Tải bản đầy đủ (.doc) (199 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ giới tính trong hát phường vải nghệ tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.94 KB, 199 trang )

Bộ Giáo dục và đào tạo
Tr ờng Đại học Vinh
Nguyễn Thị Mai Hoa
Đặc điểm ngôn ngữ giới tính
trong hát phờng vải Nghệ Tĩnh
Luận án tiến sĩ ngữ văn
Vinh 2010
1
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các công trình
nghiên cứu khác có liên quan và đợc trích dẫn trong Luận án có chú thích rõ ràng ở
phần tài liệu tham khảo. Mọi t liệu, kiến giải, kết luận là của bản thân, không sao chép
từ bất kì một tài liệu nào. Nếu có gì sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Vinh, ngày 20 tháng 06 năm 2010
Ngời viết
Nguyễn Thị Mai Hoa
2
Mục lục
trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Mở đầu
Chơng 1: Cơ sở lí thuyết và một số vấn đề về hát phờng vải
Nghệ Tĩnh
1.1. Giao tiếp và hội thoại
1.2. Hành động nói
1.3. Về ngôn ngữ và giới tính
1. 4. Về ngôn ngữ và văn hoá
1.5. Phơng ngữ xã hội


1.6. Hát ví phờng vải Nghệ Tĩnh và việc nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ
giới tính
1.7. Tiểu kết
Chơng 2 : Giới tính vai giao tiếp thể hiện qua từ xng hô
trong hát phờng vải
2.1. Vai giao tiếp trong hát phờng vải
2.2. Giới tính thể hiện qua hệ thống từ xng hô trong hát phờng vải
2.3. Tiểu kết
Chơng 3: Ngôn ngữ giới tính thể hiện qua một số hành động
nói trong hát phờng vải
3.1. Dẫn nhập
3.2. Hành động nói trong một số bớc hát của cuộc hát phờng vải lề lối
3.3. Tiểu kết
Chơng 4: Giới tính vai giao tiếp thể hiện qua cách sử dụng
ngôn từ trong hát phờng vải
4.1. Cách dùng một số lớp từ đặc trng về giới
4.2. Cách dùng hệ thống biểu tợng nói về giới
4.3. Cách dùng hệ thống từ ngữ chỉ thời gian, không gian
4.4. Cách dùng nghệ thuật chơi chữ và dẫn ngữ
4.5. Tiểu kết
Kết luận
Danh mục những bài báo, công trình đ công bốã
Tài liệu tham khảo
2
3
4
5
6
17
17

26
29
34
37
40
55
58
58
70
95
97
97
104
141
144
144
153
161
177
193
195
198
199
3
DANH MụC CáC Kí HIệU, CáC CHữ viết tắt
1. CDDC : ca dao dân ca
2. DCNT: Dân ca Nghệ Tĩnh
3. DCQH: Dân ca quan họ
4. HĐN: hành động nói
5. HPV: hát phờng vải

6. HPVTL: Hát phờng vải ở Trờng Lu
7. Sp: Ngời tham gia vào hội thoại
8. Sp1: Vai nói
9. Sp2: Vai nghe
10. TXH: từ xng hô
4
DANH MụC Các bảng
Bảng 1.1: Tổng quát năm lớp hành động nói của Searle 1979 (theo Yule 1996)
Bảng 1.2: Các đặc trng của loại hình văn hoá gốc nông nghiệp (Theo Trần Ngọc
Thêm 1977)
Bảng 2.1: Phân loại lời hát phờng vải theo vai giao tiếp qua các chặng hát
Bảng 2.2: Quan hệ tơng tác vai giao tiếp qua các cặp từ xng hô đầy đủ
Bảng 2.3: Tổng hợp các cặp từ xng hô trống từ chỉ ngôi
Bng 3.1: H nh động nói trong hát phờng vải xét theo giới tính vai giao tiếp
Bảng 4.1: Tổng hợp số liệu lớp từ ngữ về giới trong hát phờng vải
Bảng 4.2: Tổng hợp lớp từ có ý nghĩa định danh nói về giới trong hát phờng vải
Bảng 4.3: Tổng hợp lớp từ chỉ quan hệ thân tộc nói về giới
Bảng 4.4: Tổng hợp lớp từ chỉ ngoại hình nói về giới
Bảng 4.5: Tổng hợp lớp từ chỉ tài năng, phẩm chất, phong thái theo giới tính
Bảng 4.6: So sánh lớp từ chỉ công việc gắn với giới tính
Bảng 4.7: Tổng hợp hệ thống biểu tợng theo vai giao tiếp trong hát phờng vải
Bảng 4.8: Tổng hợp từ ngữ biểu thị thời gian trong hát phờng vải
Bảng 4.9: Tổng hợp từ ngữ biểu thị không gian trong hát phờng vải
Bảng 4.10: Tổng hợp các phơng tiện, biện pháp tu từ trong hát phờng vải
Bảng 4.11: Tổng hợp các biện pháp chơi chữ trong hát phờng vải
Bảng 4.12: Tổng hợp dẫn ngữ trong hát phờng vải
27
36
60
82

88
98
143
144
146
147
149
150
153
161
169
177
179
188
5
Mở ĐầU
1. Lí DO CHọN Đề TàI
1.1. Hát ví phờng vải (HPV) là một thể loại đặc sắc trong kho tàng thơ ca dân gian
xứ Nghệ vốn vô cùng phong phú, đa dạng. Gắn với môi trờng diễn xớng, có nguồn gốc từ
hát đối đáp của nam nữ thanh niên trong lao động sản xuất, dần trở thành đối đáp giao
duyên nam nữ, HPV là một trong những hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần một thời
của ngời xứ Nghệ, phản ánh sâu sắc văn hoá đặc trng xứ Nghệ. Xuất phát từ hoàn cảnh
giao tiếp này, các vai giao tiếp trong HPV có thể quy về hai giới: vai nam và vai nữ. Theo
đó, đặc trng ngôn ngữ giới tính cũng thờng chi phối trực tiếp tới nội dung và hình thức biểu
hiện lời ca của các vai giao tiếp. Mặt khác, ở một mức độ nhất định, ngôn ngữ giới tính
trong HPV cũng chịu ảnh hởng của đặc trng văn hoá xứ Nghệ.
1.2. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về ca dao dân ca (CDDC) nói chung, HPV nói riêng,
các nhà nghiên cứu thờng tập trung quan tâm khai thác ở góc độ văn học. Hớng nghiên cứu
từ góc độ ngôn ngữ học là một hớng nghiên cứu ít đợc chú ý tới.
Thời gian gần đây, một số nhà nghiên cứu đã vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học xã hội

