Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Ý NGHĨA CỦA BIỂU THỨC NGÔN NGỮ CỐ ĐỊNH DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA THUYẾT TÍN HIỆU docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.7 KB, 8 trang )


Ý NGHĨA CỦA BIỂU THỨC NGÔN NGỮ CỐ ĐỊNH
DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA THUYẾT TÍN HIỆU NGÔN NGỮ
CỦA FERDINAND DE SAUSSURE

ThS. HOÀNG THỊ MINH PHÚC
Bộ môn Anh văn
Khoa Khoa học cơ bản
Trường Đại học Giao thông Vận tải

Tóm tắt: Biểu thức ngôn ngữ cố định (BTNNCĐ) trong tiếng Anh là một vấn đề ngôn
ngữ phức tạp nhưng rất đáng nghiên cứu. Chúng ta sẽ có cái nhìn rõ hơn về con đường hình
thành ý nghĩa của các BTNNCĐ dựa trên các luận điểm cơ bản của F. de Saussure về bản
chất tín hiệu của ngôn ngữ.
Summary: Foreign language has become a compulsory subject in the curriculums of
most of the universities in our country for many years. How to teach and learn foreign
languages effectively has been mentioned by many specialists. In this report, only some
necessary factors to learn foreign languages successfully in class time and some basic
teaching methods are introduced.


CNTT-
CB
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ferdinand de Saussure là một nhà ngôn
ngữ học lớn, người đã có công dọn đường cho
ngôn ngữ học của thế kỷ XX. Dẫu cho số
lượng tác phẩm ông để lại không nhiều,
nhưng ông đã đề cập đến những vấn đề cốt lõi
nhất của ngôn ngữ học, bởi vậy trong ngôn
ngữ học “không có một nhà nghiên cứu


nghiêm túc nào ngày nay lại có thể bỏ qua
không nói đến” những luận điểm cơ bản của
F. de Saussure, đặc biệt là về bản chất tín hiệu
của ngôn ngữ.
Khi nghiên cứu biểu thức ngôn ngữ cố
định (BTNNCĐ) trong văn bản khoa học
tiếng Anh, mặt ý nghĩa của chúng được chúng
tôi đặc biệt lưu tâm. Vậy mối liên quan giữa
hình thức và nội dung của các BTNNCĐ là gì,
chúng chi phối nhau như thế nào? Ý nghĩa của
các BTNNCĐ được hình thành ra sao nếu
xem xét chúng dưới ánh sáng của lý luận về
bản chất tín hiệu ngôn ngữ? Đó là các vấn để
chúng tôi gắng làm sáng tỏ trong bài báo này.
1. Các luận điểm cơ bản của
Ferdinand de Saussure về bản chất tín hiệu
của ngôn ngữ
+ Đặc trưng tín hiệu của ngôn ngữ:
Saussure quan niệm ngôn ngữ là một cái
gì đó hai mặt bao gồm khái niệm và hình ảnh
âm thanh (Concept /Image acoustique). Tín
hiệu ngôn ngữ liên kết một khái niệm với một
hình ảnh âm thanh chứ không phải một sự vật
với một tên gọi. Hai yếu tố này gắn bó khăng


khít với nhau và đã có cái này là có cái kia.
Ông khẳng định “Ngôn ngữ có thể so sánh với
một tờ giấy, mặt phải là tư duy, mặt trái là âm
thanh; không thể cắt mặt phải mà không đồng

thời cắt luôn cả mặt trái; trong ngôn ngữ
cũng vậy, không thể nào tách biệt âm thanh ra
khỏi tư tưởng, và cũng không thể tách biệt tư
tưởng ra khỏi âm.” [1:197] Ông gọi tổ hợp
này là “tín hiệu” (sign), hình tượng âm thanh
được ông gọi là “cái biểu hiện” (signifier), và
khái niệm là “cái được biểu hiện” (signified).
Đây không đơn thuần chỉ là sự thay đổi tên
thuật ngữ mà là đưa thuật ngữ lên bậc phạm
trù trừu tượng và lôgich.
CNTT_C
B
Khái nim
(Concept)

Hình nh âm
thanh
(
Ima
g
e

Khái niệm (Concept)

