Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Kỹ thuật trồng lúa ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.47 KB, 8 trang )


Từ năm 1971, Takeda và Hirota đã làm nhiều thí
nghiệm chứng minh sự tương quan giữa mật độ gieo
trồng và năng suất lúa, kết luận rằng năng suất lúa
thực sự không thay đổi giữa 2 khoảng cách trồng 10
và 100 buội/m
2
. Các kết quả này cũng chứng minh
rằng cây lúa có khả năng thích ứng rộng với mật độ
gieo trồng bằng cách tự điều chỉnh số bông, số nhánh
bông/ bông và tỷ lệ hạt chắc tùy thuộc vào điều kiện
môi trường.
Cơ chế này đã được San-oh và ctv, 2004 giải
thích một cách tổng quát như sau: Ở ruộng gieo trồng
thưa, tầng lá trên không che phủ kín tầng lá dưới. Vì
vậy, tầng lá bên dưới được kéo dài tuổi thọ và hỗ trợ
dinh dưỡng nuôi bộ rễ lúa.

Theo Nguyễn văn Luật và ctv (1998, và 1999), từ
năm 1995, Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) đã nghiên cứu các thí nghiệm về mật độ sạ,
cách gieo sạ đã chứng minh rằng, sạ theo hàng với
mật độ 50, 75 và 125 kg/ha cho kết quả là năng suất
không khác biệt ý nghĩa; trong khi sạ lan ở mật độ
100 kg/ha thì cho năng suất cao hơn sạ lan mật độ
200 kg/ha (cao hơn 20-23%). So với sạ lan, sạ theo
hàng tiết kiệm được hơn 100 kg/ha thóc giống, tăng
năng suất từ 0,5 – 1 tấn/ha, giảm yêu cầu thuốc trừ
sâu bệnh, giảm chuột phá, dễ phân biệt lúa cỏ, giảm
ngã đỗ, giảm tỷ lệ lép, thuận lợi đi lại chăm sóc và dễ
nuôi cá trong ruộng lúa hơn. Trần thị ngọc Huân và


ctv, 1999 đã phân tích tương quan hệ số đường dẫn
(hệ số Path) giữa năng suất và thành phần năng suất
lúa được gieo sạ ở các mật độ từ 50, 100, 150, và 200
kg/ha trong vụ Đông Xuân và Hè Thu đã chứng minh
rằng, số bông/m
2
gia tăng khi mật độ sạ tăng trong
khi số hạt chắc trên bông giảm, đây là mối quan hệ
bù trừ giữa hai đặc tính trên; số hạt chắc / bông có
ảnh hưởng trực tiếp và tương quan thuận với năng
suất, bù trừ cho việc giảm số bông/m
2
.

Theo Zhong và ctv, 2003 khái niệm về “ruộng
lúa khỏe” (Healthy rice canopy) được hình thành từ
cơ sở của sự phối hợp chặt chẽ giữa đặc tính sinh lý
của cây lúa, cấu trúc tán lá lúa cũng như điều kiện
tiểu khí hậu bên dưới tán lá lúa với sự phát triển của
bệnh hại do tác động của bón phân đạm và mật độ
gieo sạ. Quản lý ruộng lúa khỏe mạnh là sự kết hợp
giữa quản lý dinh dưỡng và cây trồng để tạo ra một
ruộng lúa phát triển tốt, năng suất cao, và có khả
năng tự chống chịu bệnh hại tốt hơn, đây là một
hướng mới, có tính khả thi và hiệu quả.

Theo kết quả nghiên cứu gần đây của Quyến và
ctv, 2003 tại Viện Lúa ĐBSCL, để có ruộng lúa khỏe
phụ thuộc vào các đặc điểm như:
(1) Dạng hình đẹp: Chiều cao cây phải ngắn và

