Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

tài liệu lý thuyết điện thoại di động phần 1 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.65 KB, 14 trang )

Bài-1: Kết nối và giao tiếp GSM
Đơn giản như sự giao tiếp giữa gà mẹ với gà con

Thể xác và linh hồn - cái nào quan trọng ???
Cơ chế kết nối và duy trì giao tiếp trong hệ thống thông tin di động tế bào số GSM bao giờ
cũng là 1 chuỗi những diễn tả phức tạp, dài dòng. Nhưng hầu hết mọi sự rắc rối này lại nằm
ở trung tâm chuyển mạch liên kết khách hàng (viết tắt là SS) - cái mà không bao giờ ta được
tiếp cận. Phần còn lại đơn giản hơn nhiều lại nằm trong cái "a lô" của ta. Thứ mà ta phải tiếp
cận sửa chữa.
Một ĐTDĐ (viết tắt là MS) sau khi được lắp SIM hợp lệ và bật nguồn, nội dung SIM được tự
động chuyển về SS thông qua các trạm thu phát sóng (BTS). Tại SS, sau hàng loạt các thủ
tục, SIM của ta được nhận thực và ghi sổ. Nếu công việc này thành công, SS phát tín hiệu
lên BTS thông báo về MS việc đăng kí đã hoàn thành bằng cách "đóng dấu" tên mạng lên
màn hình MS ; đồng thời SS luôn phát ra tín hiệu để duy trì giao tiếp với MS. Công việc này
cũng na ná như việc đăng kí hộ khẩu - mà SIM giữ vai trò như 1 bản khai sinh gốc.
Để duy trì tín hiệu này, MS cũng phải liên tục phát ra các tín hiệu để kết nối với SS thông qua
BTS. Và đặc biệt là tín hiệu MS còn phải tự xác định sự mạnh yếu của sóng để định mức
công suất làm việc cho bóng cao tần ( được lai trong IC công suất cao tần ). Trong trường
hợp cùng lúc có nhiều tín hiệu BTS đến, MS sẽ chọn tín hiệu của BTS mạnh nhất.
Cũng nên chú ý rằng: Hệ thống tuyến giao tiếp này được thể hiện bằng 2 hình thức chủ yếu
là: - Giao tiếp trong điện thoại và sau bộ điều chế BTS là giao tiếp “hữu tuyến” kỹ thuật số
Giao tiếp giữa Anten MS và BTS là giao tiếp vô tuyến kỹ thuật số.
Sự liên kết này giống như mối liên hệ của gà mẹ với đàn gà con: Gà mẹ luôn phát ra những
tiếng "cục cục" để thu hút đàn con, đồng thời đàn gà con phải luôn luôn phát ra tiếng "chíp
chíp" để phản hồi lại cho gà mẹ biết rằng nó còn hiện hữu trong vườn.
Và người ta gọi đây là sự duy trì kết nối.
Có 2 cách để kết nối mà ta vẫn gọi nôm na là dò mạng:
-Dò tự động (auto)
-Dò thủ công (manual)
Nếu môi trường GSM thuận lợi (MS tốt, đường truyền tín hiệu tốt, SS tốt, địa hình tốt ) thì
việc kết nối thường thành công ngay trong giai đoạn tự động. Còn nếu tồn tại 1 trục trặc gì


đó thì ta phải kết nối bắng phương pháp thủ công. Cả 2 cách này mà vẫn không thực hiện
được chứng tỏ hệ thống đã có sự cố, người ta gọi là "rớt mạng".
Vậy muốn có mạng phải cần những gì? Đơn giản là phải có sóng mang (là băng tần) tức là
"xa lộ" của máy “phóng” ra ngoài. Nếu hệ thống MS tốt (cả phần cứng và phần mềm), muốn
hòa mạng nhất thiết phải có SIM ( hoạc một modul giống như SIM).
SIM là gì? Nếu nói về nó thì rất dài dòng, rất phức tạp, bởi trong nó được tích hợp cả 1 hệ
thống bao gồm cả bộ xử lí, và bộ nhớ hoạt động trong môi trường tự lập trình. Và ta cũng
không cần nặng lòng với nó vì không bao giờ ta có thể "mổ bụng" nó mà sửa chữa "ruột gan
tim phổi" của nó được. Do vậy ta chỉ cần hiểu thế này: SIM chính là 1 chiếc thẻ nhớ hoạt
động theo cơ chế “cắm vào là chạy”có các chức năng:
-Khóa nhận thực
-Khóa mật mã
-Nhận dạng quốc tế
-Nhận dạng tạm thời
-Vùng định vị
-Số điện thoại
-Bản tin ngắn

1
-Danh sách tần số sóng mang dành cho việc chọn ô
Nó được chia thành 3 vùng:
-Vùng 1 do người sản xuất ghi sẵn theo hợp đồng với nhà phát hành - đây là vùng người sử
dụng không thể tiếp cận và bị khóa chặt
-Vùng 2 dùng để ghi nội dung giao tiếp của người dùng trong đó có tên mạng, băng tần, mã
điều chế tín hiệu, số điện thoại (mà thực chất là số thứ tự SIM)… - vùng này người sử dụng
được tiếp cận nhưng không thể thay đổi nội dung.
-Vùng 3 là 1 bộ nhớ mở có dung lượng thường là 16 K đủ để ghi nhớ khoảng 250 số điện
thoại, hiện nay vùng này được mở rộng hơn với SUPER_SIM - đây là vùng dành cho người
khai thác sử dụng.
Nếu chỉ để SIM hoạt động độc lập ta chỉ cần cấp 1 nguồn DC độc lập và 1 đơn vị xung để

kích hoạt CMOS bên trong SIM. Nhưng nếu muốn SIM hòa nhập có ích trong hệ thống của
MS thì bản thân hệ thống điện tử của MS (được gọi là PHẦN CỨNG) phải chấp hành tuyệt
đối hàng loạt các thao tác đóng mở logic (có trước, có sau) được điều khiển bằng 1 chương
trình do con người viết ra (được gọi là PHẦN MỀM) lưu giữ trong module nhớ của hệ thống
MS mà ta thường gọi là FLASH ROM ( bộ nhớ tốc độ cao).
Vậy phần cứng MS gồm những bộ phận gì?
Cũng giống như bất kể hệ thống máy móc nào, hệ thống điện tử của MS cũng bao gồm các
linh kiện chủ động và thụ động hợp thành và được chia thành các khối sau:
1- Khối nguồn (PA): bao gồm nguồn sơ cấp là batt chính và batt phụ thông qua IC nguồn để
cung cấp năng lượng theo định mức cho các khối trong máy.
2- Khối cao tần (HF): nếu coi MS là cái nhà thì đây là cái cổng vào ra của căn nhà đó. Nó có
nhiệm vụ điều chế các tín hiệu (vào - ra) phù hợp với chuẩn để giao tiếp (trong - ngoài).
3- Khối xử lí âm thanh (DSP): bao gồm cả tiền khuyếch đại micro và loa có nhiệm vụ giải mã
và khuyếch đại tính hiệu vào (Rx), và khuyếch đại, mã hóa tín hiệu ra (Tx).Ngoài ra nhiều
nhà thiết kế còn tích hợp trong nó bộ tách tín hiệu điều khiển đưa về CPU để kích hoạt các
chức năng đồng bộ với mô thức làm việc.
4- Trung tâm điều khiển: được hợp thành từ 2 bộ phận:
a/ FlashROM: là bộ nhớ nhanh có nhiệm vụ cất giữ phần mềm hệ thống và phần mềm mở
khác.
b/ CPU: là trung tâm xử lí, có nhiệm vụ tiếp nhận và soạn thảo nội dung phần mềm gửi đến
từ flash thành các lệnh logic để điều khiển hệ thống MS và cũng chính vì nhiệm vụ quan
trọng như vậy nên nó thường “giao du” trực tiếp hoặc gián tiếp với các bộ
phận chức năng quan trọng của hệ thống. Có người gọi chung cả a và b là khối LOGIC.
5- Khối hiển thị: gồm màn hình trong và ngoài (có thể là LCD, TFT, OLED…), có nhiệm vụ
thể hiện các nội dung điều khiển bằng hình ảnh trên màn hình thông qua DDRAM.
6- Bàn phím: bao gồm các hệ thống công tắc thường hở, sẵn sàng thực hiện lệnh thông qua
việc đóng mở Col (cột) và Row (hàng) vào trung tâm xử lí để soạn thảo thành lệnh tương
thích.
7- Là 1 thành phần không thể thiếu được trong bất kì bộ xử lí kĩ thuật số nào - đó là bộ tạo
dao động nhịp chuẩn (clock) 13MHz hoặc 26MHz.