và lí thuyết dụng học vào việc khai thác giá trị của thơ ca dân gian. Nhờ đó, các giá trị
ngôn ngữ của thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh, của HPV Nghệ Tĩnh đã đợc soi xét trên một số
bình diện từ nhiều góc độ khác nhau. Mặc dù vậy, các công trình nghiên cứu đã có vẫn
cha đặt ra vấn đề tìm hiểu đặc trng ngôn ngữ giới tính trong các loại hình văn học nghệ
thuật nói chung cũng nh trong HPV nói riêng; mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính
vẫn là một lĩnh vực mới mẻ và số công trình nghiên cứu còn khiêm tốn. Cha có công
trình nào bàn chuyên về đặc điểm ngôn ngữ giới tính trong HPV Nghệ Tĩnh. Vì vậy,
đây vẫn còn là một hớng đi khá mới mẻ, hấp dẫn.
1.3. Với những kết quả đã đạt đợc, lí thuyết ngôn ngữ học xã hội và lí thuyết dụng
học đang ngày càng khẳng định mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính, giữa ngôn ngữ
giới tính và văn hoá. Nh vậy, việc nghiên cứu, xác định yếu tố giới tính trong ngôn ngữ
đối đáp nam nữ của HPV cũng sẽ góp phần tìm hiểu đặc trng ngôn ngữ, văn hoá và con
ngời xứ Nghệ. Và công việc này càng có ý nghĩa hơn khi đây vẫn là một mảng đề tài
cha có những công trình nghiên cứu chuyên sâu.
6
Chính ý nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu yếu tố giới tính trong HPV và tính
mới mẻ, hấp dẫn của vấn đề này là cơ sở để chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: "Đặc
điểm ngôn ngữ giới tính trong hát phờng vải Nghệ Tĩnh".
2. LịCH Sử VấN Đề
2.1. Về vấn đề quan hệ giữa giới tính và ngôn ngữ
Quan hệ giữa giới tính và ngôn ngữ đã và đang là đối tợng nghiên cứu của nhiều
lĩnh vực chuyên môn trong xã hội. Nó không còn là lĩnh vực riêng của các nhà ngôn
ngữ học và những nhà chuyên môn về ngôn ngữ mà còn đợc nhìn rộng ra theo cách tiếp
cận ngôn ngữ - xã hội liên quan đến hàng loạt vấn đề khác nh sinh học, địa vị, vai trò
trong gia đình cũng nh trong xã hội của mỗi giới. Tính xã hội của vấn đề còn thể hiện ở
sự đông đảo, đa dạng của giới chuyên môn đã và đang quan tâm nghiên cứu yếu tố giới
tính trong ngôn ngữ nh: các nhà ngôn ngữ học, các phóng viên, công chức, biên tập
viên, các nhà quản lí, các nhà giáo dục học, tâm lí học, sử học, xã hội học, luật s Theo
đó, phơng pháp nghiên cứu và trọng tâm phân tích cũng khác nhau. Những ngời nghiên
cứu không chuyên về ngôn ngữ có thiên hớng tập trung vào một số hiện tợng nh sự định

kiến về giống, sự thiếu cân đối trong việc sử dụng từng cặp, lối diễn tả nam giới và nữ
giới, tính vô hình của nữ giới trong ngôn ngữ, hoặc tập trung vào kết cấu của những
diễn ngôn mang tính kì thị giới. Ngợc lại, các nhà ngôn ngữ học lại sử dụng các phơng
pháp tiếp cận chuyên ngành (phơng pháp ngôn ngữ học so sánh, phơng pháp ngôn ngữ
học lịch sử, phơng pháp phân tích diễn ngôn ) để khảo sát, nghiên cứu những biểu hiện
giới tính trong ngôn ngữ thể hiện trên một số phơng diện: âm vị, từ vựng, ngữ pháp,
phong cách ngôn ngữ [55, tr. 27, 28]. Để có căn cứ lí luận cho việc triển khai các nội
dung của đề tài, ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới một số kết quả nghiên cứu về vấn đề
quan hệ gữa giới tính và ngôn ngữ trong lĩnh vực ngôn ngữ học.
Những phát hiện về sự khác biệt trong ngôn ngữ giữa nam và nữ đã có từ lâu, nhng
phải đến đầu thế kỉ XX, ấn tợng về sự khác biệt này mới thực sự hình thành rõ nét nhờ
môt số công trình nghiên cứu chuyên sâu. Đó là sự khác nhau xét về mặt âm vị, cách
dùng từ, phát âm mới đợc phát hiện qua kết quả quan sát, khảo cứu của E.d.Sapir đối
với hiện tợng sử dụng luân phiên một số âm vị khác nhau giữa nam và nữ trong tiếng
Yana Inndian; của O.Jesperson về sự khác biệt trong từ vựng và phong cách của nam và
7
nữ khi giao tiếp bằng tiếng Anh; của Yuan RenZhao, Chen Songling khi nghiên cứu về
tiếng Trung Quốc Sự khác nhau xét về mặt ngữ pháp phải kể đến các nghiên cứu của
Mary Haas (tiếng Koasati - Mĩ), Ralph Fasold (tiếng Kurux - ấn Độ) Theo từng mức
độ nhất định, các nghiên cứu đều khẳng định những biểu hiện khác biệt rõ rệt trong
ngôn ngữ của giới nam và giới nữ trên các bình diện: từ vựng, ngữ âm, ngữ pháp. Bên
cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn tập trung khảo sát và chỉ ra sự phân biệt đối xử về giới
tính thể hiện trong ngôn ngữ nh: sự định kiến về giống, tính vô hình của nữ giới trong
ngôn ngữ, kết cấu của những diễn ngôn mang tính phân biệt đối xử về giới tính, sự phân
biệt đối xử về giới tính trong xã hội theo quan niệm nam tôn nữ ti. Có thể kể đến
công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học nh: Allen Nilsen, B. Thorne,
C.Kramarac và N. Henley (Dẫn theo [93, tr. 146-155]).
Một khía cạnh khác cũng đợc quan tâm là vấn đề phong cách ngôn ngữ mang yếu
tố giới tính. Ngời có công đóng góp đáng kể trong nghiên cứu phong cách ngôn ngữ nữ
giới là nhà ngôn ngữ học Mĩ Robin Lakoff. Từ những khảo sát về cách sử dụng tiếng

