần thiết không trải qua các bước tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế
công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải
nóng vội, duy ý chí. Vì vậy, Đại hội X chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3. NỘI DUNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
3.1. Nội dung
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: ‘Chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra
và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi trọng kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa’.
Nội dung cơ bản của quá trình này là:
- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức,
kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất
nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế - xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngàn, lĩnh vực, nhất là các
ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
3.2. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn
đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Một là, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình công nghiệp hóa
đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì công nghiệp hóa là quá
trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn, gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ
và đô thị. Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và
thành thị, là thị trường rộng lớn cho công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở

thời điểm ki bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn
là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa. Trong những năm tới, định
hướng phát triển cho quá trình này là:
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng
ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy nhanh tiến bộ khoa học – kỹ
thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao sản xuất, chất lượng và sức cạnh tranh của
nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ ; giảm dần
tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
2
Hai là, về quy hoạch phát triển nông thôn.
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông nghiệp, thực hiện chương trình xây dựng
nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành
mạnh.
Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như thủy lợi, giao
thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ…
Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí,
bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn.
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng có sử dụng đất nông
nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch
cơ cấu lao động ở nông nghiệp theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng
nhanh tỷ trọng lao động làm công nghiệp, dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc
làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao động nước ngoài.
Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ:
Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỳ trọng của nông nghiệp giảm còn công
nghiệp, dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ.

Một là, đối với công nghiệp và xây dựng.
Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần
mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều
lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu
công nghiệp, khu chế xuất. Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia
phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản
xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn của
nước ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.
Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án quan trọng về khai thác
dầu khí, lọc dầu và hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây
dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô.
Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt định cư ở nước
ngoài.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội nhất là các sân bay quốc tế, cảng
biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật
và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thủy lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp
năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu
chính – viễn thông.
Hai là, đối với dịch vụ.
2
Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao,
tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ phát triển của ngành dịch vụ cao hơn với tốc độ
tăng GDP. Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển ngành ‘công
nghiệp không có khói’ này. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền
thống như vận tải, thương mại, ngân hàng, bưu chính viễn thông, du lịch. Phát triển mạnh các
dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông thôn.
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng. Nhà nước
kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo hàng lang pháp lý, môi trường thuận lợi cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh trạnh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.
- Phát triển kinh tế vùng:

Cơ cấu kinh tế vùng là một trong những cơ cấu cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Xác định đúng
đắn cơ cấu vùng có ý nghĩa quan trọng, nó cho phép khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh của
từng vùng, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Để phát triển mạnh mẽ
kinh tế vùng trong những năm tới, cần phải :
Một là, có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong nước cùng phát triển nhanh hơn trên cơ
sở phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của mỗi vùng và liên vùng, đồng
thời tạo ra sự liên kết giữa các vùng nhằm đem lại hiệu quả cao, khắc phục tình trạng chia cắt,
khép kín theo địa giới hành chính.
Hai là, xây dựng 3 vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung, miền
Nam thành những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao để các vùng này đóng góp ngày
càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước. Trên cơ sở phát triển các vùng kinh tế trọng điểm,
tạo ra động lực và sự lan tỏa đến các vùng khác và trợ giúp các vùng khó khăn, đặc biệt các vùng
biên giới, hải đảo, Tây Nguyên, Tây Nam, Tây Bắc. Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn
lực để phát triển các vùng khó khăn. Bổ sung chính sách, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh tại các vùng khó
khăn.
- Phát triển kinh tế biển :
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm.
Sớm đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm
quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển, khai thác và
chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch biển, đảo. Đẩy mạnh phát triển
ngành công nghiệp đóng tàu biển, đồng thời hình thành một số hành lang kinh tế ven biển.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ :
Để chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức cần phải :
Một là, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ
và chất lượng cao, tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động
xã hội.
Hai là, phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng

khoa học và công nghệ. Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở một số ngành, lĩnh vực
2
then chốt. Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột phá và công nghệ sử dụng nhiều lao
động để giải quyết việc làm. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công
nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả, trong từng ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế.
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực
sự phát huy vai trò quốc sách, hàng đầu, tạo động lực thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển kinh tế tri thức. Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học
đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có
tay nghề cao.
Bốn là, đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ chế tài chính phù
hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động khoa học và công nghệ.
- Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên:
Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ, sử dụng tài nguyên và cải thiện môi trường
tự nhiên được xác định:
Một là, tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sản và
rừng. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường, khắc phục tình trạng xuống
cấp môi trường ở các lưu vực sông, đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, nơi đông dân cư và có
nhiều hoạt động kinh tế. Quan tâm đầu tư cho lĩnh vực môi trường, nhất là các hoạt động thu
gom, tái chế và xử lý chất thải, phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô
nhiễm môi trường. Hoàn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện
môi trường tự nhiên. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải xử lý ô nhiễm hoặc chi trả
cho việc xử lý ô nhiễm.
Hai là, từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng, thủy văn, chủ động phòng
chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
Ba là, xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo vệ môi
trường, bảo đảm phát triển bền vững.
Bốn là, mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên, chú

trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
4. THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VIỆC
TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI KINH TẾ TRI THỨC.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là hai nội dung của
một quá trình thống nhất và diễn ra đồng thời. Đảng ta đã xác định rõ rằng, việc thực hiện các
nội dung chiến lược đó ở nước ta hiện nay cần phải dựa vào tri thức. Xuất phát từ một trình độ
thấp về kinh tế và kỹ thuật, để có thể đi nhanh và phát triển theo hướng hiện đại, bền vững,
chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với phương thức "rút ngắn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có bước nhảy vọt". Chúng ta cần phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ
nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri
thức. Điều đó có nghĩa là, một mặt, chúng ta phải phát triển nông nghiệp và các ngành công
nghiệp cơ bản, mặt khác, phải phát triển các ngành kinh tế dựa nhiều vào tri thức và công nghệ
cao. Nói cách khác, gắn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức
2
theo những bước đi và hình thức thích hợp với điều kiện nước ta hiện nay không chỉ là quá trình
mang tính tất yếu, khách quan, mà còn là con đường duy nhất giúp chúng ta "rút ngắn thời gian"
để có thể trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Đảng ta đã xác
định.
Để thực hiện thành công đường lối và định hướng phát triển đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Đảng ta đã xác định một trong những nhiệm vụ cơ bản mà chúng ta cần phải thực hiện
trong 5 năm 2006 - 2010 là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Và để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều cần thiết trước hết
là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường đó, đồng thời nâng cao vai
trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình tổ
chức sản xuất, kinh doanh, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, trong đó có thị trường khoa học và công nghệ.
Định hướng phát triển thị trường khoa học và công nghệ được Đảng ta xác định là: “phát triển thị
trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa
học và công nghệ (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng đường lối, chiến lược,

chính sách phát triển quốc phòng và an ninh) trở thành hàng hoá”.
Nhận thức rõ việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là hai nội dung có quan hệ
thống nhất, hữu cơ của tiến trình phát triển theo phương thức "rút ngắn thời gian, vừa có những
bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt" để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, Văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định: "trong 5 năm tới,
chúng ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức”. Cơ sở để thực hiện
đồng thời và có hiệu quả hai quá trình này là tích cực phát huy nội lực, kết hợp hữu hiệu việc sử
dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại, chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn.
2
PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra với tốc độ vũ bão, hàng
loạt công nghệ mới ngày càng hiện đại ra đời. Khoa học và công nghệ ngày càng thể hiện rõ vai
trò là nền tảng, động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội.
Kinh tế tri thức là xu thế phát triển tất yếu, khách quan, đã, đang và sẽ tiếp tục làm thay đổi một
cách mạnh mẽ, sâu sắc nội dung và bước đi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Không
chỉ thế kinh tế tri thức còn đòi hỏi tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các quốc
gia đi sau, trong đó có Việt Nam, phải được gắn liền với phát triển kinh tế tri thức.
Đối với Việt Nam, tri thức khoa học công nghệ giữ vai trò cực kì quan trọng và quyết định đối
với sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, vừa là nền tảng vừa là động lực. Vì vậy,
chúng ta cần nhận thức được tầm quan trọng của tri thức và tri thức khoa học để có thể định
hướng được hương phát triển của đất nước.
MỤC LỤC
2
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
PHẦN II: NỘI DUNG 2
1. KHÁI NIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIÊN ĐẠI HÓA VÀ KINH TẾ TRI THỨC. 2

1.1. Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2
1.2. Nền kinh tế tri thức 4
2. VÌ SAO PHẢI KẾT CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC 7
3. NỘI DUNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 8
3.1. Nội dung 8
3.2. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 9
4. THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VIỆC
TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI KINH TẾ TRI THỨC. 13
PHẦN III: KẾT LUẬN 15
2

×