Trong thống kê chức năng, người ta còn đưa vào cả SIM, MMC, CAMERA…coi nó như là
một khối chức năng hợp thành.
Nhưng xét cho cùng đây chỉ là những tích hợp theo ý đồ thiết kế của từng mô hình MS.
Chúng tôi không thống kê.
Hệ thống phần cứng này hợp thành MS và chịu sự điều khiển của CPU.
Vậy CPU lấy gì và căn cứ vào đâu để điều khiển nó (PHẦN CỨNG). Đó là PHẦN MỀM.
Phần mềm là 1 chương trình được sắp đặt sẵn bởi ý đồ của con người và do chính con
người viết ra bằng hệ điều hành của Symbian và tương lai có nhiêu hơn nữa như Linux,

2
Windows
Vậy phần mềm có quan trọng không? Sao lại không!
Nếu không nói nó là "quyền năng tuyệt đối". Vậy phần mềm ở đâu? Tại sao không thấy nó?
Khổ vậy đấy, đã ai trông thấy "linh hồn" bao giờ đâu!
Vậy có thể coi PHẦN CỨNG là thể xác và PHẦN MỀM là linh hồn của MS:
- Nếu không có phần xác thì phần hồn không biết trú ngụ ở đâu và điều khiển cái gì.
- Ngược lại nếu không có phần hồn thì phần xác sẽ "đơ" ra như 1 cục sắt gỉ vô tích sự!
Theo bạn phần nào quan trọng hơn, xác hay hồn?
Các từ viết tắt trong bài:
- BTS (Base Transceiver Station): trạm thu phát gốc
- DSP (Digital Signal Processing): xử lí tín hiệu số
- GSM (Global System of Mobile communication): hệ thống thông tin di động toàn cầu
- HF (High Frequency): tấn số cao
- MS (Mobile Station): thiết bị di động
- SS (Switching Sub-system): hệ thống con chuyển mạch


Bài-2:
Bật máy ?
Cũng đơn giản như việc nhóm lửa


Bài trước chúng ta đã biết sự liên lạc giữa BTS - MS cũng gần giống như sự giao tiếp của
đàn gà mẹ con.

Các lệnh điều khiển hệ thống MS đều được CPU soạn thảo từ nội dung phần mềm của HĐH.
Cũng có nghĩa phần cứng chịu sự điều khiển của phần mềm và nó còn là cái nền để phần
mềm chạy trên đó. Vậy có thể coi phần cứng là thể xác, phần mềm là linh hồn.Bài này ta tiếp
tục quan sát xem MS được khởi động như thế nào và qua mấy bước.
Đặc thù của MS là công cụ hoạt động liên tục và trong môi trường di động nên chế độ làm
việc của nó phải luôn ổn định, phản ứng nhanh để thích nghi kịp thời với từng khoảng thời
gian, không gian. Do vậy nó cần hệ thống xử lí linh hoạt, có tốc độ chuyển tải thông tin cao
với tiêu chí : tiết kiệm nguồn nhất, liên kết bền vững nhất.
Để duy trì và kết nối thành công, trước hết MS phải qua bước khởi động. Đây là thời điểm
quan trọng nhất vì thông qua giai đoạn này nó chứng minh hệ thống phần cứng có tốt không.
1- Sau khi cho “pin” (BATT) vào ổ và ấn công tắc POW, IMEI được đánh thức. Chương trình
khởi động (thường được viết sẵn trong EEPROM) sẽ kiểm soát hệ thống. Thời lượng này rất
ngắn nếu hệ thống nguồn và phần mềm khởi động tốt, nguồn sẽ được bật -> trên màn hình
xuất hiện lời chào và logo nhà sản xuất - cũng có nghĩa MS thông báo giai đoạn khởi động
đã hoàn thành. Đây là thông tin cực kì quan trọng bởi thông qua nó người thợ có thể quan
sát nhanh màn hình, đèn LED để hoạch định phần lỗi cần sửa chữa. Nếu ví đây là công
việc nhóm lửa thì công đoạn này giống như ta bật diêm đưa lửa vào bó củi và bó củi đã bén
lửa. Còn nó có duy trì được lửa hay không là câu chuyện của công đoạn sau.
2- Đây là điểm giao thời của 2 giai đoạn để MS đi vào làm việc. Đầu tiên CPU phải "gọi"
được phần mềm từ flash về và khẩn trương soạn thảo thành các lệnh điều khiển chuyển MS
sang giai đoạn làm việc. Cũng có nghĩa toàn bộ giai đoạn này phần cứng tự động xác lập
chế độ cho MS mà không cần sự can thiệp của con người -> trên màn hình cũng thay đổi
trạng thái bằng cách tự động thay đổi logo của nhà sản xuất sang màn hình nền của phần
mềm HĐH. Ở một số máy, nếu ta tắt máy trong điều kiện không bỏ pin ra ngoài thì khi bật
máy, MS sẽ bỏ qua giai đoạn khởi động mà xác lập ngay màn hình hệ thống.


3
Trên màn hình làm việc có 3 thông tin quan trọng mà máy nào cũng phải phản ảnh :
1/ Tên mạng MS đang kết nối. Nếu mạng không nhấp nháy chứng tỏ sự kết nối của MS bền
vững.
2/ Tình trạng anten - nếu anten vươn cao (có nhiều hạt) chứng tỏ công suất phát và hệ thống
thu phát của MS tốt.
Nếu cả 2 thông tin trên đều tốt chứng tỏ khối cao tần tốt, khối trung tần tốt,và dĩ nhiên cả SIM
cũng tốt
3/ Tình trạng nguồn cấp - căn cứ vào vạch khấc trên hình cục pin người ta đưa ra nhận định
về nguồn
Đến đây, coi như bó củi của ta đã cháy được
Qua nội dung trên ta có thể hình dung : để đưa MS vào làm việc, quá trình bật máy phải qua
2 giai đoạn:
1/ Khởi động - do phần mềm khởi động đảm nhận, giữ vai trò đánh thức hệ thống - ở một số
máy giai đoạn này không lặp lại nếu khi tắt máy ta vẫn để pin trong máy.
2/ Duy trì - do phần mềm điều hành tự động đảm nhận nhờ sự điều khiển của CPU. Nó kế
thừa công việc tiếp theo là kiểm soát, kết nối, điều tiết năng lượng chuẩn xác theo thiết kế
hoặc khai thác các tiện ích khác
Tóm lại, các công việc trên cũng giống như ta nhóm lửa, trước hết phải bật diêm, nếu que
diêm không bị ẩm thì nó phải bùng lửa cho ta nhóm và nó cũng chỉ làm nhiệm vụ đưa lửa
vào bó củi. Nếu bó củi khô, bó củi sẽ cháy và duy trì ngọn lửa. Và tất nhiên khi bó củi đã
cháy lên thì sự có mặt của que diêm chỉ là thừa. Đó là bước chuyển tiếp để đưa MS vào sử
dụng.


Bài-3: Trước khi bật máy
Có điều gì diễn ra bên trong MS?


Bài trước chúng ta đã biết muốn đưa MS vào hoạt động, quá trình bật máy phải qua 2 giai

đoạn khởi động và duy trì. Nếu ví đây là công việc nhóm lửa thì giai đoạn này được coi là
thời điểm ta bật diêm mồi lửa.