Hình ảnh âm thanh
(Image Acoustique)
+ Tính võ đoán của tín hiệu
Mối tương quan giữa cái biểu hiện và cái
được biểu hiện là võ đoán. Cùng một ý niệm
được thể hiện bằng những lớp vỏ âm thanh

khác nhau trong các cộng đồng ngôn ngữ khác
nhau, ví dụ chị/em gái (tiếng Việt), sister
(tiếng Anh), sestra (tiếng Nga), và sœur (tiếng
Pháp). Theo Saussure, những lớp vỏ âm thanh
đó được hình thành “không có nguyên do,
nghĩa là nó võ đoán đối với cái được biểu
hiện, vì trong thực tế nó không có một mối
liên quan tự nhiên nào với cái đó” [1:124]
+ Tính hình tuyến của cái biểu hiện
Trong ngôn ngữ, “cái biểu hiện chỉ là
một loại âm thanh, bắt buộc phải xuất hiện
theo một trình tự, không thể xuất hiện đồng
thời, vì thế nó là một thời gian, một hình
tuyến, một ngữ đoạn” [6:154]. Theo Saussure
đây là nguyên lý rất quan trọng chi phối toàn
bộ cơ chế của ngôn ngữ. Khác với những loại
tín hiệu nhìn thấy được khác vốn có thể kết
hợp cùng một lúc trên nhiều chiều, những cái
biểu hiện nghe được chỉ sử dụng tuyến thời
gian, những yếu tố của nó hiện ra lần lượt cái
này tiếp theo cái kia làm thành một chuỗi.
Một khi âm thanh được thay thế bằng văn tự,
trật tự chữ cái sẽ thay thế cho trật tự thời gian,
và quan hệ tuyến tính được thể hiện rõ ràng
hơn.
+ Giá trị của tín hiệu ngôn ngữ:
Xuất phát từ quan điểm ngôn ngữ là một
hệ thống, mọi yếu tố trong đó đều gắn bó
khăng khít với nhau, Sausure quan niệm giá
trị của một từ chỉ thực sự được xác định với

sự giúp đỡ của những cái gì tồn tại bên ngoài
từ đó. Vốn là thành phần của một hệ thống, nó
không những mang một ý nghĩa mà còn mang
chủ yếu một giá trị. Ví dụ từ rice trong tiếng
Anh có thể có một ý nghĩa như từ gạo trong
tiếng Việt, nhưng lại không có cùng một giá
trị do nhiều nguyên nhân khác nhau Để chỉ
món đồ ăn đã được nấu chín từ gạo, người
Việt dùng từ cơm, để chỉ loại hạt thu được từ
cây lúa người Việt dùng từ thóc, để chỉ những
hạt gạo bị gẫy nhỏ người Việt dùng từ tấm…
Sausure đã chỉ ra rằng trong nội bộ một
ngôn ngữ, tất cả các từ biểu hiện những khái
niệm lân cận đều giới hạn lẫn nhau. Các từ
đồng nghĩa có giá trị riêng chỉ vì nó đối lập
với nhau. Ngược lại, nhiều từ trở nên phong
phú thêm nhờ sự tiếp xúc với những từ khác.
Do đó ông đi đến một luận điểm quan trọng
“Giá trị của bất cứ yếu tố nào cũng đều do
những yếu tố xung quanh quy định” [1:202]
và chỉ trong ngữ cảnh cụ thể mới có thể xác
định được giá trị của chúng.


Điều rất quan trọng trong luận điểm của
Saussure làm cơ sở giải thích giá trị ngữ nghĩa
của ngôn ngữ là tính hai mặt và tính tầng bậc
của tín hiệu ngôn ngữ. Tính võ đoán dẫn đến
khả năng biểu hiện vô hạn và không lường
trước được của ngôn ngữ. Chính sự linh hoạt

giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện tạo ra
bức tranh đa dạng của ngôn ngữ với các hiện
tượng như đa nghĩa, mở rộng nghĩa hoặc thay
đổi nghĩa. Giá trị của mỗi tín hiệu ngôn ngữ
được xác định dựa trên quan hệ đối lập giữa
hai trục liên tưởng và kết hợp, và sở dĩ một
yếu tố trong ngữ đoạn có được giá trị của nó
“chỉ vì nó đối lập với những cái đi trước hay
đi sau nó, hoặc với cả hai” [1:214].
Về mối quan hệ ngữ đoạn, Saussure cho
rằng đây là khái niệm không phải chỉ ứng
dụng cho các từ, mà còn có thể ứng dụng cho
những nhóm từ, những đơn vị phức hợp như
từ ghép, từ phái sinh, thành phần của câu, câu
toàn vẹn. Dù thuộc tính tiêu biểu của lời nói là
sự tự do trong cách kết hợp, nhưng không
phải tất cả các ngữ đoạn đều tự do như nhau.
Ví dụ điển hình Saussure đưa ra ở đây là các
thành ngữ. Các thành ngữ, tục ngữ, các
BTNNCĐ là những đơn vị ngôn ngữ có sẵn,
dùng đã quen nên không thể thay đổi gì hết,
dù xét ra có thể có những bộ phận có nghĩa.
Điều đặc biệt về các đơn vị ngôn ngữ này là
tính chất thông dụng toát ra từ những nét đặc
biệt về ý nghĩa hay kết cấu ngữ pháp, duy trì
được chúng là nhờ có “sức mạnh của sự thông
dụng” [1. 216].
Trong quan điểm của Saussure, mối quan
hệ giữa hai mặt tín hiệu, và rộng hơn, mạng
lưới quan hệ tín hiệu với tín hiệu (cấu trúc)

quyết định nghĩa của tín hiêu ngôn ngữ. Ông
đã tuyên bố “ngôn ngữ là một hình thức chứ
không phải là một chất liệu”. Quan niệm quá
nhấn mạnh quan hệ cấu trúc, đề cao hình thức
của ông đã gây ra nhiều tranh luận cũng như
dẫn đến những nhận thức không đúng về
nghĩa.
Vậy khi nghiên cứu bình diện ngữ nghĩa
của các BTNNCĐ chúng tôi dựa trên cơ sở lý
thuyết nào? Ngôn ngữ là một hệ thống chức
năng, mỗi đơn vị thực hiện một chức năng
nhất định. Theo quan điểm của chúng tôi,
nghĩa là một thực thể tinh thần, tức là một
hình thức do con người và được con người tạo
nên, do việc sử dụng ngôn ngữ như một loại
phương tiện, công cụ nên quan điểm chức
năng phải được xem là nòng cốt trung tâm của
kiến giải nghĩa. Nghĩa là một nội dung xác
định nhờ chức năng, nhưng là loại chức năng
thể hiện qua ngữ cảnh.
Wittgenstin và Austin đều phân biệt cách
giải thích bằng ngôn ngữ khác với cái gọi là
cách giải thích bằng sự kiện bên ngoài. Cách
giải thích bằng ngôn ngữ là cái nghĩa có trong
hình thức ngôn ngữ, còn giải thích bằng sự
kiện bên ngoài là giải thích sự vật hiện tượng,
tồn tại thuộc thế giới hiện thực, bằng các
thuộc tính của tồn tại. Từ quan niệm đó
Wittgenstin đã đề xuất học thuyết xem nghĩa
như là sự sử dụng, và ông tuyên bố “Đừng tìm

nghĩa của từ mà hãy tìm cách dùng nó”. J.
Lyons quan niệm “sự kiểm nghiệm duy nhất
của người nghiên cứu về nghĩa chính là cách
dùng các phát ngôn trong những tình huống
rất khác nhau trong đời sống hàng ngày”.
Như vậy, xuất phát điểm của chúng tôi khi
nghiên cứu bình diện ngữ nghĩa của các
BTNNCĐ là nghĩa thể hiện trong cách dùng,
trong hoạt động thường ngày, trong thực hiện
chức năng ngôn ngữ đa dạng trong cuộc sống,
trong các mối tương tác xã hội và sự sáng tạo
ngôn từ của người nói, người viết.
CNTT-
CB


2. BTNNCĐ trong tiếng Anh và con
đường hình thành nghĩa của chúng
2.1. Vài nét khái quát về BTNNCĐ
BTNNCĐ là một đơn vị từ vựng gồm từ
hai từ trở lên, có cấu trúc ổn định dùng để thể
hiện ngữ nghĩa nhất định và thực hiện chức
năng nhất định trong văn bản. Chúng là một
cách thức rất hữu hiệu có trong bất cứ ngôn
ngữ nào nhằm làm giàu vốn từ vựng sẵn có,
khắc phục một một phần nào tính hữu hạn của
các từ và tính không hàm súc, không cô đọng
của các phương tiện lời nói trong sự biểu vật
và biểu thái. Vì dẫu sao cũng phải thừa nhận
rằng “dù số lượng và tính chất của các từ