Anh của phụ nữ trung lu trong môi trờng bà sống, Lakoff (1975) đã đa ra giả thuyết về
ngôn từ của phụ nữ trung lu: về âm, có khuynh hớng lên giọng ở cuối câu khẳng định
và thờng sử dụng những biến thể ngữ âm uy tín; về từ vựng, nữ dùng những từ làm nhẹ
ý/hoặc nhấn mạnh nhiều; về cú pháp, thờng dùng những câu hỏi kèm theo câu khẳng
định và những câu cực kì lịch sự Theo Lakoff, phong cách ngôn từ mà phái nữ có
khuynh hớng sử dụng để duy trì bản sắc nữ giới đã tạo cho ngời nghe một cái nhìn
không hay về khả năng của ngời nói và làm cho phái nữ bị thiệt thòi trong giao tiếp xã
hội (dẫn theo [89, tr.14, 15]). Những giả thuyết của bà đã đa đến nhiều cuộc tranh luận
sôi nổi và nhiều nghiên cứu thực nghiệm trong hơn hai thập kỉ theo tinh thần hoặc tiếp
thu, phát triển, hoặc chỉ ra những điểm cần phải tiếp tục bàn luận để có cái nhìn toàn
diện và sâu sát hơn. Ngoài ra phải kể đến một số kết quả nghiên cứu của W.Labov
(1970), P. Trudghill (1972) với những kết luận quan trọng về phong cách ngôn ngữ giới
tính: "ở phong cách thận trọng phụ nữ ít dùng biến thể phi chuẩn hơn nam, và mẫn cảm
với mô hình uy tín hơn nam" [100, tr.187]; "Mô hình khác biệt theo giới tính khác với
chuẩn mực thông thờng cho thấy một sự biến đổi ngôn ngữ đang xảy ra: nữ trung lu đi
8
tiên phong trong việc dùng các dạng thức chuẩn mực còn nam công nhân đi tiên phong
trong việc dùng các dạng thức quy chuẩn" [162, tr. 207].
ở Việt Nam, thời gian gần đây, lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ giới tính đã bắt đầu
đợc các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Trong cuốn Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề
cơ bản (1999), từ những khác biệt trong ngôn ngữ giới tính xét trên hai mặt: tiền đề lí
thuyết và kết quả khảo sát thực tế, tác giả Nguyễn Văn Khang đề cập tới vấn đề ngôn
ngữ và giới tính trên cơ sở xem xét và phân tích các vấn đề cụ thể: sự phân biệt đối xử
về giới tính thể hiện trong ngôn ngữ; phong cách ngôn ngữ của mỗi giới, v.v và đ a ra
một số kết luận: Cùng một vấn đề nhng cách diễn đạt của nam giới thờng "mạnh
mẽ , khẳng định/phủ định một cách dứt khoát , nữ giới thờng chọn cách diễn đạt "dài"
và "uyển chuyển hơn; nam giới "thích dùng các câu khẳng định, yêu cầu, ra lệnh" một
cách thẳng thắn , công khai và do đó mệnh lệnh của nam giới th ờng chứa đựng cả
quyền lực bắt phải phục tùng thì nữ giới lại "a dùng những câu phối hợp xin - yêu cầu
- ra lệnh, thể hiện yêu cầu một cách lịch sự , kín đáo , bỏ ngỏ sự khẳng định

chính vì vậy, "cách diễn đạt của nữ giới lại gây ấn tợng mạnh và trong nhiều trờng hợp
đạt hiệu quả cao hơn nam giới. Đồng thời khẳng định rằng "yếu tố giới tính là sự tồn
tại có thực trong giao tiếp ngôn ngữ từ hai chiều: chiều tác động của giới tính đến sự
lựa chọn ngôn ngữ trong giao tiếp và chiều thông qua giao tiếp yếu tố giới tính đợc bộc
lộ [93, tr. 144-168]. Trớc đó, trong b i "Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ
(1996), tác giả đã xem xét yếu tố giới tính thông qua ứng xử giao tiếp trên cơ sở hai góc
độ: ngôn ngữ nói về mỗi giới và ngôn ngữ của mỗi giới. Khi đề cập tới ngôn ngữ nói về
mỗi giới, tác giả chỉ đa ra một nhận xét duy nhất là những từ nhất định chỉ dùng cho
giới này hoặc giới kia mà thôi [92, tr. 176-186].
Từ góc độ nghiên cứu hiện tợng phân biệt giới tính của ngời sử dụng ngôn ngữ
trong tiếng Nhật, tác giả Nguyễn Thị Việt Thanh (1999) đã đa ra 5 tiêu chí phân biệt
ngôn ngữ của nam giới và nữ giới dựa trên đặc điểm quan trọng là ngôn ngữ nữ giới
Nhật có tính mềm mại và tính chuẩn mực, cụ thể là: (1) Sự khác biệt trong sử dụng từ
để gọi giữa nam giới và nữ giới mà đặc quyền sử dụng thuộc về giới nam, nếu nữ giới
dùng sẽ bị đánh giá là xấc xợc; (2) Sự "mềm mại" trong ngôn ngữ nữ giới đợc thể hiện
9
trong việc sử dụng vốn từ vựng tiếng Nhật, cụ thể là nữ giới hay dùng từ thuần Nhật dễ
hiểu, còn nam giới lại thờng dùng từ Hán - Nhật có tính trang trọng; (3) Việc sử dụng
thán từ ở cuối câu cũng có sự phân biệt về giới tính thể hiện qua hiện tợng nam giới th-
ờng thêm vào cuối câu những từ cảm thán, tình thái từ tạo nên cảm giác mạnh mẽ, dứt
khoát; (4) Nữ giới tuân thủ các quy định về sử dụng kính ngữ chặt chẽ hơn nam giới;
(5) Cách phát âm của nữ giới Nhật đợc ngời Nhật coi là chuẩn hơn nam giới. Hay nói
cách khác, nữ giới phát âm rõ ràng, không nuốt âm, biến âm trong lời nói (Dẫn theo
[149, tr. 57-59]).
Trong một công trình nghiên cứu yếu tố giới tính trong cách xng gọi của trẻ em tr-
ớc tuổi đến trờng ở Hà Nội, Hà Tây, tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình đã đi đến kết luận:
trẻ em nữ dùng nhiều biến thể chuẩn hơn trẻ em nam, trẻ em xng và gọi không "nhầm
giới". Còn các tác giả Vũ Thị Thanh Hơng (1999), Vũ Tiến Dũng (2002) lại quan tâm
nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ giới tính trên cơ sở chỉ ra ngôn ngữ đặc trng của từng giới
cũng nh mối quan hệ giữa giới tính và lịch sự, và cùng chung nhận định: mối quan hệ