Bài này ta vào sâu hơn xem việc mồi lửa diễn ra như thế nào và phải cần điều kiện gì ?
Ngay sau khi cho pin (BATT) vào máy và chưa bật công tắc, nguồn dương pin (+BATT)
được cấp ngay cho các khối cần nguồn dòng lớn như công suất cao tần, công suất âm tần
nhưng quan trọng hơn cả là nó phải được đưa về cổng của các chíp sơ cấp được tích hợp
trong IC nguồn chính để thực hiện các nhiệm vụ sau :
1- Tạo xung RESET (có thể bên trong hoặc ngoài IC nguồn) để phục nguyên phần mềm khởi
động sẵn sàng bước vào gai đoạn bật nguồn.
2- Đưa nhận dạng mẫu pin về IC xạc, sãn sàng xạc pin chính khi có nguồn DC từ bộ xạc
ngoài đưa vào.
3- Thông qua chip điều khiển lai trong PA nguồn pin chính phải thay thế được nguồn Backup
Batt, kế thừa việc cung cấp năng lượng cho mạch dao động thạch anh 32,768 kHz để làm
một số công việc, trong đó có nhiệm vụ tạo nhịp chuẩn cho đồng hồ thời gian. Trường hợp
pin Backup yếu, chip điều khiển sẽ ra lệnh nối thông nguồn từ pin chính xạc bổ sung đảm
bảo cho Backup lúc nào cũng đủ dung lượng điện, sẵn sàng thay thế khi pin chính quá yếu
hoặc được lấy ra ngoài. Ở một số máy hiện đại, tình trạng của pin Backup là một thông tin vô
cùng quan trọng nên chíp điều khiển còn phải sọan thông báo tình trạng Backup đưa về

4
trung tâm xử lý (CPU) để lưu lưu giữ các dữ liệu cần thiết, trước khi thay nó.
4- Ở các mẫu máy có xuất xứ từ châu Âu, pin chính còn phải cung cấp một nguồn xác định
để sãn sàng thay đổi trạng thái cổng G khi bật nguồn.
Tất cả các công việc này phải hoàn tất trước khi bật máy - Điều đó có nghĩa là ngay sau khi
lắp pin vào thì lập tức một vài bộ phận của phần cứng đã phải làm việc - và người ta gọi đây
là giai đoạn tiền trạm. Một số bạn có hỏi nếu có làm việc thì phải có dòng tĩnh thể hiện trên
đồng hồ A ? Xin thưa đây chính là sự kỳ diệu của loại bán dẫn được gọi là MFET. Nó là
“mẫu người” làm thì nhiều nhưng “ăn” lại rất ít.
Rõ ràng để giai đoạn tiền trạm hoạt động chuẩn xác, bản thân pin phải có một dung lượng đủ

lớn để “đủ uy sai bảo” cho các con chíp, và điều này được phản ảnh thông qua cổng BSI mà
thực chất là một mạch phân dòng tự động dưới sự điều khiển của 1 IC so mức được lai
trong mỗi quả “pin”. Điều đó giải thích tại sao khi pin yếu thì việc khởi động MS và xạc pin
thường gặp khó khăn.

Bài-4: Công việc nhóm lửa

Ở bài trước ta đã biết sau khi pin đã gắn vào ổ, một bộ phận trong hệ thống cứng đã phải bắt
tay ngay vào công việc tiền trạm. Nếu hoàn tất coi như ta đã rút que diêm ra khỏi hộp. Công
việc còn lại là xòe lửa và nhóm lửa, trong bài này ta xét xem phải xòe lửa như thế nào.

Khi ấn công tắc nguồn, trạng thái điện trên cổng khởi động nguồn chính sẽ dần thay đổi đến
bão hòa (hoặc không thể tăng hơn nữa hoặc không thể giảm hơn nữa) nhờ 1 điện trở hạn
dòng nối tiếp với công tắc.
- Nếu chip khởi động tốt (thường do 1 SCR kết hợp với 1 CMOS) thì IC nguồn sẽ phóng các
điện áp thứ cấp danh định về hệ thống cứng mà trước hết là các bộ tạo dao động nhịp
chuẩn, chip xử lí trung tâm, flash Ngay lúc này nếu có cơ hội quan sat đồng hồ Ampe ta sẽ
thấy kim đồng hồ nhích lên chút ít và hơi rung.
- Nếu hệ thống này an toàn, phần mềm khởi động sẽ nối thông toàn bộ nguồn thứ cấp còn lại
để cung áp cho hệ thống. Do tất cả linh kiện trong máy đã được cấp đủ nguồn nếu quan sát
trên Ampe kế ta thấy kim dòng đột nhiên dâng cao. Đây chính là giai đoạn xòe lửa và cũng là
khó khăn đầu tiên vì nếu trong hệ thống có một vài lỗi thì việc xác định mức lỗi để đưa ra
quyết định cuối cùng đóng nguồn hay không là tùy thuộc ý muốn của từng nhà thiết kế.
Nhưng tựu trung lại : nếu việc cấp nguồn sẽ gây nguy hiểm cho các bộ phận khác thì CMOS
sẽ hủy lệnh khởi động. Còn nếu hệ thống có thể tự sửa chữa các lỗi này sau khi cấp nguồn
hoặc trong quá trình khởi động nguồn, thì CMOS vẫn quyết định phát lệnh để phần mềm
khởi động làm việc. Đó là việc nối thông một xung nhịp vào hệ thống thứ cấp để duy trì tạm
thời nguồn,và thông báo giai đoạn khởi động đang làm việc bằng cách đưa logo của nhà sản
xuất lên màn hình.
Trong giai đoạn hoàn tất nguồn thì việc tìm phần mềm hệ điều hành để duy trì nguồn liên tục

là nhiệm vụ hàng đầu của chíp khởi động - mà công việc này nhà thiết kế đã định sẵn cho
CPU.
Để kế thừa nhiệm vụ duy trì nguồn, CPU đã phải tự thực hiện một loạt các động tác như tiếp
nhận dao động nhịp chuẩn để khởi động Flash gửi phần mềm về và soạn thảo thành các
lệnh điều khiển trên nền nội dung của nó.
Đây là giai đoạn khó khăn nhất để đánh giá năng lực của hệ thống khởi động :
1- Nếu CMOS không đối ứng được tốc độ của phần mềm hệ điều hành thì sẽ không có nội
dung điều khiển nguồn và như vậy nó sẽ tự tắt máy.
2- Nếu tốc độ phần mềm vượt ngưỡng kiểm soát của CMOS, nguồn sẽ duy trì trong trạng

5
thái "rơi tự do" không ai kiểm soát, kết quả là điện áp thứ cấp sẽ tăng đột biến phá vỡ quy
ước dòng điện làm ngắn mạch linh kiện, dẫn đến hệ thống bị hỏng mà trươc hết là những
khối có kết cấu mảnh, chịu dòng nhỏ như màn hình, màn cảm ứng, CPU

Bài-5: Lửa lan trong đống củi ra sao?

Bài 4 ta đã biết : Cổng CMOS có nhiệm vụ "kích nổ" chiếc xe thứ nhất (phần mềm khởi động)
để cung cấp điện áp cho hệ thống phần cứng chuẩn bị vào làm việc và đồng thời phải "kéo
nổ" chiếc xe thứ hai (phần mềm HĐH). Nếu quá trình kiểm soát hệ thống cứng suôn sẻ, phần
mềm khởi động làm việc - nguồn thứ cấp được xác lập, logo khởi động hiện trên màn hình.

Sau khi được "kéo nổ", chiếc xe thứ hai tự tăng tốc đuổi kịp chiếc xe thứ nhất và đạt đến giai
đoạn đồng tốc để kế thừa nội dung duy trì nguồn từ chiếc xe thứ nhất bàn giao. Kiểm soát sự
đồng tốc này là hệ thống đồng bộ dữ liệu do các bộ tạo xung nhịp chuẩn đảm trách.
Chỉ khi nào giai đoạn 2 hoàn thiện thì logo phần mềm HĐH mới hiện lên màn hình và đây là
thông điệp nói lên bước chuyển giao thế hệ đã diễn ra "thuận buồm xuôi gió".
Ngay sau khi tiếp nhận phần mềm HĐH từ flash, CPU có nhiệm vụ biến ý tưởng của HĐH
thành các ngôn ngữ cụ thể để điều khiển chính xác chức năng hệ thống theo mô hình sau :
1- Áp đặt mã bàn phím và đồng bộ giải mã khối bàn phím mà mục đích cuối cùng là đặt lên