góc lá thẳng đứng để cân bằng hô hấp và quang hợp,
tăng chỉ số diện tích lá (LAI). Cây có tán lá ngã rợp
sẽ làm tăng ẩm độ tương đối và giảm nhiệt độ dưới
tán lá do ánh sáng bị cản trở bởi tán lá và giảm sự lưu
thông không khí dưới tán lá. Với điều kiện tiểu khí
hậu bên dưới tán lá như vậy là rất thích hợp cho sự
phát triển nhiều loại bệnh hại và sâu hại tấn công cây
lúa (Yoshida 1976);
(2) Số chồi và chỉ số diện tích lá: Với giống lúa
cao sản ngắn ngày cần quản lý số chồi hữu hiệu vừa
phải để đảm bảo số bông/m
2
, chiều dài bông, và năng
suất không bị giảm, đồng thời cũng giữ chỉ số diện
tích lá vừa phải để không làm gia tăng số chồi vô
hiệu. Giảm số chồi vừa phải cũng làm giảm áp lực
sâu bệnh (Mew,1991);
(3) Bón phân cân đối, tránh bón dư thừa phân
đạm;
(4) Mật độ gieo sạ: Ruộng gieo sạ dày (250
kg/ha) có chỉ số bệnh cao hơn ruộng sạ thưa (75-120
kg/ha), ở giai đoạn đòng-trỗ, góc lá của ruộng sạ
thưa, bón ít đạm (80 kgN/ha) nhỏ hơn (thẳng đứng
hơn) ruộng sạ dày và bón nhiều đạm (120 kgN/ha).

Các tác giả đã đưa ra kết luận bước đầu sau một
vụ thí nghiệm là gieo sạ thưa 75-100kg/ha, dùng bảng
so màu để bón phân đạm cho lúa (80 kgN/ha) sẽ tạo
ra ruộng lúa khỏe mạnh (Quyến và ctv 2003).
Tiến bộ kỹ thuật “Ba giảm, Ba tăng” trong canh

tác lúa cao sản ở ĐBSCL đã và đang được triễn khai
rộng từ năm 2003 đến nay, kết quả từ chương trình
này là bài học thực tiễn làm rõ hơn cơ sở lý luận nêu
trên. Chỉ riêng trong vụ Đông Xuân 2005-2006, theo
thống kê của Chi cục Bảo vệ thực vật (BVTV) các
tỉnh ĐBSCL, diện tích áp dụng “Ba giảm, Ba tăng” là
379.915ha, chiếm tỷ lệ 25,2% diện tích gieo trồng.
Với việc tập huấn kỹ thuật sạ hàng và khuyến cáo sạ
thưa, tính bình quân mỗi ha bà con nông dân đã giảm
bình quân được 49kg giống, tương đương
137.556đồng/ha. Bằng việc bón phân đạm theo bảng
so màu lá lúa và sử dụng phân bón cân đối, hợp lý,
bình quân mỗi ha bà con nông dân đã giảm được
28,3kg đạm nguyên chất, tương đương
159.491đồng/ha.

Quản lý dịch hại theo biện pháp tổng hợp, kết
hợp giảm giống, giảm phân nên đã hạn chế số lần
phun thuốc BVTV, bình quân mỗi ha bà con nông
dân đã giảm được 1,9 lần thuốc trừ sâu và thuốc trừ
bệnh, tương đương số tiền là 290.148đồng/ha. Năng
suất lúa tăng bình quân mỗi ha là 150,5kg, tương
đương tăng thu nhập 342.332đồng/ha. Bên cạnh đó
đã giảm được giá thành sản xuất lúa, bình quân
202đ/kg lúa. Lợi nhuận tăng bình quân ở các điểm
thực hiện là 1.068.680đồng/ha. Đặc biệt là các cánh
đồng “Ba giảm, Ba tăng” rất ít bị nhiễm bệnh đạo ôn
và rầy nâu, đã tạo nên chất lượng hạt lúa tốt hơn, ít
tồn dư thuốc BVTV hơn, góp phần bảo vệ môi
trường, sức khỏe người tiêu dùng, người sản xuất,

đồng thời góp phần xây dựng nền nông nghiệp bền
vững.

Từ kết quả này, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã chỉ
đạo: “ Phải bắt buộc áp dụng đầy đủ biện pháp “Ba
giảm, Ba tăng” ở những vùng trồng giống lúa mùa
đặc sản, giống chất lượng, nhiễm rầy nâu và đạo ôn”.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Huân
Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, Bộ Nông
nghiệp-PTNT

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×