giữa giới tính và ứng xử lịch sự không đơn giản mà là tơng liên phức tạp với các tham
số xã hội tình huống khác, trong đó không chỉ có giới, mà cả tuổi tác, nghề nghiệp của
ngời nói, mối tơng liên về quyền và khoảng cách xã hội giữa ngời nói và ngời nghe; từ
đó rút ra kết luận: xu hớng chung là nữ lịch sự hơn nam; và nữ giới thờng nhấn mạnh
đến quan hệ quyền lực hơn nam giới, ngợc lại, nam giới thờng nhấn mạnh đến quan hệ
thân hữu nhiều hơn [44, tr. 172; 85, tr. 17-30].
Từ phơng diện nghiên cứu sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ qua cứ liệu tiếng Anh
và tiếng Việt, Trần Xuân Điệp (2005) lại tập trung phân tích khía cạnh phân biệt đối xử
trên cơ sở giới tính trong ngôn ngữ. Đối với nữ giới, sự kì thị giới tính đợc xem xét qua
các vấn đề: phạm trù giống trong ngữ pháp và quan hệ của nó với phạm trù giới (về mặt
sinh học); thói quen đánh dấu về giống, đặc biệt là đối với danh từ tác nhân chỉ ngời; sự
thiếu cân đối về mặt ngữ nghĩa giữa các từ chỉ nam giới và các từ chỉ nữ giới; sự kì thị
giới tính trong các tập quán gọi tên/xng hô và sự rập khuôn về giới tính trong ngôn ngữ.
Đối với nam giới, sự kì thị giới tính đợc đề cập tới thông qua việc phân tích 3 hình thức
thể hiện: những cách sử dụng thể hiện tính loại trừ giống, những cách sử dụng thể hiện
tính hạn chế giống, sự rập khuôn tiêu cực về nam giới [55, tr. 57-162].
10
Việc điểm lại các công trình nghiên cứu đã có cho thấy ngôn ngữ giới tính đang
dần trở thành một lĩnh vực nghiên cứu hấp dẫn, thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều
của các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà ngôn ngữ học và những ngời quan tâm tới vấn
đề ngôn ngữ và giới tính. Dựa trên những cứ liệu đợc thu thập một cách chính xác và có
hệ thống mô hình khác biệt theo giới tính trong các cộng đồng ngôn ngữ và các hoạt
động khảo sát cụ thể, xác thực về việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của một số nhóm đối
tợng cụ thể, các nhà nghiên cứu đều khẳng định sự tồn tại có thực của yếu tố giới tính
trong giao tiếp ngôn ngữ và bớc đầu đa ra những kết luận, lí giải về một số điểm khác
biệt cơ bản trong ngôn ngữ giao tiếp của giới nam và giới nữ.
2.2. Về vấn đề ngôn ngữ giới tính trong hát phờng vải Nghệ Tĩnh
Từ khoảng giữa thế kỉ XX trở về sau này, các nhà nghiên cứu văn học dân gian đã
có một số công trình có giá trị về thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh, tiêu biểu là: Nguyễn
Chung Anh với Hát ví Nghệ Tĩnh (1958); Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao với Hát

giặm Nghệ Tĩnh (1962, 1963); Ninh Viết Giao với các công trình Về văn học dân gian
Nghệ Tĩnh (1982), Hát phờng vải Nghệ Tĩnh (1993), Về văn hoá xứ Nghệ (2003); Vi
Phong với Dân ca Nghệ Tĩnh (2000) Trong lĩnh vực ngôn ngữ học đã có một số nhà
nghiên cứu quan tâm tới việc khai thác giá trị thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh: Nguyễn Nhã
Bản (chủ biên) với Bản sắc văn hoá của ngời Nghệ Tĩnh (2001), Cuộc sống của thành
ngữ, tục ngữ trong kho tàng ca dao ngời Việt (2003); Ngô Văn Cảnh với Đặc trng hình
thức của các thể thơ dân gian Nghệ Tĩnh (Luận án TS, 2004) Ngoài ra, có khá nhiều
bài viết của các nhà nghiên cứu văn học dân gian, các nhà ngôn ngữ học bàn về văn hoá
dân gian xứ Nghệ đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
Từ các góc độ nghiên cứu với nhiều phơng pháp nghiên cứu khác nhau, những ng-
ời quan tâm tới văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh đã khai thác nét đặc sắc về nội dung, nghệ
thuật của các loại hình văn học dân gian mang đậm màu sắc văn hoá xứ Nghệ. Một số
công trình đã đề cập sơ lợc tới vấn đề giới tính trong CDDC (vai giao tiếp, hình tợng
nhân vật nữ ). Chẳng hạn nh trong Hát giặm Nghệ Tĩnh (1963), tác giả Nguyễn Đổng
Chi đã phân loại hát giặm vè và hát giặm nam nữ. Tuy nhiên, việc xác định hát giặm
nam nữ chỉ giới thuyết về chủ đề, hình thức của các bài hát giặm, cha đặt ra vấn đề giới
tính vai giao tiếp.
11
Ngời đầu tiên thực sự quan tâm tới giới tính vai giao tiếp trong HPV là nhà nghiên
cứu văn hoá dân gian Ninh Viết Giao. Trong Tiểu luận về HPV, tác giả đã đề cập tới
yếu tố giới tính khi phân tích nguồn gốc HPV, giới thiệu lề lối cuộc hát và chân dung
các nghệ nhân phờng vải. Về nguồn gốc HPV, theo tác giả, ban đầu là thể hát ví gắn
với nghề kéo vải của phụ nữ, sau phát triển, mở rộng dần thành tục hát đối đáp giữa
nam và nữ, trở thành một hình thức sinh hoạt văn hoá - văn nghệ đặc sắc của nhiều
vùng quê xứ Nghệ. Giới thiệu thể thức, thủ tục cuộc hát, tác giả mô tả hoạt động của
các vai giao tiếp đối đáp là phờng nam, phờng nữ, đồng thời sắp xếp lời hát thành các
chặng, các bớc theo giới tính vai giao tiếp (nam hát, nữ hát; nam hỏi, nữ hỏi). Trong
phần giới thiệu chân dung các nghệ nhân (các nhà nho, các nghệ nhân dân gian), tác giả
đã quan tâm tới yếu tố giới tính khi phân tích, phác hoạ chân dung của các nghệ nhân
phờng vải. Đó là các nhà nho "mẫn tiệp, nhanh trí, uyên bác, nhiệt thành", có hoài bão,