trong từ vựng của một ngôn ngữ có phong phú
đến đâu, tinh tế đến mức nào thì cũng vẫn là ít
ỏi trước gánh nặng ngữ nghĩa mà sự giao tiếp
và nhận thức trong xã hội đặt ra cho ngôn
ngữ” [4:78]
Xét từ bình diện hình thức cấu trúc,
BTNNCĐ trong tiếng Anh không khác với
các cụm từ tự do, bởi đó là sự kết hợp của một
từ trung tâm (là động từ, danh từ, tính từ,
trạng từ) với một hoặc một vài từ khác (là
mạo từ, giới từ, phó từ) ở vị trí trước hoặc sau
nó. Có thể gọi chúng là hậu trí từ (post-
positioned words) và tiền trí từ (pre-
positioned words) xét theo vị trí của chúng so
với từ trung tâm. Phần lớn cấu trúc các
BTNNCĐ trong tiếng Anh có thể được thể
hiện qua các mô hình sau:
CNTT_C
B
Pre-Pos. Part + CW
CW + Post-Pos.
Pre-Pos. Part + CW + Post-Pos. Part
CW + Post-Pos. Part
1
+ Post Pos. Part
2
Trong đó, CW là từ trung tâm, pre-pos.
part là tiền trí từ, post-pos. part là hậu trí từ.
Trong các mô hình trên, các mạo từ (article)
a/an hoặc the không thể hiện, nhưng chúng

cũng có thể tham gia vào thành phần của một
số BTNNCĐ xác định trong tiếng Anh, ví dụ
như as a whole, on the one hand…, on the
other hand, at the end… Còn hậu trí từ và tiền
trí từ thường là giới từ hoặc phó từ.
Như vậy, BTNNCĐ trong tiếng Anh là
một đơn vị từ vựng với những đặc trưng riêng.
Sự cố định về mặt hình thức của BTNNCĐ
bao gồm chất liệu tạo nên chúng (cái vỏ vật
chất) và cả trật tự tạo nên chúng. Chỉ cần thay
đổi chất liệu hoặc trật tự đó thì tính chất cố
định của BTNNCĐ sẽ bị phá vỡ. Sự thay đổi
ở đây bao hàm cả sự thêm hay bớt hoặc thay
thế các từ thành tố. Ví dụ on the one hand sẽ
chỉ có được nghĩa của nó như một BTNNCĐ
(một mặt) khi giữ nguyên hình thái như vậy,
còn bớt đi một từ thành tố như on hoặc the
hoặc one, hoặc thậm chí thêm một tính từ vào
trước từ hand hoặc thay thế từ hand bằng arm
chẳng hạn thì nghĩa cố định của BTNN không
còn nữa. Tức là khi lớp vỏ âm thanh thay đổi,
tính hình tuyến của các BTNNCĐ bị phá vỡ,
thì giá trị của BTNNCĐ cũng không còn nữa.
Như vậy, BTNNCĐ là một đơn vị từ
vựng phức tạp. Từ góc độ nguồn gốc, chúng
là một loại đơn vị từ vựng phái sinh. Rõ ràng
đây là một hướng phát triển của ngôn ngữ dựa
trên những tiềm năng sẵn có, nhằm đáp ứng
nhu cầu thể hiện tư duy của con người. Theo
quan điểm của Saussure, một khi xuất hiện

một tín hiệu mới (một kết hợp mới, một biểu
thức mới) trong ngôn ngữ thì nghĩa là nó đã
có lý do để tồn tại.
2.2. Con đường hình thành nghĩa của các
BTNNCĐ
Điều chúng tôi rất quan tâm khi nghiên
cứu BTNNCĐ trong tiếng Anh là con đường