mỗi công tắc phím một tần số xung, hoặc một điện áp xác định phù hợp nội dung của chính
phím đó.
2- Áp đặt mã hiển thị và đồng bộ giải mã khối hiển thị mà mục đích cuối cùng là định vị các
điểm ảnh đen trắng phải đứng đúng vị trí của mình trên màn hình, phản ảnh đúng nội dung
thể hiện, đồng thời phải trùng khớp hình ảnh màu theo một chuẩn nào đó (VGA chẳng hạn).
3- Áp đặt mã âm thanh và đồng bộ giải mã khối âm thanh mà mục đích cuối cùng là biến các
chuỗi tín hiệu số vô hồn tại đầu vào thành tín hiệu âm thanh sinh động nghe được theo một
trật tự định sẵn. Và ngược lại.
4- Nhận dạng ngôn ngữ IMEI để hợp pháp hoá và tiếp nhận hoán vị ngôn ngữ này thành các
lệnh thuật toán nối thông tuyến mã âm thanh mà trước hết là nối thông dữ liệu SIM.
5- Áp đặt mã công nghệ hoặc GSM hoặc DCS hoặc PCS và hệ thống băng tần chuẩn lên IC
xử lí trung tần và dựa vào ngôn ngữ mã này chíp chức năng trong IC trung tần sẽ đưa ra các
điện áp điều khiển (VC, VC ctrl) tương ứng để thay đổi trạng thái trong trung tần và lên cao
tần. Như vậy thực chất việc giải mã trên trung tần là chỉ để đưa ra các điện áp tương thích
để điều khiển PA HF, ANTSW, VCO L Và chính đây là công việc quan trọng hàng đầu
quyến định đến chất lượng sóng và mạng.
6- Đồng bộ toàn bộ hệ thống tăng ích như MMC, camera, màn hình cảm ứng nhằm đưa
chúng về một chuẩn, tránh "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Tất nhiên, mỗi thiết bị có một
định dạng riêng và một chuẩn riêng nằm trong nội dung phần mềm HĐH.
Để hoàn tất một khối lượng nội dung khổng lồ trên chỉ trong mấy giây đầu khi bật máy, hệ
thống truyền dữ liệu phải chuyển động với một tốc độ rất cao. Tuỳ theo định lượng và quy
chuẩn thời gian mà nhà sản xuất sẽ định cấu hình cho MS có tốc độ tương ứng (hiện nay
trên đa số máy đời cao, tốc độ này đạt xấp xỉ tốc độ máy tính thế hệ Pen II). Chính vì vậy
xung nhịp chuẩn phải được nâng cao, thường là 26MHz. Nếu tất cả công đoạn trên hoàn
thiện, đến đây ta có thể thấy :
Bên trong :
- Các nguồn thứ cấp ra trên IC nguồn được điều khiển đóng mở chuẩn xác.
- Nếu cho SIM vào máy, VSIM sẽ duy trì. VCctrl trên PAHF liên tục tăng giảm để điều chỉnh
sự tăng ích của sóng. Các điện áp VC thuộc GSM (hoặc DCS, hoặc PCS) xuất hiện tương


6
thích với chuẩn của SIM.
- Các điện áp trên khối xử lí âm thanh đều có sau đó sẽ giảm dần để đưa MS về trạng thái
chờ.
Bên ngoài :
- Hai màn hình chính và phụ sáng lên, sau đó ít giây ánh sáng này tự tắt, và giữ lại nội dung
hiển thị.
- Giai đoạn thay đổi logo liền kề nhau và không đứt đoạn.
- Toàn bộ LED bàn phím sáng sau đó tự tắt đồng nhất cùng với LED màn hình để chuyển
sang chế độ chờ.
- Trên màn hình lúc này phải thể hiện cột sóng đủ và ổn định, mạng chính xác và vững, pin
phải khoẻ.
- Thay đổi nội dung trên menu hệ thống, máy tỏ ra điều khiển chính xác.
Nếu vì một lí do gì đó, tốc độ xung nhịp không đáp ứng được với tốc độ di chuyển của dữ
liệu sẽ xảy ra hiện tượng "chen lấn xô đẩy" trên các cổng bus, kết quả là các dữ liệu sẽ xung
đột, ứ đọng, dẫn đến việc kiểm soát hệ thống của CPU bị gián đoạn, thậm chí bị kẹt - lúc này
chẳng gì tốt hơn là hoãn cuộc hành quân, mà động tác cụ thể của CPU thường làm là cắt
điện toàn bộ hệ thống. Còn người sử dụng cũng thường làm cái việc đúng nhất là cho nó
vào bệnh viện.

Bài-6: IC nguồn và nhiệm vụ các điện áp thứ cấp

Ở bài 5, ta đã biết để hoàn thành 6 bước trong thời điểm khởi động và duy trì MS, một yêu
cầu hàng đầu được đặt ra là khối nguồn phải hoạt động ổn định trên tất cả các tuyến sơ cấp
và thứ cấp.

Bài này ta khảo sát các tuyến điện áp này trên máy NOKIA DCT4 8310. Từ cực dương pin,
điện áp +3.6V được cấp trước cho các tuyến :
*Vào N700 trên các chân 1, 2, 22 và 3 cấp cho khối tạo chuẩn sóng mang, tiền khuyếch đại
cao tần, xử lí chọn công nghệ GSM - DCS và công suất phát cao tần GSM.

- Trên chân 7 cấp cho công suất phát cao tần công nghệ DCS.
* Vào V300, V301, V329 thông qua R304 và R307 cấp cho khối tăng ích rung và LED.
*Vào B301 cấp cho chuông.
*Vào V351 cấp cho hồng ngoại thông qua R350.
* Tại D200 , nguồn này được chia thành 2 tuyến :
Tuyến 1 :
-Vào các chân N10 và D10 để nhận dòng xạc qua R200.
- Vào L9 cấp cho bộ dò sai xác định dòng xạc cho pin
- Vào F2 cấp cho tiền khuyếch đại và công suất âm tần gồm : chuông, rung, LED.
Tuyến 2 :
Để tạo ra các điện áp thứ cấp cung ứng cho toàn hệ thống, trước khi vào các cổng sơ cấp
của D200, cực dương pin phải đi qua qua tổ hợp lọc LC :
1- Qua L260-C260 vào P8 để tạo điện áp thứ cấp 2,8 vôn VANA tại N8 cung ứng cho tiền
khuyếch đại âm tần.
. Nếu nguồn này sụt, các bộ phận thuộc khối này ( loa, chuông, rung) hoạt động chập chờn,
công suất ra sút kém hẳn - chuông, loa kêu nhỏ, rung yếu.
. Nếu nguồn này mất toàn bộ khối âm tần bao gồm chuông, rung, loa không hoạt
động.Không có AFC về G660, dao động nhịp chuẩn không ổn định - kéo theo sóng mạng
không ổn định , nếu nặng có thể mất sóng ,mất mạng, hoặc cả hai.

7
2- Qua L261-C261 vào N9 và N11 để tạo điện áp thứ cấp 2,8 vôn VFLASH1 và 2 tại M18 và
P11 cung ứng cho các khối tăng ích như IR, radio, và hỗ trợ cho IC xạc.
Nếu mất VFLASH1 thì màn hình, hồng ngoại không hoạt động. Nhiều khi dẫn đến việc định
mức xạc không chính xác ( hoặc dòng xạc quá lớn pin thường hay bị nóng, hoặc dòng xạc
quá non làm thời gian xạc lâu ).
Nếu mất VFLASH2 thì khối radio không làm việc. Nếu yếu nghe đài bị sôi và rú rít.
3- Qua L262-C262 vào N14 tạo điện áp thứ cấp 2,8 vôn VCORE tại M13 cung ứng cho các
IC có chức năng xử lí hệ thống phần mềm mà chủ yếu là cho khối logic (CPU và Flash).
Nếu mất VCORE thì toàn bộ hệ thống lệnh tê liệt, có máy không nạp được phần mềm.