chí khí hơn ngời. Còn các "nghệ nhân tại gia" lại đem đến cho HPV dấu ấn đậm nét qua
nhiều giai thoại gắn với tên tuổi của họ
(1)
. So sánh giữa các vai giao tiếp, tác giả đã nêu
một số nhận xét về các nữ nghệ nhân phờng vải nh có "cách phô diễn, đối phó nhanh
nhạy, đối chọi, tấn công tài tình", luôn "giành thế chủ động", do vậy "nhiều phen họ
làm cho một số vị có tên tuổi trong làng khoa bảng sững sờ thua cuộc [I, tr. 135].
Kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố cho thấy: (i) Hớng nghiên cứu
về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính ở Việt Nam vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ, số
lợng công trình nghiên cứu cha nhiều. Việc nghiên cứu, khảo sát ngôn ngữ giới tính chủ
yếu đang tập trung ở một số nhóm đối tợng, trên một số địa bàn nhất định và trong môi tr-
ờng giao tiếp sinh hoạt. (ii) Hớng nghiên cứu chung về CDDC xứ Nghệ chủ yếu tập trung
vào các đặc điểm hình thức, những giá trị nội dung của các thể loại ca dao, vè, hát giặm,
hát ví Các công trình nghiên cứu đã có ch a đặt ra vấn đề tìm hiểu đặc trng ngôn ngữ
giới tính trong hình thức nghệ thuật dân gian đặc sắc này. Tuy nhiên, với những kết quả đã
đạt đợc, các công trình nghiên cứu đã có mang ý nghĩa gợi mở, cung cấp cơ sở lí luận và
một số t liệu quan trọng cho chúng tôi trong việc nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ giới tính
trong HPV Nghệ Tĩnh.
(1)
Trong dân gian còn lu truyền nhiều giai thoại về tài hát ví phờng vải của các nghệ nhân dân gian nh cô Sạ, cô
Cúc, cô Nhẫn, bà Dũng Thơn, bà cháu Ban [I, tr. 134]
12
3. ĐốI TƯợNG, nguồn t liệu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu của luận án là đặc điểm ngôn ngữ giới tính thể hiện qua lời
hát của vai nam/nữ trong HPV Nghệ Tĩnh.
3.2. Nguồn t liệu
T liệu đợc sử dụng phục vụ quá trình nghiên cứu là những lời HPV đã đợc su tầm
và tập hợp trong cuốn Hát phờng vải của Ninh Viết Giao (2002). Ngoài ra, các t liệu từ
hai văn bản: Hát phờng vải ở Trờng Lu của các tác giả Vi Phong, Th Hiền (1997) và

Dân ca Nghệ Tĩnh của tác giả Vi Phong (2000) đợc dùng với mục đích đối chiếu, so
sánh, liên hệ, mở rộng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung xem xét, so sánh ngôn ngữ lời HPV theo giới tính vai giao
tiếp với hai nhóm t liệu: lời nam và lời nữ; mô tả đặc điểm ngôn ngữ của các vai giao
tiếp nam/nữ trên một số phơng diện nh: từ xng hô, các hành động nói đóng vai trò chủ
đạo trong một số bớc hát, cách sử dụng từ ngữ và các biện pháp, phơng tiện nghệ thuật.
Từ đó rút ra những kết luận bớc đầu về những điểm tơng đồng và khác biệt trong ngôn
ngữ của vai giao tiếp nam/nữ. Vấn đề so sánh, đối chiếu kết quả nghiên cứu HPV Nghệ
Tĩnh với CDDC các vùng miền hoặc các thể hát ví khác trong kho tàng thơ ca dân gian
xứ Nghệ cần đợc thực hiện bằng một công trình nghiên cứu khác có quy mô lớn hơn.
Với khả năng và điều kiện có hạn, ngời viết không đặt ra ở luận án này.
4. mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Kết hợp lí thuyết dụng học về giao tiếp và lí thuyết ngôn ngữ học xã hội về giới
tính, luận án khảo sát và xác định những đặc điểm ngôn ngữ mang đặc trng giới tính
trong HPV Nghệ Tĩnh. Từ đó góp phần làm rõ thêm một số vấn đề về văn hoá giao tiếp
xứ Nghệ và về con ngời xứ Nghệ từ góc nhìn lí thuyết ngôn ngữ giao tiếp và giới tính.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể đợc đặt ra là:
13
- Khảo sát, xác định, phân tích cứ liệu cụ thể (các lời HPV đợc xác định theo giới
tính), trên cơ sở đó xem xét biểuừ hiện đặc điểm ngôn ngữ giới tính các vai giao tiếp
trên một số phơng diện: từ xng hô, các hành động nói trong một số bớc hát, cách thức
sử dụng từ ngữ và một số biện pháp, phơng tiện tu từ.
- Tìm hiểu những điểm tơng đồng và khác biệt trong ngôn ngữ HPV đợc hình
thành dựa trên cơ sở khác biệt về giới tính.
- Bổ sung kết quả khảo sát, đánh giá t liệu cho việc nghiên cứu văn hoá xứ Nghệ,
con ngời xứ Nghệ qua HPV.
5. Phơng pháp nghiên cứu

