logique biện chứng được trang bị bài bản
trong đầu óc những bậc cầm chịch lúc bấy
giờ - vẫn không đủ sáng suốt cảnh báo
trước một đáp án sai, duy lương thức của
chữ “tâm” bảo lưu từ Phật Lão và cả Khổng
nữa mới giúp tìm thấy đích thực nghiệm số
sai hay đúng. Biện chứng Phật Lão không
rạch ròi, quy củ được như biện chứng
Hegel và biện chứng của Marx, điều đó thì
đã hẳn. Ấy thế mà hạt nhân hợp lý của nó
lại có một sự ứng hợp khá cao trong đời
sống tự nhiên và xã hội, khiến ngay nhiều
nhà khoa học phương Tây trong đó có
Einstein cũng từng rất xem trọng.
Đã đành, từ bỏ duy lý cổ điển, bao hàm
cả duy lý mác-xít không phải là từ bỏ thực
nghiệm khoa học, cũng không phải là từ bỏ
chủ nghĩa Marx như một triết thuyết. Trái lại
khoa học loài người đang phát triển như vũ
bão vẫn cần và càng rất cần duy lý, miễn
đó là duy lý hiện đại, một thứ duy lý không
đông cứng trong hai đáp số sai và đúng
theo cách nghĩ “cái gì hợp với lý trí thì tồn
tại”. Và chủ nghĩa Mác vẫn cần cho tư duy
con người như mọi học thuyết triết học
khác của nhân loại, miễn không biến nó
thành một học thuyết chính trị xã hội độc
tôn với những công thức “bao giờ cũng
đúng” như vô sản chuyên chính, đấu tranh
giai cấp bằng bạo lực cách mạng Con
người chức năng trong xã hội mới cũng
không phải là không còn đáng giá, miễn nó
phải hài hòa với con người tự do, biết chủ
động chuyển hóa thành con người tự do,
không bị điều kiện hóa trong mọi thứ công
thức từ trên dội xuống: “Ngang lưng thì thắt
phương châm/Đầu đội chính sách tay cầm
chủ trương/Hai chân đứng vững lập
trường ”. Xưa kia con người chức năng
của nhà Nho đã tìm được ở Lão Trang và
Phật giáo một liệu pháp cân bằng tâm thế
và giảm đẳng gánh nặng chuyên chế trong
tư tưởng, trong ý thức hệ. Từ mấy thập kỷ
nay rồi con người chức năng xã hội chủ
nghĩa vô tình hay cố ý cũng tự phát tìm đến
một liệu pháp giảm đẳng gánh nặng tâm lý
bằng hành vi tiêu cực: “nói vậy mà không
phải vậy”. Không thể nói đấy là phương
cách “giải lý tính” đúng nghĩa. Tuy nhiên, tự
nó đã là một thách đố gay gắt đòi hỏi trước
sau phải có lời giải.
25-VII-2005
[1] Chúng tôi không có nguyên bản kinh
Rigveda bằng tiếng Phạn nên trích dẫn qua
một bản dịch tiếng Hán.
[2] Trở lên các dẫn chứng đều rút từ
Trang Tử, các thiên “Tiêu dao du”, “Tề vật
luận” và “Thu thủy”.
[3] Xin xem Một bậc minh triết thì vô ý.
Sđd, chương V và chương VI.
[4] Xin xem bản dịch Trang Tử; Nxb. Văn
hóa, 1994, tr. 178-179.
[5] Mệnh đề này trích từ thiên “Tề vật
luận”, rất khó hiểu, xin chú nguyên văn để
bạn đọc tham khảo: “Thiên địa dữ ngã tịnh
sinh nhi vạn vật dữ ngã vi nhất. Ký dĩ vi
nhất hỹ, thả đắc hữu ngôn hồ? Ký dĩ vị chi
nhất hỹ, thả đắc vô ngôn hồ? Nhất dữ ngôn
vi nhị, nhị dữ nhất vi tam 天 地 與 我 并 生
而 萬物 與 我 為 一 。旣 以 為 一 矣 。且 得
有 言 乎 。旣 以 謂 之 一 矣 。且 得 無 言 乎
。一 與 言 為 二 。二 與一 為 三”.
[6] Chúng tôi chỉ dẫn theo ý chứ không
trích nguyên Nguyễn Hiến Lê, vì câu văn
dịch của chúng tôi có khác Nguyễn Hiến Lê.
Nguồn: Tham luận trong Hội thảo khoa
học “Vật lý học hiện đại-Văn hóa và phát
triển” do Tạp chí Tia sáng thuộc bộ Khoa
học và công nghệ phối hợp với Ban sáng
lập Trường đại học Phan Châu Trinh thuộc
UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức tại Hội An
vào hai ngày 31-7-2005 và 1-8-2005.