hình thành nghĩa của chúng. Vì sao dưới một
cấu trúc bình thường như các cụm từ tự do,
sự kết hợp của các từ nhất định lại có một ý
nghĩa cố định? Tại sao khi phá vỡ cấu trúc
mặt thì ý nghĩa cố định của chúng không bảo
toàn được nữa? Các ý nghĩa mang tính chất
thành ngữ đó được hình thành theo cơ chế như
thế nào?
BTNNCĐ là một đơn vị từ vựng, chúng
mang bản chất tín hiệu, do đó chúng tôi nhận
thấy chúng phải trải qua các quá trình chức
năng như sau:
- Quá trình tạo mã và lập mã của tín hiệu
ngôn ngữ:
Các BTNNCĐ được tạo lập từ các từ
thành tố. Như vậy, nếu xét từ nguồn gốc sâu
xa, sự tạo mã và lập mã của các từ trung tâm
(thực từ) như danh từ, tính từ, động từ, trạng
từ và các từ thành tố sẽ diễn ra trước. Quá
trình tạo mã và lập mã ngôn ngữ là một quá
trình lâu dài, đó là quá trình một vỏ âm thanh

xuất hiện gắn với một ý biểu hiện thành một
nội dung. Chính sự chuyển hóa các nghĩa vào
các âm cho phép con người trao đổi tư tưởng,
và hơn thế “cũng như các hệ thống giao tiếp
khác, ngôn ngữ biến những tư tưởng thành vật
chất có khả năng chuyển từ hệ thống thần kinh
này sang hệ thống thần kinh khác” [10:24].
Khi cái vỏ âm thanh chuyển tải được một ý
tưởng thì tức là con người đã tạo lập mã cho
tín hiệu ngôn ngữ, và mã đó chuyển tải một
nội dung nhất định, nói cách khác, quá trình
tạo lập mã thực chất là quá trình gắn mã cho
một khái niệm. Lý do tại sao nội dung này
được gắn mã này mà không phải là một mã
khác đã được Saussure khẳng định “chính vì
tín hiệu có tính chất võ đoán cho nên nó
không biết đến quy luật nào khác hơn là quy
luật của truyền thống, và chính vì nó dựa trên
cơ sở truyền thống cho nên nó mới có thể có
tính võ đoán” [1:132].
Quá trình tạo mã và lập mã chính là quá
trình từ vựng hóa. Nó diễn ra không chỉ với
những tín hiệu đơn giản bậc 1, mà cả các tổ
hợp, các tín hiệu bậc 2 từ các từ phái sinh, từ
phức, từ ghép và các tổ hợp thành ngữ quán
ngữ. Quá trình này được gọi là quá trình từ
vựng hóa, thành ngữ hóa tạo nghĩa, mà biểu
hiện cụ thể của nó là việc thực hiện chức năng
định danh, chức năng biểu niệm, chức năng
biểu trưng hóa. Như vậy, để có được

BTNNCĐ như as a result of, look forward to,
on the one hand…., on the other hand,… thì
mã của các từ thành tố phải được thiết lập
trước, sau đó mới có sự ghép mã và cải biên
mã của các từ thành tố để tạo thành mã của
BTNN. Nghĩa của các BTNNCĐ phần lớn
mang tính phái sinh. Nhưng vấn đề cần quan
tâm ở đây là một khi nghĩa của các từ thành tố
ghép lại không tạo ra nghĩa của BTNNCĐ, thì
nghĩa của BTNNCĐ đã được hình thành theo
cơ chế nào?
CNTT-
CB
- Quá trình dùng, sử dụng và khẳng định
giá trị ngữ nghĩa
Một khi mã ngôn ngữ đã được thiết lập,
nhưng không trải qua quá trình khẳng định giá
trị để có giá trị bền vững trong cộng đồng sử
dụng ngôn ngữ thì nó vẫn chưa thể thực sự bắt
đầu hành chức. Như vậy, quá trình sử dụng là
vô cùng quan trọng. Nếu việc sử dụng các tín
hiệu chỉ được tiến hành trong một không gian
hẹp trong một bối cảnh nhất định thì nó cũng
khó được hiểu và chấp nhận trong cộng đồng.
Do đó, một khi mã ngôn ngữ đã được hình
thành, dù là trong một môi trường không rộng
lớn, nó phải trải qua quá trình được sử dụng
lại để khẳng định lại giá trị trong các không
gian khác, tức là sự quy ước phải được phổ