Đây là đề tài đợc nghiên cứu trên cơ sở lí thuyết dụng học và lí thuyết ngôn ngữ
học xã hội, với đối tợng là nguồn t liệu văn học (hát ví phờng vải), do vậy, phơng pháp
chủ đạo đợc sử dụng trong công trình nghiên cứu bao gồm: thống kê, miêu tả, phân
tích, quy nạp, so sánh.
- Phơng pháp thống kê đợc sử dụng để thống kê nguồn t liệu trên cơ sở tập hợp,
phân loại những lời HPV theo các nhóm: nhóm lời hát nam/ nhóm lời hát nữ; các cặp từ
xng hô gắn với các vai giao tiếp nam/nữ; các hành động nói, các lớp từ ngữ, các phơng
tiện nghệ thuật đợc phân bố trong lời hát của từng vai giao tiếp nam/nữ. Với kết quả
thống kê mang tính định lợng cụ thể, đây là phơng pháp đóng vai trò quan trọng, tạo ra
một số căn cứ thực tiễn để có đợc những đánh giá định tính bảo đảm tính thuyết phục
hơn.
- Phơng pháp miêu tả đợc sử dụng kết hợp phơng pháp định lợng để giới thiệu sự
khác biệt về vị trí (khách/chủ) của các vai giao tiếp nam/nữ gắn với từng bớc, từng
chặng trong HPV; sự khác biệt trong cách lựa chọn từ xng hô, trong biểu đạt hành
động nói, sự lựa chọn các từ ngữ, các phơng tiện, biện pháp nghệ thuật
- Phơng pháp phân tích và quy nạp đợc sử dụng phối hợp trong phân tích diễn
ngôn với nguồn t liệu đã lựa chọn, từ đó quy nạp thành các kết luận. Chẳng hạn nh phân
tích một số lời hát của các vai giao tiếp nam/nữ để đa ra kết luận về đặc điểm ngôn ngữ
của mỗi giới trong xng hô, trong thực hiện các hành động nói .v.v Ph ơng pháp này
góp phần tạo tính logic, chặt chẽ trong lập luận.
14
- Phơng pháp so sánh, đối chiếu đợc sử dụng trong hầu hết các công đoạn của
luận án, từ khâu phân loại, khảo sát, phân tích, miêu tả, kết luận nhằm chỉ ra những
điểm tơng đồng và khác biệt trong ngôn ngữ HPV của các vai giao tiếp nam/ nữ. Do
vậy, đây là phơng pháp quan trọng góp phần hình thành những nhận định cơ bản về đặc
điểm ngôn ngữ của mỗi giới trong hoạt động giao tiếp HPV.
6. đóng góp của luận án
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về ngôn ngữ HPV xét từ
phơng diện giới tính vai giao tiếp, tức là xem xét một vấn đề mới (ngôn ngữ giới tính)
trên một đối tợng cũ (HPV), do vậy, nội dung nghiên cứu của luận án bảo đảm tính mới

mẻ, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khác, và dự kiến sẽ có những đóng
góp sau:
6.1. ý nghĩa lí luận
- Góp phần làm rõ một số vấn đề thuộc phơng diện lí luận ngôn ngữ có liên quan
tới ngữ nghĩa, ngữ dụng - văn hoá nh: từ xng hô từ góc độ giới tính, hành động nói gắn
với các ngữ cảnh giao tiếp, các lớp từ gắn với đặc trng giới tính
- Góp thêm cứ liệu trong lĩnh vực nghiên cứu về giới tính trong ngôn ngữ. Cung
cấp căn cứ lí luận để làm rõ thêm một số vấn đề nêu trong các công trình nghiên cứu về
HPV đã đợc công bố nh: cách phân chia các chặng hát, bớc hát và thủ tục của một cuộc
HPV; môi trờng diễn xớng của HPV và vấn đề không gian, thời gian; giới tính vai giao
tiếp và quan hệ chủ/khách trong HPV
- Khẳng định và bổ sung thêm những nhận định về đặc trng văn hoá mang dấu ấn
giới tính của vùng đất Nghệ Tĩnh, của con ngời Nghệ Tĩnh.
6.2. ý nghĩa thực tiễn
- Cung cấp t liệu cho các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu văn hoá
dân gian, các nghiên cứu sinh có đề tài nghiên cứu liên quan tới yếu tố giới tính trong
ngôn ngữ thơ ca dân gian cũng nh nghiên cứu chung về thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh.
- Bổ sung thêm t liệu cho việc giảng dạy, học tập các thể thơ dân gian, các nội
dung liên quan tới nghệ thuật sử dụng từ ngữ (các lớp từ đặc trng, hệ thống biểu tợng
nghệ thuật, các phơng tiện biện pháp nghệ thuật ).
15
- Khẳng định đóng góp của các nghệ nhân nam / nữ phờng vải trong việc tạo nên
giá trị của văn hoá xứ Nghệ.
7. Bố CụC CủA luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm có 4 chơng:
Chơng 1: Cơ sở lí thuyết và một số vấn đề về hát phờng vải Nghệ Tĩnh
Nội dung chơng đề cập tới một số vấn đề lí luận ngôn ngữ bao gồm: giao tiếp và
hội thoại, hành động nói, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính, ngôn ngữ và văn hoá.
Phần cuối chơng giới thiệu khái quát về HPV Nghệ Tĩnh và việc xác định, phân
loại t liệu lời HPV căn cứ vào đặc điểm ngôn ngữ giới tính.

Chơng 2: Giới tính vai giao tiếp thể hiện qua từ xng hô trong hát phờng vải
Nội dung chơng tập trung giới thiệu về vai giao tiếp, liên quan nh sự tơng tác và
quan hệ liên cá nhân giữa các vai giao tiếp; đồng thời phần cuối của chơng tập trung
giới thiệu hệ thống từ xng hô thể hiện đặc điểm ngôn ngữ giới tính trong HPV. Qua đó
rút ra một số nhận xét, đánh giá về một số nét văn hoá của ngời Nghệ Tĩnh thông qua
giao tiếp trong HPV: thông minh, dí dỏm, tự tin, bản lĩnh.
Chơng 3: Ngôn ngữ giới tính thể hiện qua một số hành động nói trong hát phờng
vải
Nội dung chơng tập trung giới thiệu một số nhóm hành động nói chính đợc sử
dụng trong HPV: nhóm hành động biểu hiện, nhóm hành động bộc lộ, nhóm hành động
điều khiển, nhóm hành động ớc kết. Từ việc thống kê, phân loại các hành động nói ứng
với một số bớc trong cuộc HPV, nội dung chơng tập trung phân tích, lí giải một số hành
động nói chính trong các bớc hát chào hát mừng, hát hỏi, hát đố hát đối, hát mời và hát
xe kết.
Chơng 4: Giới tính vai giao tiếp thể hiện qua cách sử dụng ngôn từ trong hát ph-
ờng vải
Nội dung chơng này chủ yếu phân tích cách sử dụng hệ thống từ ngữ, biểu tợng
mang đặc trng giới; cách sử dụng các biện pháp, phơng tiện nghệ thuật của các vai giao
tiếp, qua đó giới thiệu một số nét đặc trng ngôn ngữ giới tính trên cơ sở đối chiếu cách
sử dụng ngôn từ giữa các vai giao tiếp.
16
CHƯƠNG 1
Cơ sở lí thuyết và MộT Số VấN Đề
về hát phờng vải nghệ tĩnh
1.1. Giao tiếp và hội thoại
1.1.1. Giao tiếp và giao tiếp bằng ngôn ngữ
1.1.1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp (communication) là sự tiếp xúc giữa các cá thể trong một cộng đồng để
truyền đạt một thông tin nào đó. Đối với xã hội loài ngời, con ngời có thể giao tiếp với
nhau bằng nhiều phơng tiện, trong đó, phơng tiện ngôn ngữ (bao gồm cả ngôn ngữ nói

