Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

TƯ DUY PHƯƠNG ĐÔNG NHÌN DƯỚI ÁNH SÁNG HỌC THUYẾT EINSTEIN Tác giả: Nguyễn Huệ Chi Phần 5 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.79 KB, 6 trang )

24 thế kỷ. Còn cái “Nhất” mà Lão Tử nói là
tính toàn vẹn không thể thêm bớt của Đạo
(giống như định luật bảo toàn năng lượng)
chứ không phải nó chỉ nhất nhất có một.
Trong cái một đã ẩn ngụ cả cái nhiều, và
mối quan hệ giữa một và nhiều cũng là hệ
quả của mối quan hệ giữa tĩnh và động.
“Động” là phẩm chất tuyệt đối của Đạo
nhưng trong động đã có tĩnh - khi hiểu Đạo
là thường tồn thì nó tĩnh, còn khi nhìn nó
dưới những hình thức tồn tại muôn vẻ thì nó
động, nó mãi mãi sinh sôi nẩy nở: “Đạo
sinh nhất; Nhất sinh nhị; Nhị sinh tam; Tam
sinh vạn vật 道 生 一 。一 生 二 。二 生 三 。
三 生 萬 物” (Lão Tử chương 42). Ta lại
nhớ đến trường hợp Einstein đã rơi vào
“thế kẹt” sau khi người khác dùng thực
nghiệm kiểm tra phương trình trường: ông
muốn quy nó về một hệ vũ trụ tĩnh nhưng
kết quả lại cho thấy nó chứng tỏ một vũ trụ
không ngừng giãn nở buộc ông phải đưa
thêm vào hằng số vũ trụ. Ngẫu nhiên mà
gặp nhau hay có một năng lực thần bí nào
mách bảo? Và “phản” chính là một đặc
điểm bổ sung cho động, đánh dấu bước
hoàn kết của một chu trình luân chuyển của
Đạo trong vũ trụ: sự quay trở về lại chính
nó, quay trở về cái khởi sinh [4] . Cứ theo
các nguyên lý của Einstein mà đẩy tưởng
tượng đi xa hơn, ta sẽ hình dung vũ trụ ra
sao sau khi đã giãn nở gia tốc đến tột


cùng, nếu chẳng phải là lại trở về với cái
mênh mông hoang sơ của một con số
không kỳ bí trước khi một vụ nổ Big Bang
thứ hai lại sẽ xuất hiện? Lý thuyết Einstein
và dẫn thân là lý thuyết vụ nổ Big Bang của
cơ học lượng tử rõ ràng đã lấp ló trong nó
chữ “phản” của Lão Tử.
Những chuyện trùng hợp kỳ quặc khó tin
như thế còn tìm thấy ở khá nhiều phiến
đoạn rời rạc khác trong cuốn sách Lão Tử,
nhưng chúng tôi muốn bạn đọc quan tâm
đến chương 14 sau đây như là một hướng
trình bày mới của Lão về Đạo, bổ sung cho
hướng chấm phá bằng hình ảnh mà ông đã
làm - đó là hướng khơi gợi một đôi ẩn dụ
thông qua cảm giác của chủ thể hay theo
cách nói của triết học phương Tây là góc
nhìn nhận thức luận: “Thị chi bất kiến danh
viết di. Thính chi bất văn danh viết hy. Bác
chi bất đắc danh viết vi. Thử tam giả bất
khả trí cật, cố hỗn nhi vi nhất. Kỳ thượng
bất kiểu, kỳ hạ bất muội, thằng thằng bất
khả danh, phục quy vu vô vật. Thị vị vô
trạng chi trạng, vô vật chi tượng, thị vị hốt
hoảng. Nghênh chi bất kiến kỳ thủ, tùy chi
bất kiến kỳ hậu. Chấp cổ chi đạo dĩ ngự
kim chi hữu. Năng tri cổ thủy, thị vị đạo kỷ
視 之 不 見 名 曰 夷 。聽 之 不 聞 名 曰 希 。
博 之 不 得 名 曰 微 。此 三 者 不 可 致 詰
故 混 而 為 一 。其 上 不 皦 。其 下 不 昧 。