Nếu VCORE yếu hệ thống làm việc không trung thực, lúc có lúc không. Mà hiện tượng
thường thấy là thỉnh thoảng máy bị treo không rõ nguyên nhân.
4- Qua L265-C265 vào A1 tạo điện áp thứ cấp 1,8 vôn VIO tại B1 cung ứng cho các bộ nhớ
đệm (tín hiệu đã vào, chuẩn bị ra) và hệ thống điều khiển chúng.
Điện áp VIO thực chất là điện áp cấp chủ yếu cho RAM (cả DDRAM và SDRAM ), nếu mất
điện áp này CPU không nhận được dữ liệu để xử lí thành lệnh điều khiển và như vậy buộc
phần mềm khởi động phải cắt nguồn. Đặc biệt nếu VIO yếu sẽ làm cho việc nạp phần mềm
không đủ quãng, và quá trình nạp phần mềm thường thất bại.
5- Qua L264-C264 vào P2 và M14 để tạo ra điện áp :
-VR1A trên P14 - 4.75V cấp cho IF.
-VR1B trên M12 - dự phòng .
-VR2 trên L12 - 2,8 vôn cấp cho khối đồng pha Tx (cả GSM và DCS).
Nếu VR1A mất thì các điện áp điều khiển (VC) từ IC trung tần đến chuyển mạch anten,
VCO không có : sóng và mạng theo đó cũng không có. Biểu hiện rõ nét nhất là VC điều
khiển VCO không có.
Nếu VR2 mất thì điện áp cấp cho khối khuyếch đại ra (Tx) mất -> sóng mất .Các băng tần
không làm việc, việc liên lạc bị gián đoạn.
6- Qua L263-C263 vào K13-L11 tạo ra điện áp :
-VR3 trên J12 - 2,8 vôn, cung ứng cho bộ dao động nhịp chuẩn (Clock) và chíp xử lý xung
này , trong đó có việc điều chế thành tín hiệu RFCLCK.
-VR6 trên L13 - 2,8 vôn cấp cho khối xử lý tín hiệu cận trung tần ( IF).
VR3 mất, dao động nhịp chủ không làm việc, mất RFCLCK về vi xử lí, việc khởi động nguồn
không kết quả. Biểu hiện cuối cùng là không hiện logo khởi động trên màn hình. Nên lưu ý là
trong VR3 còn một thành phần điện thứ 2 là xung (AC) kích thích cho sơ cấp thạch anh trong
G660 hoạt động. Nếu mất xung này, có thể thạch anh vẫn cho xung ra thứ cấp ra tại H1,
nhưng chắc chắn không đạt chuẩn, đây là một vấn đề nghiêm trọng vì kèm theo đó là hàng
loạt các lệnh ảo được hình thành. VR3 còn được đưa về F2-ICIF cấp cho chíp điều chế
RFCLCK về CPU trên E4.
Nếu điện áp VR6 mất, khối xử lí tín hiệu gần trung tần không hoạt động>sóng và mạng đều
mất. Nếu điện áp này yếu, sóng và mạng chập chờn.

7- Qua Lo và Co về J14, K11, L14 tạo điện áp VR5 - 2,8vôn trên J11, VR7 - 2,8 vôn trên K12,
VR4 - 2,8 vôn trên K14.
- VR5 cấp cho khối chuyển băng và xử lí băng tần thấp (900 MHz) trên chuyển mạch anten.
Mất điện áp này, băng tần 900 Mhz không hoạt động mà biểu hiện nặng nhất là không liên
kết được mạng có băng tần 900 MHz.
- VR7 cấp cho mạch VCOL. Nếu VR7 mất, không có VCO, không dò được mạng dù bất cứ
hình thức nào. Nếu VR7 yếu, mạng chập chờn và thường phải dò thủ công.Trong thành
phàn VR7 còn có xung kích hoạt cho khối dao động (OSC) hoạt động , tuy nhiên xung này
cao hơn nhiều so với xung đưa vào G660 , và thường được trích xuất từ chíp điều chế
RFCLCK .

8
- VR4 cấp cho khối xử lí tín hiệu RF-IFRX. Nếu mất thì toàn bộ tuyến nhận (Rx) bị treo, trong
đó có mạng. Nếu điện áp này yếu, tín hiệu bị sôi, rối rít và bị ngắt quãng bất bình thường.
Nếu nặng hơn chút ít thì ngay cả chế độ chờ cũng bị ảnh hưởng mà biểu hiện thường thấy là
các cuộc gọi đến hay bị treo vô cớ.
8- Tại chân P3, người ta nối thông với pin BACKUP dẫn nguồn nuôi bộ tạo nhịp chuẩn xung
đồng hồ thời gian và tạo dòng nạp xả trên C213 làm xung kích hoạt sơ cấp cho thạch anh
B200 tại chân P2. Nếu nguồn này yếu, đồng hồ thời gian chạy chậm. Nếu tụ C213 khô, theo
đó nhịp thời gian trên đồng hồ bị loạn, nếu nặng đồng hồ thời gian không chạy. Phụ trợ cho
mạch này là tụ C212 có tính chất giúp CMOS hoạt động ổn định ngay cả khi pin BACKUP
yếu.
Qua diễn giải trên, chúng ta có thể thấy : tương thích mỗi đường vào sơ cấp là những đường
ra thứ cấp tương ứng. Do vậy nếu có hiện tượng một nguồn thứ cấp nào đó bị yếu hoặc mất,
chúng ta chỉ việc kiểm tra sự thông tuyến từ sơ cấp (vào) đến thứ cấp (ra) của tuyến ấy mà
không ảnh hưởng đến tuyến khác.

Bài-7: Bộ dao động nhịp chủ hệ thống (13 hoặc 26MHz) hoạt động như thế
nào?


Có thể nói việc cho ra hoàn chỉnh các điện áp trên thứ cấp IC nguồn là dấu hiệu hoàn chỉnh
của phần mềm khởi động và phần mềm hệ thống. Nhưng để duy trì cho toàn bộ hệ thống
hoạt động bình thường lại còn phải phụ thuộc vào nhiều điều kiện ràng buộc hữu cơ của
phần cứng, mà chủ yếu là sức bền của linh kiện .Trong số đó có một bộ phận thiết yếu mà
bất cứ sự trục trặc nào trong việc điều khiển chức năng hệ thống cũng đều liên quan hoặc
trực tiếp, hoặc gián tiếp đến nó- đó là các bộ dao dộng nhịp chủ (OSC CLCK). Đối với dòng
NOKIA khi nói đến dao động nhịp chủ là người ta nói đến bộ dao động 13 hoặc 26 MHz
Tiếp tục với loại máy 8310 , ở bài này chúng ta tìm hiểu xem nó làm việc ra sao :
Trong giao tiếp kỹ thuật số , xung Clck giữ vai trò như một người nhạc trưởng hướng dẫn
các nhạc công trong dàn nhạc dữ liệu chơi đúng nhịp phách,tiết tấu bản nhạc cần thể hiện
(chính là ngôn ngữ điều khiển chức năng): Đảm bảo lúc nào nhanh, lúc nào chậm , lúc nào
mạnh lúc nào yếu dúng nội dung thể hiện của bản nhạc(bản nhạc ở đây chính là nội dung
phần mềm hệ điều hành ).
Xung clck được tạo ra trong máy 8310 được bắt đầu từ bộ G660 , nguyên lý hoạt động của
nó như sau:
G660 chính là 1 mạch tổ hợp trong đó gồm 2 khối chính : Khối dao động và khối khuyếch đại
dao động .
- Khối dao động đươc tạo thành nhờ 1 tinh thể thạch anh , để thạch anh này hoạt động
người ta phải tìm cách đưa vào cửa sơ cấp của nó 1 xung “mồi” và thường được cài vào
nguồn DC cung cấp cho bộ khuyếch đại . Có 2 cách tạo xung này : Hoặc là trích xung của bộ
dao đông nhịp thời gian nhân lên cao hoặc chia ra thấp tùy theo ý đồ nhà thiết kế , hoặc
được tạo ra bằng một bộ dao động riêng rồi “trộn” luôn với VR3.
- Khối khuyếch đại chủ yếu gồm một vài tranzito có hệ số phẩm chất và tần số cắt cao được
cung ứng năng lượng từ nguồn DC cấp cho bộ dao động.
Như vậy trên bộ dao động 13 (hoặc 26)MHz người ta phải thỏa mãn 2 nguồn điện : AC (xoay
chiều) để kích hoạt thạch anh và DC (một chiều) để nuôi bộ khuyếch đại .Trong NOKIA 8310
nguồn DC này chính là VR3 .
Nguồn DC VR3 còn phải đưa về chân F2-ICIF để cấp cho khối điều chế xung CLCK thành
RFCLCK được tích hợp trong IC này.Nếu tại F2 không nhận được VR3 , tại E4 không có
xung RFCLCK về CPU , CPU không hoạt động .