và ngôn ngữ viết) là phơng tiện quan trọng nhất.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ là đối tợng thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu với
những mối quan tâm khác nhau; và do đó, cũng đợc hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Theo Berge 1994 (Dẫn theo [6, tr. 18-21], giao tiếp đợc hiểu theo một số cách sau:
Hiểu theo cách đơn giản và chung nhất, giao tiếp là quá trình thông tin diễn ra
giữa ít nhất là hai ngời giao tiếp trao đổi với nhau, gắn với một ngữ cảnh và một tình
huống nhất định. Cách định nghĩa này phù hợp với các cuộc trao đổi bằng lời trong
cuộc sống thờng nhật của con ngời, do đó nó liên quan tới xã hội học.
Hiểu theo cách hiểu có tính chất chuyên môn, giao tiếp đợc định nghĩa nh một
thuật ngữ chỉ loại, bao trùm tất cả các thông điệp đợc phát ra trong những ngữ cảnh và
tình huống khác nhau. Theo cách hiểu này, giao tiếp là cách gọi chung cho tất cả các
hành động ngôn ngữ trong xã hội.
Theo một cách định nghĩa khác, khái niệm giao tiếp đợc giải thích thông qua tính
từ "thuộc về giao tiếp" hay "có tính giao tiếp": Một tín hiệu là có tính giao tiếp nếu nó
nhằm báo cho ngời nhận về một cái gì đó mà cho đến lúc bấy giờ ngời ấy cha biết.
Theo đó, giao tiếp đợc xem xét có sự phân biệt trong quan hệ một bên là ngời phát (ng-
ời nói, ngời viết) với những chủ định nhất định, một bên là ngời nhận (ngời nghe, ngời
đọc) với những giá trị nhất định.
17
Trong ngôn ngữ học, khi đặt giao tiếp trong quan hệ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa
với lời nói, cách dùng , giao tiếp đợc nhìn nhận nh là những cái vốn có trong thông
điệp ngôn ngữ: qua bình diện nội dung và bình diện biểu hiện (hình thức) của thông
điệp bằng ngôn ngữ, ngời ta có thể hiểu tình huống, ngữ cảnh, và bản thân những ngời
trao đổi lời với nhau tự thể hiện mình. Đây là cách định nghĩa có tính trung hoà.
HVP không phải là "ngôn ngữ trao đổi bằng lời trong cuộc sống thờng nhật", cũng
không có tính chất "đại diện chung" cho tất cả các hành động ngôn ngữ trong xã hội.
Mặt khác, nội dung thông tin trong giao tiếp phờng vải không hoàn toàn là "một cái gì
đó" mà ngời nhận cha biết. Do vậy, để thực hiện mục đích nghiên cứu, việc xem xét đặc
điểm ngôn ngữ giới tính sẽ căn cứ vào lời nói, cách dùng bao gồm cả bình diện nội
dung và hình thức biểu hiện của những thông điệp ngôn ngữ, qua đó "những ngời trao

đổi lời với nhau tự thể hiện mình". Với công trình nghiên cứu này, định nghĩa giao tiếp
có tính chất trung hoà là thích hợp.
Theo đó, khái niệm giao tiếp dùng trong luận án đợc hiểu là sự trao đổi thông
tin qua lại bằng lời giữa ít nhất hai ngời với những thông điệp bằng ngôn ngữ trong một
ngữ cảnh nhất định, hớng tới mục đích là tự thể hiện mình (về thái độ, tình cảm, suy
nghĩ, cảm xúc, quan điểm ). Việc xem xét ngôn ngữ giao tiếp ở đây còn căn cứ trên
tính đặc thù của giao tiếp trong HPV so với giao tiếp thông thờng. Chẳng hạn nh: tính
nghệ thuật cao hơn, ngôn từ trau chuốt hơn, quy trình bài bản hơn
1.1.1.2. Chức năng của ngôn ngữ trong giao tiếp
Về phơng diện lí thuyết chung, từ lâu, ngôn ngữ đợc coi là có chức năng giao tiếp.
Theo các nhà phân tích diễn ngôn, trong quá trình giao tiếp, ngôn ngữ thực hiện hai
chức năng chính là chức năng giao dịch và chức năng liên nhân.
Chức năng giao dịch (hay còn đợc gọi là chức năng biểu hiện, quy chiếu, quan
niệm, miêu tả) là chức năng của ngôn ngữ đợc dùng trong việc diễn đạt kinh nghiệm,
diễn đạt các "mệnh đề".
Chức năng liên nhân (hay còn đợc gọi là chức năng tơng tác, hoặc bộc lộ, hoặc
biểu cảm, hoặc bộc lộ - xã hội) là chức năng của ngôn ngữ đợc dùng trong việc diễn đạt
các quan hệ xã hội và các thái độ của cá nhân [7, tr. 21].
18
Việc phân biệt hai chức năng trên của ngôn ngữ trong giao tiếp không có nghĩa
một diễn ngôn (văn bản) chỉ có duy nhất chức năng này và loại trừ chức năng kia, mà
chỉ có thể nói đến sự nổi trội của một trong hai chức năng đó trong một diễn ngôn cụ
thể, ứng với một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Chẳng hạn, chức năng giao dịch đợc thể
hiện rõ trong tục ngữ, CDDC về lao động sản xuất, hoặc trong các diễn ngôn đợc thực
hiện nhằm trao đổi thông tin đòi hỏi chi tiết, chính xác. Còn chức năng liên nhân nổi
trội trong các trờng hợp cần sử dụng ngôn ngữ để thiết lập và duy trì các quan hệ xã
hội. Theo đó, trong khi các nhà ngôn ngữ học, các nhà triết học - ngôn ngữ quan tâm
chức năng giao dịch thì các nhà xã hội học và xã hội học - ngôn ngữ lại thờng đề cập
tới chức năng liên nhân.
Với việc nghiên cứu ngôn ngữ giới tính ở HPV, chức năng liên nhân của ngôn ngữ