biến rộng rãi và được chấp nhận. Như vậy,
chẳng những việc lập mã tạo mã ngôn ngữ
mang tính chất quá trình và diễn ra lâu dài
phức tạp, mà cả quá trình khẳng định giá trị
của nó thông qua sử dụng cũng là cả một quá
trình vô cùng phức tạp. Xuất phát điểm của
việc tạo lập mã ngôn ngữ thường xuất phát từ
cá nhân, nhưng việc khẳng định giá trị của tín
hiệu ngôn ngữ lại nhất thiết phải mang tính
cộng đồng, mang tính xã hội. Theo quan điểm
ngày nay, từ không chỉ là tín hiệu ngôn ngữ,
mà còn là tín hiệu văn hóa. Rõ ràng là khi
dùng từ ngữ, từ không chỉ là tín hiệu biểu đạt,
mà còn là nơi nội dung được sáng tạo, được
người dùng thổi vào những ý nghĩa xuất thần.
Sự đa dạng trong cuộc sống con người tạo ra
sự đa dạng trong phong cách thể hiện, kết quả
là ngôn ngữ càng ngày càng hoàn thiện và
cùng với quá trình này là sự tích lũy, tích hợp
nội dung, hàm lượng nghĩa trong tín hiệu từ.
Các đặc điểm của từ vựng như đa nghĩa, đồng
âm… chính là kết quả tất yếu trong sự phát
triển của ngôn ngữ.
CNTT_C
B
Để chứng minh cho luận điểm của mình,
chúng tôi xin dẫn ví dụ sau: Theo từ điển
Phrasal Verbs của Rosemary Courtney
(Longman, 1998) từ bring back có các nghĩa

sau đây:
bring back V + ADV
1 bring sth/sb back, bring back sth/sb đem
về, mang về trả lại, đem trả: You must bring
these library books back next week: Anh phải
đem trả những cuốn sách thư viện này vào
tuần tới nhé.
*2 ~ sth nhớ lại, hồi tưởng, làm sống lại
(những sự kiện trong quá khứ): The smell of
these flowers brings back memories: Hương
thơm của những bông hoa này làm sống lại bao
nhiêu kỷ niệm.
*3 ~ sb to sth, bring sb back to sth khôi
phục cái gì cho ai, giúp ai khôi phục cái gì:

We must bring him back to health: Chúng ta
phải giúp anh ấy hồi phục lại sức khỏe.
*4 ~ sth làm cho một ý tưởng hoặc một
thưc tế trở lại hoặc tồn tại, dùng lại, duy trì
phương pháp cũ: Few people these days are in
favour of bringing back the old punishment
by death: Một số người ngày nay vẫn thích
duy trì hình phạt tử hình ngày xưa.

Trong 4 nghĩa trên, ngoài nghĩa 1, các
nghĩa còn lại đều mang tính thành ngữ. Vậy
cơ chế tạo thành các nghĩa của động từ này
như thế nào? Xét nghĩa 1, bring back là nghĩa
của bring và back ghép lại với nhau một cách
cơ học. Như vậy, khi bring và back được tạo

thành mã, chúng đã có được giá trị ngữ nghĩa
của mình và mang hai đặc tính đã được
Saussure chỉ ra; tính võ đoán và tính hình
tuyến. Tuy nhiên, khi tạo thành tổ hợp bring
back, nghĩa 1 được tạo thành không phải
không có nguyên do, vì nó là nghĩa đen do hai
từ thành tố ghép lại, còn các nghĩa 2, 3, 4 thì
sao? Theo quan điểm của chúng tôi, các nghĩa
2, 3, 4 đã được phát triển ra từ nghĩa đen ban
đầu, trên cơ sở có cải biến. Rõ ràng từ nghĩa
ban đầu “đem cái gì đó trở lại”, mà bring back
đã có được nghĩa “nhớ lại, làm sống lại, hồi
tưởng lại” khi nói về hồi ức, kỷ niệm trong
quá khứ (nghĩa 2), “khôi phục lại” khi nói về
một thực trạng xấu nào đó (nghĩa 3), và “duy
trì, dùng lại” khi nói về một cái gì đó tưởng
như đã lỗi thời (nghĩa 4). Như vậy, nếu nói về
sự phát triển nghĩa của từ bring back, thì
nghĩa của bring back như một đơn vị từ vựng
(động từ cụm hay động từ thành ngữ), sẽ được
hình thành sau khi giá trị ngữ nghĩa của bring
và back đã được khẳng định, và các nghĩa cố
định 2 – 3 - 4 chỉ có được sau khi bring back


khẳng định được nghĩa 1. Chính trong quá
trình sử dụng ngôn ngữ, các giá trị ngữ nghĩa
của bring back được hình thành, phát triển và
trở thành các đơn vị từ vựng mang tính ổn
định như ngày nay. Có thể khẳng định rằng từ