9
Nguồn AC được trích xuất sau bộ chia 1/2 xung đồng hồ thởi gian 32,768 KHZ được tích
hợp trong IC nguồn và được cài vào VR3 ngay trong IC này .
Để cho thạch anh 32,768 hoạt động , trên cổng vào của thạch anh này nhà sản xuất thường
thiết kế một bộ dao động đơn giản do một tụ điện có điện dung phù hợp với thiết kế, giữ vai
trò nạp xả tạo thành xung đưa vào mồi sơ cấp . Điện dung của tụ điện quyết định thời gian
nạp xả-cũng có nghĩa quyết định tần số xung trên sơ cấp của 32,768. Trong máy 8310 tụ này
chính là C213 OSCCAP trên chân M4. Nếu tụ này hỏng , không có xung mồi cho thạch anh
B200, tất nhiên không có xung 32,768-> xung mồi cho G660 không có , làm G660 liệt . Dĩ
nhiên như vậy sẽ không có xung RFCLCK đưa về CPU : Toàn bộ hệ thống ngừng hoạt động.
Rõ ràng khởi tạo để có dao động nhịp chủ ( hoặc 13 , hoặc 26 MHz ) chính là chiếc tụ nhỏ
xíu C213 này.
Nhưng trong quá trình hoạt động , không phải lúc nào hệ thống tín hiệu cũng ổn định do các
nguyên nhân như nguồn lúc khỏe , lúc yếu ; tín hiệu bị can nhiễu , mạch in bị xâm thực của
môi trường tác động vào hệ thống phá rối sự hoạt động ổn định của thạch anh. Để khắc
phục tình trạng này , tại chân 1 G660 người ta phải đưa 1 xung AFC (tự động điều chỉnh tần
số) được lấy từ khối xử lý âm tần lên hỗ trợ. Muốn có AFC trước hết khối xử lý âm tần phải
hoạt động tốt , mà cụ thể là ICDSP.
Qua nội dung trình bày trên ta có thể hình dung : Để cho bộ dao động nhịp chuẩn 13 hoặc 26
MHz hoạt đông bền vững , ngoài việc bản thân nó phải tốt và việc cấp nguồn cho khối
khuyếch đại biên độ phải chuẩn xác thì hệ thống tín hiệu nội cũng phải tốt . Nhưng nó lại gặp
nhiều nguy cơ mất ổn định do các nguyên nhân sau :
Dao động của thạch anh cũng không nằm ngoài nguyên lý dao động vật lý thông thường nào
có nghĩa là biên độ của nó sẽ tắt dần nếu xung kích hoạt không kịp đáp ứng .Chính vì vậy
xung này thường là nguyên nhân chính làm cho thạch anh chủ hoạt động thiếu chính xác ,
dẫn đến việc điều khiển hệ thống không chuẩn mực-Trong đó có việc điều khiển hệ thống
nguồn. Nếu bạn để ý kỹ hơn sẽ nhận thấy mạch này hoạt động như một biến thể mạch vòng
khóa (PLL) - Tất cả các tín hiệu đều bị giàng buộc lẫn nhau trong một vòng tròn khép kín ,
chúng giám sát,hiệu chỉnh cho nhau chỉ thông qua một vòng tròn tín hiệu - Đó chính là XUNG

DAO ĐỘNG NHỊP CHỦ HỆ THỐNG .

Bài-8: Các xung nhịp trong giao tiếp hệ thống

Qua nội dung bài 7 chúng ta biêt : Trong máy NOKIA 8310, muốn có dao động nhịp hệ
thống, trước hết ta phải giải quyết cho bộ dao động nhịp đồng hồ thời gian 32,768 hoạt động
bằng cách cấp cho sơ cấp thạch anh này một xung khởi động
thông qua C212 (OSC CAP) . Chỉ khi nào dao động nhịp hệ thống hoạt động thì CPU mới
soạn thảo thành công các lệnh điều khiển hệ thống phần cứng đưa MS vào làm việc, và lúc
này mới xuất hiện AFC về ổn định thạch anh dao đông nhịp hệ thống.Hành trình trên thực
chất là một biến thể của mạch vòng khóa, mà bắt đầu chính là chiếc tụ nhỏ C212 trên IC
nguồn.

Bài-9: VCO và nguyên lý hoạ động của nó

Chúng ta đã biết Ms là thiết bị liên lạc di động không dây ký thuật số hoạt động trong môi
trường tần số siêu cao. Vì vậy, ngoài các yêu cầu thông thường của một thiết bị viễn thông,
nó còn đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt khác, trong đó có việc phải luôn luôn
duy trì kết nối chính xác các băng tần đã định trên mọi địa hình với tốc độ cao . Riêng với
khối cao tần, là miền tiếp xúc cửa ngõ nên việc tìm giải pháp nâng cao tốc độ truyền là việc

10
đặc biệt được chú ý đối với bất cứ một nhà thiết kế MS nào. Việc dùng VCO để thực hiện
việc tinh chỉnh đồng bộ sóng mang là một lý do như thế .

Vậy VCO là gì? VCO là chữ viết tắt của từ tiếng Anh: Vol Cotrol OSC tạm dịch là: điều khiển
dao động theo điện áp. Cấu tạo của nó phụ thuộc nhiều vào ý đồ của các nhà thiết kế , hoặc
họ dùng Varicap, hoặc họ dùng gốm áp điện làm phần tử tạo dao động chủ động. Nhưng có
một nguyên lý chung là chúng hoạt đông theo biến thể vòng khóa đáp ứng tần số.
Cấu tạo khối của nó được mô tả như sau: Phần tử dao dộng chủ động được chọn là varicap,

đặc tính của loại linh kiện này là khi ta đặt một điện áp ngược trên 2 đầu cực của nó, lập tức
tiếp giáp của nó sẽ xuất hiện điện dung bằng chính nguồn đặt lên chúng. Điện áp này sẽ xả
ngay khi được nối thông với một phụ tải hoặc thay đổi chiều cấp điện trên cực của
chúng.Quá trình này lặp đi lặp lại nhiều lần với tốc độ cao, sẽ hình thành tần số của
VCO.Như vậy tốc độ nạp xả trong VCO quyết định tần số của chính nó, mà tốc độ này phụ
thuộc vào điện áp điều khiển VC .Áp VC càng cao, điện dung càng thấp, tốc độ nạp xả càng
nhanh-> ứng với tạo tần số càng cao, áp VC càng thấp, điện dung càng cao, tốc độ nạp xả
càng chậm-> ứng với tần số càng thấp.
Có điều các "tín hiệu" này còn phải đi qua bộ phận lọc sai và khuyếch đại đủ lớn rồi mới nối
thông vào khối xử lý tiếp theo nằm trong IF.
Cũng có một giải pháp nữa cho việc tạo ra VCO, đó là tạo mối liên kết của Varicap với gốm
áp điện, nhưng ít được dùng hơn.
Tóm lại để tạo được một tần số có kiểm soát tự động, điều kiện tiên quyết là phải có một linh
kiện có thể tạo ra xung sơ cấp, xung này sẽ được lọc sai và xếp đặt thành chuỗi tần số đáp
ứng với điện áp điều khiển VC thông qua các IC thuật toán .
Mạch VCO trong máy Nokia 8310 :
Trong điện thoại di động Nokia 8310 sử dụng G650 làm bộ dao động VCO, mạch điện hoạt
động như sau:
Điện áp VR7 được lấy từ K12D200, qua điện trở hạn chế dòng R652 và được lọc nhiễu bởi
các tụ C650,655,656,657 ,được đưa vào chân 3G650 cấp cho khối lọc sai và khuyếch đại.
Chân 2,4,6,7,8 G650 được nối "mát", trong đó chân 2,8 cấp "mát" cho khối lọc sai và
khuyếch đại- mất "mát" tại các chân này , khối lọc sai và khuyếch đại trong VCO không hoạt
động, tần số VCO không tới T650, toàn bộ hệ thống cao tần bị tê liệt,sóng ảo xuất hiện.
Chân 4,6,7 cấp mát cho hệ thống varicap tạo xung sơ cấp , mất mát tại các chân này tần số
VCO không đạt chuẩn dẫn đến hệ thống tuning trong IF không với tới các băng tần cao, hoặc
sẽ không đồng bộ được với các chuẩn băng tần có độ chính xác cao, dẫn đến mạng chập
chờn, thậm chí có mạng không đồng bộ được, mà thường là mất một mạng nào đó ( thường
là mạng có chuẩn chất lượng cao, đa dịch vụ).
Điện áp điều khiển tạo tần số VC được lấy ra từ H2N600 và đưa về chân 1 của VCO. Điện
áp này biến thiên từ 0,6vol đến 4,7vol qua điện trở hạn chế dòng R650 , được lọc nhiễu bằng