繩 繩 不 可 名 。復 歸 於 無 物 。是 謂 無 狀
之 狀 。無 物 之 象 。是 謂 惚 恍 。迎 之 不
見 其 首 。隨 之 不 見 其 後 。執 古 之 道 。
以 御 今 之 有 能 知 古 始 。是 謂 道 紀”.
Tạm dịch: “Nhìn mà không thấy nên gọi là
di. Nghe mà không thấu nên gọi là hy. Nắm
mà không được nên gọi là vi. Ba cái đó
[cũng chỉ là ước lệ nên] không thể căn vặn
đến cùng được. Vì thế hỗn hợp lại thành
một. Phía trên nó thì không sáng sủa. Phía
dưới nó thì không tối tăm. Nó cứ triền miên
không dứt, không thể gọi tên được, cuối
cùng lại quay trở về chỗ trống không, không
có vật gì cả. Đó là thể trạng mà không có
thể trạng, là hình tượng mà không có hình
tượng. Do đó gọi nó là chập chờn. Đón nó
thì không thấy đầu nó ở đâu. Theo nó thì
không thấy đuôi nó ở đâu. Hãy nắm cho
được cái Đạo của thời tối cổ ấy để chế
ngự cái Hữu hôm nay. Khi đã có năng lực
để tri giác về cái khởi đầu từ ngàn xưa thì
mới gọi đó là dường mối của Đạo”. Ít nhất
phải thừa nhận đây quả là cách trình bày
rất đặc trưng cho tư duy phương Đông:
mường tượng cái không nhìn thấy bằng
chính cái không nhìn thấy, gợi cảm giác về
những điều cảm giác không thể nói rõ. Tất
cả mọi nỗ lực vượt khỏi “vô minh” mà ta
đọc thấy trong lời lẽ của người trình bày
cũng nói lên một sự thực: Đạo thật tình chỉ

mới là một linh cảm mẫn nhuệ từ nơi trực
giác sâu thẳm của vị tổ sư Lão học chứ
chưa bao giờ hiện hữu. Sự bất lực của
ngôn ngữ để diễn tả Đạo cũng là điều
chẳng có gì lạ. Khỏi phải nói, nếu các nhà
triết học thế kỷ XX đã bắt buộc liên hệ Đạo
với những khái niệm có gốc rễ từ Hy Lạp
như “bản thể” hay “quy luật” giúp nhận thức
bớt phần lúng túng thì cũng là tình thế bất
khả kháng. Chỉ có điều các khái niệm “bản
thể” hay “quy luật” dùng ở đây, nói như Lão
Tử đều là “miễn cưỡng”, nên rất cần được
quan niệm theo hướng mở chứ không đóng,
thì mới tương thích nhiều ít với Đạo là một
thực tồn rộng lớn không cái gì của thế gian
có thể so sánh, cũng là một tổng hợp của
mọi điều huyền diệu nằm ngoài hết thảy
tưởng tượng của thế gian. Muốn thấu tỏ
được Đạo không có cách nào hơn là sự
thấu thị huyền nhiệm của tâm linh (Huyền
chi hựu huyền, chúng diệu chi môn 玄 之
又 玄 。眾 妙 之 門 - Lão Tử chương 1). Tuy
thế, tâm linh huyền nhiệm vẫn không phải là
dấu hiệu hữu thần, do chỗ giữa cái huyền
bí và cái thông tỏ, cái chưa biết và cái biết
ở Đạo vốn có một quan hệ nội tại khăng
khít (Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt. Hốt
hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng
hề hốt hề, kỳ trung hữu vật 道 之 為 物 。惟
恍 惟 惚 。惚 兮 恍 兮 。其 中 有 象 。恍 兮

惚 兮 。其 中 有 物 - Lão Tử chương 21).
Quan hệ đó diễn ra ở tầm vĩ mô theo hai
chiều hướng: động - chuyển hóa từ vô
sang hữu (Hữu sinh ư vô); và phản -
chuyển hóa trở lại từ hữu sang vô (Phục
quy ư vô vật). “Phản giả, Đạo chi động 反
者 。道 之 動”, phản chính là sự tiếp tục
những vận động nội tại của Đạo dưới một
biến thái mới để chuẩn bị cho một tiến trình
đa hóa khác lại sẽ khởi đầu.
Rút lại, qua cái mô hình được phác vẽ

×