hai vỏ âm thanh bring và back với hai ý niệm
riêng rẽ ban đầu như các tín hiệu ngôn ngữ
hoàn toàn mang tính võ đoán, sự phát triển
ngữ nghĩa của bring back sau này là cả một
quá trình diễn ra trong tư duy logic của con
người. Rất có thể trong tương lai, cùng với
nhu cầu thể hiện tư duy của con người, bring
back còn phát triển thêm các nghĩa khác nữa.
Thử xem xét ví dụ on the one hand … on
the other hand… Đây là BTNNCĐ có từ trung
tâm là hand với cấu trúc giới từ + mạo từ xác
định + tính từ + danh từ. Từ hand là một danh
từ đa nghĩa, trong rất nhiều nghĩa của từ hand
như bàn tay, sự giúp đỡ, nhân công, sự khéo
tay, kiểu viết tay, hứa hôn… nếu thử ghép bất
cứ nghĩa nào của từ hand vào BTNN trên
cũng không được một cụm từ thực sự có
nghĩa. Vậy nghĩa một mặt và mặt khác của
BTNNCĐ này được hình thành như thế nào?
Thiết nghĩ con đường thành ngữ hóa của
BTNNCĐ này cũng phải trải qua các bước đã
đề cập đến ở trên, đó là biểu trưng hóa (hai
bàn tay tượng trưng cho hai mặt khác nhau/
đối lập) và quá trình dùng trong cộng đồng đã
khẳng định sự cố định về mặt cấu trúc cũng
như ý nghĩa của BTNNCĐ này. Như vậy, các
tín hiệu ngôn ngữ cấp 1 (các từ đơn lẻ) và các
tín hiệu ngôn ngữ cấp hai trong đó có
BTNNCĐ (coi như các tổ hợp từ) được hình
thành do quy ước trong cộng đồng và mang

tính võ đoán, nhưng trong nhiều trường hợp
sự hình thành BTNNCĐ không hẳn là không
có nguyên do. Chính vì nhận ra sự vận động
giữa hai nguyên lý có lý do và không có lý do
trong ngôn ngữ, P. Guiraud đã viết “…Bởi
vậy tính võ đoán của tín hiệu là một trong
những điều kiện cho sự hành chức thuận lợi
của ngôn ngữ… Nhưng tính có lý do là một
động lực sáng tạo gắn liền với ngôn ngữ xã
hội… Chỉ sau khi từ được tạo ra, mang tính có
lý do, những đòi hỏi của chức năng ngữ nghĩa
mới dẫn tới sự làm mờ dần cái tính có lý do từ
nguyên đó, tính có lý do từ nguyên này có thể
bị xóa hẳn đưa tới sự biến đổi ngữ nghĩa của
từ đó” [Dẫn theo Đỗ Hữu Châu, 3: 92].
Tóm lại, ý nghĩa của các BTNNCĐ
không được ghép lại từ ý nghĩa của các từ
thành tố, nhưng chúng được hình thành theo
một nguyên lý nhất định nào đó mang tính
“không hoàn toàn võ đoán” và “duy lý tương
đối”. Cùng với thời gian, ngoài tính bất biến,
ngôn ngữ còn mang tính khả biến. Điều
Saussure đã khẳng định là “cái chiếm ưu thế
trong mọi sự biến hóa là tính bền vững của
chất liệu cũ, sự không trung thành đối với dĩ
vãng chỉ là tương đối”, và mọi sự biến hóa
bao giờ cũng dẫn đến “sự di chuyển của mối
quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu
hiện” [1:134]. Chính sự thay đổi mối quan hệ
giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là

một trong các hệ quả của tính võ đoán của tín
hiệu, và đó là một trong các nguyên nhân tạo
ra tính đa dạng của ngôn ngữ như phương tiện
của tư duy.
CNTT-
CB
II. KẾT LUẬN
BTNNCĐ là một đơn vị từ vựng xuất
hiện nhiều trong các ngôn ngữ. Chúng rất phổ
biến trong đời sống ngôn ngữ hàng ngày do
tính sẵn có và tiện dụng. Tuy nhiên, đây cũng
là một trong các đơn vị ngôn ngữ với những
đặc trưng rất khó tiếp cận, xử lý và sử dụng.
Với quan niệm BTNNCĐ là một loại từ
vựng đặc biệt, việc sử dụng quan điểm của F