C652,654và được loại trừ xung tạp tán bằng bộ lọc RC .Xuất xứ của điện áp VC là từ VR6-
4,75vol vào G7N600.Mất điện áp này , không có điện áp VC, VCO không tạo ra tần số , toàn
bộ hệ thống cao tần bị tê liệt.
Nếu phải tham khảo mạch VCO các bạn lưu ý rằng , toàn bộ mạch lọc điện áp trên nó đều là
biến thể của mắt lọc hình "pi"- một kiểu lọc tối ưu cho các thiết bị tần số siêu cao. Dĩ nhiên
can thiệp sâu, cũng như tùy tiện thay đổi thiết kế của nó sẽ gây các hệ lụy trực tiếp.
Tần số VCO trong Nokia 8310 nếu thực hiện chuẩn sẽ đạt từ 3420 đến 3840 MHz được đưa
ra tại chân 5 VCO để tiếp cận bộ biến áp phân pha T650. Cấu tạo của nó dù biểu diễn dưới
hình thức nào thì cũng hoặc là cuộn dây hoặc là gốm áp điện mắc theo chiều đối để có thể
quay pha 90. Sau khi được phân pha thành công , pha “dương” được đưa vào J5,pha “âm”

11
được đưa vào J4 N600, cung cấp cho các tầng thuật toán xử lý tiếp. Mục đích cuối cùng là
lấy ra được tần số đồng bộ được với chuẩn sóng mang băng tần ghi trên SIM.

Bài-10: Mạch TX cao tần và ICPAHF

Như chúng ta biết, khối giao tiếp cao tần có 2 tuyến : Tuyến phát gọi là TX; tuyến nhận gọi là
RX. Chỉ khi nào cả 2 tuyến này hoạt động chính xác thì việc kết nối và duy trì liên lạc mới
được thực hiện. Tất nhiên, để đạt được yêu cầu này thì một loạt các giàng buộc khác như
nguồn, phần mềm, DSP phải tốt. Nhưng trước hết ta tìm hiểu tuyến TX là tuyến được coi là
cánh cổng mở trước để đưa MS tiếp cận với thế giới bên ngoài .

Sau khi lắp SIM, phần mềm hệ thống có trách nhiệm nhận dạng công nghệ và tần số sóng
mang, thông qua CPU đưa tín hiệu này điều chế thành tần số chuẩn ( bộ điều chế này có thể
được tích hợp trong IF, hoặc trong DSP, thậm chí nó được 1 IC riêng rẽ đảm nhiệm). Tần số
chuẩn sau điều chế chính là cái phôi của cột sóng. Có nghĩa là nếu việc điều chế chuẩn này
không thành công, hoặc điều chế bị lỗi thì cho dù tuyến TX có tốt mấy đi nữa trên màn hình
vẫn không hiện cột sóng. Hay nói cách khác, tuyến TX (trong đó có cả IC công suất cao tần)
giống như lòng trắng và lòng đỏ trong quả trứng- chúng chỉ là chất dinh dưỡng nuôi con gà,

còn con gà chính là cái phôi bé tí ẩn trong lòng đỏ .
Đến đây ta đã hiểu: Sóng được hình thành là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, mà mầm
mống của nó bắt đầu được hình thành từ SIM và thông qua bộ điều chế chuẩn do phần mềm
quy ước. Còn tất cả phần cứng trên đường nó đi qua chỉ là bộ phận "nuôi dạy" cho nó "lớn
khỏe" và "sống" cho đúng "chuẩn" của từng công nghệ .
Tuyến TX cao tần và ICPAHF máy 8310 :
Sau khi điều chế thành chuẩn và được "cài" vào cao tần, tín hiệu TX được phân thành pha
âm và pha dương trong IF để rồi cuối cùng đưa ra trên A1-B1 là chuẩn GSM; trên A2-A3 là
chuẩn DCS. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến chuẩn GSM :
Sau khi ra khỏi IF, tín hiệu GSM phải đi qua tụ lọc bù pha C726 và vượt qua bộ lọc nguồn
cấp cho cực máng MOSFET cuối (trong IF) được lấy từ VR2-2,8Vol.Tụ C701,702 cách điện
một chiều, bảo vệ Z700. Mất điện áp tại VR2, tầng sửa méo và khuyếch đại nâng biên trong
IF không làm việc, tín hiệu chuẩn mất, dẫn đến mất cột sóng .
Sau khi được hợp pha nhờ Z700, tần số đầy đủ (hoặc gần đầy đủ) hợp chuẩn GSM được
đưa vào chân 4 IC PAHF.
Nhiệm vụ chính của IC PA là phải làm cho tin hiệu này đủ khỏe để phóng lên ANTEN theo sự
điều khiển của các chân lệnh phát ra từ IF :
* Nguồn cấp cho IC PA được lấy trực tiếp từ BATT và vào các chân chức năng sau:
- Vào trực tiếp chân 3 để cấp năng lượng cho Tranzitor công suất phát cao tần GSM.
- Vào trực tiếp chân 7 để cấp năng lượng cho Tranzitor công suất phát cao tần DCS.
- Thông qua L705 vào chân 2 cấp năng lượng cho khối khuyếch đại trước cuối công suất
GSM.
- Thông qua L708 cấp cho khối dò sai tần (để định lượng việc mở nguồn nhiều hay ít cho
Tranzitor công suất) , nếu đường nguồn này không ổn định, việc cung ứng nguồn không
chính xác, Tranzitorcong suất hoặc mở rất lớn phát nhiệt mạnh , làm giảm tuổi thọ của IC
PA; hoặc không mở, Tranzitor công suất không có năng lượng để làm việc,IC PA nguội lạnh
và kèm theo đó là mất sóng.
- Thông qua L704 cấp cho khối tiếp nhận và xử lý lệnh điều khiển chung . Mất nguồn này
việc thực hiện thông dẫn tuyến cao tần TX bị gián đoạn, mà biểu hiện rõ nhất là mất sóng,
rớt mạng.


12
- Lệnh điều khiển mở mức vào chuẩn GSM phát ra từ chân A6 IF và được đưa vào chân 26
IC PA.
- Lệnh điều khiển mở mức ra chuẩn GSM phát ra từ chân D6IF và được dưa vào chân 19 IC
PA .
- Lệnh điều khiển chọn chuẩn GSM hay DCS được thực hiện thông qua mức logic từ chân
B5 IF và được đưa vào chân 13 IC PA .Nếu mất lệnh này thì chức năng đa công nghệ của
MS coi như bị mất, kèm theo đó là mất sóng, mất mạng.
- Giám sát và điều khiển chuẩn GSM được thực hiện thông qua mực áp tại A5 đưa vào chân
17 sau khi được hạn dòng nhờ R704.
Tất cả các đường lệnh này đều bị chi phối bởi đường hồi tách xung báo về IF trên chân 3
L750 thông qua điện trở so mẫu R755,và được chia định rạng bởi tổ hợp R754, R751, 752,
756, 757 và C 751, 752, 753, 754, 756 mà thành. Nếu đường hồi tách xung này sự cố thì
gần như ta sẽ nhận được cùng lúc sự chập chờn của sóng và mạng.
Cũng từ chân 3 L750 người ta còn đưa tín hiệu này về chân C7 ICIF để nắn ( dưới dạng tách
tần số ) thành tín hiệu điện để giám sát giúp cho các đường lệnh điều khiển luôn luôn ổn định
.
Qua diễn giải trên các bạn nhận rõ một điều là :
IC công suất cao tần của NOKIA 8310 là một tổ hợp lai vỏ kín, trong đó chứa đựng riêng rẽ
hai khối xử lý và khuyếch đại công suất cao tần GSM và DCS. Việc chỉ định cho khối nào
hoạt động là do mã đã được tích hợp trong SIM do lệnh điều hành hệ thống quyết định thông
qua kết quả việc điều chế tín hiệu chuẩn.
Điều khiển và giám sát để IC công suất cao tần (PAHF) hoạt động ổn định và chính xác là
các chíp thuật toán trong IC IF, nhờ sự tác động của việc xử lý tín hiệu báo về .

Bài-11: Nguyên lý hoạt động tuyến nhận (Rx) máy N8310

Trong bài 10 chúng ta đã biết : - “Phôi” sóng được thành hình từ quá trình xử lý cứ liệu định
sẵn trong SIM thông qua ngôn ngữ điều khiển của hệ thống phần mềm IF do CPU gửi lên. -

IC công suất cao tần (PAHF) chỉ là “cô nhi viện” tiếp nhận nuôi dưỡng cái “phôi” này “đủ
lông, đủ cánh” để đương đầu với mọi thử thách “ngoài đời” theo sự “chỉ dẫn” của IF thông
qua các điện áp điều khiển VC.

Như vậy nếu đã có “phôi” mà nơi nuôi dưỡng nó không hoàn thành nhiệm vụ thì nó sẽ “chết
non”, mà màn hình chỉ xác định sự hiện diện của nó khi nó đã thực sự trưởng thành. Cũng
có nghĩa : Nếu mọi sự biểu hiện bất thường của cột sóng trên màn hình thì chúng ta phải
cùng lúc xác định 2 nguyên nhân :
Mất sóng là do chưa “sinh sản” được “phôi” hay do quá trình nuôi dưỡng của công suất.
Bài nay chúng ta tiếp tục tìm hiểu tuyến RX .
Như chúng ta đã biết, sau khi kết nối thành công, chuyển mạch anten (ANTEN.SW) luôn
trong chế độ thường đóng tuyến nhận (ENRX) để sẵn sàng báo gọi. Giám sát chức năng này
là các điện áp VC được cung ứng từ IF.
Đối với các series s60 trở về trước thì bộ ANT.SW đôi khi bị giới thợ chúng ta biến thành
những mối nối vật lý mà không gây ảnh hưởng lớn trên tuyến RX. Bằng chứng là trên hầu
hết các dòng này khi nghi ANT.SW hỏng họ đều đấu tắt đường dẫn ở một băng tần nào đó,
và “nhiều năm vẫn dùng tốt”.
Song ở các máy chất lượng cao thì hành vi này đồng nghĩa với việc chúng ta đã thủ tiêu mất
một chức năng quan trọng là định chuẩn tần số tuyến nhận - Vì sao vậy ? Gọi là “chuyển
mạch anten” thực ra là ta gọi tên chúng theo hiện tượng, nếu gọi đúng tên bản chất của nó

13
thì phải là “Bộ thông tần chuẩn điều khiển theo áp”.
Bởi vậy trên bất cứ bộ chuyển mạch anten nào cũng có sư hiện diện các áp DC (đôi khi lai
thêm AC) điều khiển các băng tần tuỳ theo quy ước.
Nguyên lý hoạt động của chúng như sau :
Sau khi SIM xác lập băng tần và đươc CPU gửi lên IF, các chíp nhận dạng trong IF lập tức
xuất ra điện áp tương ứng điều khiển bộ tạo tần trong ANTSW phù hợp với sóng mang của
băng tần đó. Theo thiết kế kinh điển thì băng tần càng cao điện áp điều khiển cung ứng cho
bộ nạp xả trong ANT.SW càng thấp và ngược lại băng tần càng thấp thì điện áp cung ứng

cho bộ nạp xả càng cao. Do vậy, cùng một đường cấp áp, nếu chúng ta lắp SIM băng tần
900MHz thì áp VC của băng tần này phải khác (hoặc lớn hơn, hoặc nhỏ hơn, tuỳ thiết kế) với
áp VC của băng tần 1800 MHz. Nếu việc cấp áp là đúng chuẩn, ANTSW tốt, dùng phân tích
phổ ta sẽ nhận được dạng sóng mang đúng chuẩn ngay tại đường ra của ANTSW.
Mô hình thiết kế 1 bộ ANT.SW :
Hạt nhân quan trọng trong mỗi bộ ANT.SW là các Varicap có tần số cắt siêu cao, với đặc tính
tự triệt tiêu xung ký sinh. Điện dung của chúng thay đổi tuỳ thuộc vào điện áp phân cực
ngược trên chúng. Để tạo chức năng tạo xung , người ta phải thiết kế kèm theo một
tải xả điện khi bị đảo pha tần số. Do trở tải không đổi, điện áp cấp thay đổi thì tốc độ nạp xả
của chúng thay đổi. Lợi dụng tính chất này mà người ta điều khiển tần số xung của chúng
bằng việc thay đổi điện áp cấp trên K varicap. Đôi khi điện áp này còn tham gia định thiên
cho một bộ khuyếch đại biên độ tích hợp cùng với bộ tạo xung. Ở một số máy đa băng tần
thì ngoài công việc trên , các điện áp VC còn thực hiện chức năng vô hiệu hoá các băng tần
rỗi, có nghĩa là phải làm câm các băng tần còn lại để chúng không can nhiễu sang nhau,
thông qua các chuyển mạch điện tử được tích hợp sẵn. Việc này lý giải vì sao trên các máy
đa băng tần người ta phải cung ứng cho mỗi băng tần một nguồn VC độc lập - Khi nguồn
này đang tham gia tạo xung thì các nguồn còn lại phải tham gia nối mát các bộ dẫn tín hiệu
băng tần rỗi bằng cách hoán đổi vị trí phân cực các phần tử RCV.
Phân tích nguyên lý hoạt động tuyến RX máy N8310 :
Tần số hỗn hợp (hỗn tần) được ANTEN cảm ứng và cho qua bộ bảo vệ X501 vào chân 12
bộ cộng hưởng chuẩn anten mà ta thường gọi là ANT.SW. Nếu là công nghệ GSM, từ D4 IF
sẽ cung ứng điện áp tương thích để tạo tần kết nối, và được nâng sửa biên nhờ bộ phối hợp
RC. Tín hiệu này vào L502-L503 là biến thể của mạch phân tần thông cao được định dạng
bởi cảm kháng ngược chiều của chúng. Do phải vượt qua nhiều mắt lọc có trở thuần thấp
nên tín đến đây đã rất “yếu” nên người ta phải phục hồi “sức khoẻ” cho nó bằng cách
khuyếch đại biên độ nhờ V500 qua tụ C501, tụ này nối thông tín hiệu và có vai trò cách điện
1 chiều bảo vệ cho bộ khuyếch đại trước và sau. Cấp áp cho cực C - V500 là điện áp ra tại
D2 ICIF, điều khiển V500 là điện áp VC được cấp từ B2 trong IF - Mức điện áp VC này còn
tham gia chức năng vô hiệu hoá V500 khi tuyến RX tham gia các băng tần công nghệ DCS.
Khi thu DCS, điện áp tại C-V500 giảm đáng kể, VC trên BV500 tăng , tín hiệu nhiễu từ B

sang C V500 bị nối thông xuống mát qua tiếp giáp CE V500. Các điện áp điều khiển này có
được là nhờ dữ liệu của SIM từ bộ xử lý trong CPU gửi lên.
Sóng chuẩn sau Từ C-V500 được đưa vào bộ định chuẩn phân pha. Đây thực chất là một tổ
hợp gốm áp điện mà phía thứ cấp là hai miếng tinh thể được định dạng ngược chiều nhau và
nhờ vậy biên độ được tách cực tính. Đây là đặc thù nhằm nâng cao tốc độ truyền dẫn thông
tin kỹ thuật số, nó na ná như việc phân dãy số nhà bên chẵn, bên lẻ trên các dãy phố, giúp
cho việc xác định nhanh số nhà cần tìm. Tụ C505, C506 dẫn thông tín hiệu và ngăn dòng
một chiều từ IF xâm thực vào Z501, L501 là cuộn dây bù cực tính, khi pha “dương” tăng,
phần “thừa” sẽ nối thông bù vào pha “âm” đang “âm” hơn và ngược lại .
Nếu toàn bộ các phần tử trên tuyến RX tốt, các điện áp điều khiển chuẩn xác, sóng mang
GSM chứa đựng nội dung thông tin sẽ vào ICIFN600 trên C9,B9 để xử lý thành đúng chuẩn

14

×