de Saussure về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ
là một luận cứ khoa học quan trọng giúp
chúng tôi nghiên cứu ý nghĩa của các
BTNNCĐ. Các thuật ngữ liên quan đến tín
hiệu ngôn ngữ đã được F de Saussure đưa ra
như tính võ đoán, tính hình tuyến, quan hệ
ngữ đoạn, quan hệ liên tưởng, cái biểu hiện,
cái được biểu hiện, giá trị ngôn ngữ… được
chúng tôi vận dụng nhiều trong bài viết để
phát triển và chứng minh luận cứ của mình.
Không phải nghi ngờ gì về giá trị ngữ
nghĩa của các BTNNCĐ vì vai trò thực tế của
chúng trong hoạt động ngôn ngữ trong đời

sống xã hội hàng ngày. Ngoài việc nghiên cứu
nhận diện và phân loại BTNNCĐ về mặt hình
thức cấu trúc, ngữ nghĩa ngữ pháp và ngữ
dụng, con đường hình thành ngữ nghĩa của
các BTNNCĐ là một trong các vấn đề chúng
tôi đặc biệt quan tâm. Và bước đầu, việc
nghiên cứu vấn đề này dưới ánh sáng của bản
chất tín hiệu ngôn ngữ của Saussure đã giúp
chúng tôi có những nhận định ban đầu khá
quan trọng làm cơ sở cho nghiên cứu trong
tương lai, đó là:
CNTT_C
B
- BTNNCĐ là một đơn vị từ vựng đặc
biệt mang bản chất tín hiệu.
- BTNNCĐ là tổ hợp của các tín hiệu, rồi
đến lượt mình, nó lại tạo thành chức năng
tương đương với tín hiệu và hoạt động như
một tín hiệu mới biểu thị một nội dung, một
khái niệm, một chức năng. Do đó, BTNNCĐ
cần được “đối xử” như các tín hiệu bình
thường khác trong ngôn ngữ.
- Tín hiệu của BTNNCĐ là một loại tín
hiệu phái sinh từ các tín hiệu bậc 1 (tín hiệu
từ).
- BTNNCĐ là tín hiệu ngôn ngữ mang
tính hình tuyến và võ đoán, tuy nhiên tính võ
đoán giữa hai mặt tín hiệu của BTNNCĐ
thuộc về các cấp độ khác nhau: võ đoán hoàn
toàn và võ đoán tương đối.

- Nghĩa cố định của BTNNCĐ được hình
thành do quá trình tín hiệu hóa dần từ cú pháp
đến từ vựng. Con đường hình thành nghĩa của
BTNNCĐ là con đường hình thành nghĩa của
các tín hiệu bậc 1 và bậc 2, trải qua hai bước
cơ bản là (1) tạo mã và lập mã và (2) quá trình
dùng, sử dụng và khẳng định giá trị.
- BTNNCĐ như một đơn vị từ vựng đặc
biệt là một trong những kết quả tất yếu của sự
phát triển ngôn ngữ trên cơ sở phát triển, cải biến
tiềm năng sẵn có trong nội tại một ngôn ngữ.

Tài liệu tham khảo
[1]. Ferdinand de Saussure, Giáo trình ngôn ngữ
học đại cương, NXB KHXH, Hà Nội, 1973
[2]. Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng,
NXB Giáo dục, 1998
[3]. Đỗ Hữu Châu - Bùi Minh Toán, Đại cương
ngôn ngữ học tập 1. NXB Giáo dục, 2001
[4]. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt,
NXB Giáo dục, 1999
[5]. John Lyons, Ngữ nghĩa học dẫn luận, NXB
Giáo dục, 2006
[6]. Lưu Nhuận Thanh, Các trường phái ngôn ngữ
học phương tây, NXB Lao động, 2004
[7]. Mak Halliday, Dẫn luận ngữ pháp chức năng,
NXB ĐH QG Hà Nội, 2001
[8]. Nguyễn Lai, Những bài giảng về ngôn ngữ học
đại cương, NXB ĐHQG, Hà Nội, 1999
[9]. Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt,

NXB Giáo dục, 2002
[10]. Wallace L. Chafe, Ý nghĩa và cấu trúc của
ngôn ngữ, NXB Giáo dục, 1998♦


×