trong giao tiếp là cơ sở để chỉ ra quan hệ giữa các vai giao tiếp nam/nữ.
1.1.1.3. Vai giao tiếp
Các nhân tố giao tiếp gồm: ngữ cảnh, ngôn ngữ, diễn ngôn, trong đó ngữ cảnh là
một hợp phần gồm: nhân vật giao tiếp và hiện thực ngoài diễn ngôn [29, tr. 15 - 40].
Nhân vật giao tiếp là những ngời tham gia vào một cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ
để tạo ra lời nói. Giữa các nhân vật giao tiếp có hai quan hệ: vai giao tiếp và quan hệ
liên nhân. Nhờ đó mà các diễn ngôn trong hoạt động giao tiếp tác động đến nhau, tạo
thành chuỗi trao - đáp cho một cuộc thoại. Trong hoạt động giao tiếp, các nhân vật giao
tiếp luôn đảm nhận các vai giao tiếp khác nhau. Vai giao tiếp có thể là ngôi thứ nhất
(vai trao lời) tác động đến vai nhận là ngôi thứ hai (vai đáp lời). Khi vai nhận đáp lời,
đến lợt mình, vai nhận lại trở thành vai trao còn vai trao lại trở thành vai nhận. Cứ thế,
trong suốt cuộc thoại, các cá nhân trong giao tiếp là các cặp chủ thể - đối tợng luôn đổi
chỗ cho nhau, làm thành các cặp trao - đáp luân phiên nhau (còn gọi là luân phiên lợt
lời). Mức độ ảnh hởng lẫn nhau giữa các chủ thể giao tiếp và hiệu quả giao tiếp phụ
thuộc rất nhiều vào các đặc điểm cá nhân của chủ thể nh vị trí xã hội, vai trò xã hội, uy
tín, giới tính, tuổi tác cũng nh các mối quan hệ và tơng quan giữa họ.
Tuy nhiên, không phải hai ngời thay nhau nói là thành một cuộc thoại. Trong quá
trình giao tiếp, cả hai bên cùng phải có ý thức, trách nhiệm khởi động và duy trì cuộc
thoại, tức là duy trì sự tơng tác qua lại lẫn nhau thông qua hành động ngôn ngữ tơng
19
tác, có sự thống nhất và mâu thuẫn, có sự vận động để điều hành cuộc thoại diễn tiến
theo một chiều hớng nhất định. Giữa các bên tham gia giao tiếp ban đầu thờng có một
khoảng cách nhất định về mối quan hệ thân sơ. Nếu cả hai nhân vật giao tiếp cùng có
sự thống nhất trong các hành động ngôn ngữ thì cuộc thoại diễn ra theo chiều hớng
thuận. Ngợc lại, nếu hai nhân vật giao tiếp có sự bất đồng về nhận thức cũng nh hành
động ngôn ngữ thì cuộc thoại diễn tiến theo chiều hớng không thuận. Hoặc nếu một ng-
ời nói ra một phát ngôn để gợi chuyện (hoạt động trao lời) mà ngời nghe không hởng
ứng (không thực hiện hoạt động đáp lời, đáp lời một cách miễn cỡng, rời rạc ) thì
cuộc thoại cũng không thể tiến triển [108, tr. 200-204]. Nh vậy, để cuộc thoại phát triển
theo hớng mong muốn, các vai giao tiếp phải có sự phối hợp chặt chẽ về từ ngữ, cấu

trúc, cách nói, tạo thành hệ thống lợt lời với các cặp thoại hô ứng về nội dung và hình
thức. Nhiều khi, trong một lời thoại, nhân vật giao tiếp cùng lúc vào cả hai vai: vai trao
và vai đáp. Một vấn đề nữa là trong thực tế hoạt động giao tiếp, số ngời tham gia cuộc
thoại có khi lớn hơn hai. Sự tơng tác hội thoại cũng không hoàn toàn theo tỉ lệ 1-1 trong
lời trao - lời đáp, thậm chí vai đáp lời có thể sử dụng các phơng tiện phi ngôn ngữ (thái
độ, cử chỉ, ánh mắt ) để thay cho lời đáp.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu đã xác định, luận án chỉ xem xét vai giao
tiếp trong hoạt động hội thoại bằng lời thông qua mối quan hệ tơng tác lời trao - đáp.
1.1.2. Vận động hội thoại và sự tơng tác
1.1.2.1. Hội thoại
Đợc coi là hoạt động cơ bản thờng xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ,
hôi thoại là giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa hai hay hơn hai ngời nhằm những mục đích
nhất định. Có thể gọi hội thoại là hình thức giao tiếp hai chiều , bên này nói, bên kia
nghe và phản hồi lại, lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi: bên nghe lại trở thành bên
nói và bên nói trở thành bên nghe [39, tr. 76]. Hội thoại tồn tại ở hai môi trờng: môi
trờng sinh hoạt hàng ngày và môi trờng đợc nhà văn tái tạo, thể hiện trong tác phẩm văn
học. Trong hội thoại, ngoài yếu tố ngôn ngữ lời nói còn có yếu tố ngôn ngữ cử chỉ nh
ánh mắt, điệu bộ, cử chỉ, hoàn cảnh giao tiếp; trong văn bản viết thờng đợc thể hiện qua
lời của ngời viết. Về cấu tạo, hội thoại tồn tại ở các dạng: đơn thoại, song thoại và đa
thoại.
20
Đơn vị hội thoại bao gồm nhiều cấp độ, cụ thể là:
a) Đơn vị cơ sở: gồm hành động ở lời (ngôn ngữ) và tham thoại
- Hành động ở lời: Là đơn vị nhỏ nhất của ngữ pháp hội thoại. Các ứng xử bằng lời
đều căn cứ vào hành vi ngôn ngữ (hành động ở lời). Hành động ở lời là những lời thoại
tổ chức nên tham thoại, cặp thoại.
- Tham thoại: Là phần đóng góp của từng nhân vật hội thoại vào một cặp thoại
nhất định. Tham thoại do hành động ở lời tạo nên.
Tham thoại và lợt lời không đồng nhất với nhau. Một lợt lời có thể gồm nhiều
tham thoại. Một tham thoại có thể gồm nhiều lợt lời.

b) Cặp thoại
Cặp thoại đợc cấu thành từ các tham thoại. Đây là đơn vị lỡng thoại nhỏ nhất của
cuộc thoại. Có thể căn cứ vào số lợng các tham thoại để phân loại các cặp thoại: cặp
thoại 1 tham thoại, cặp thoại 2 tham thoại, cặp thoại 3 tham thoại. Nội dung cơ bản của
một cặp thoại thờng gồm 2 tham thoại chính: dẫn nhập, hồi đáp. Tuy nhiên có những
cặp thoại mà tham thoại thứ 3 có tính chất đóng lại cặp thoại đó.
c) Đoạn thoại
Đoạn thoại là một mảng diễn ngôn do một số cặp thoại trao đáp liên kết chặt chẽ
với nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ dụng. Về ngữ nghĩa, đó là sự liên kết chủ đề. Về
ngữ dụng, đó là tính duy nhất về đích. Một đoạn thoại thờng có một nội dung đích nhất
định. Một cuộc thoại có thể gồm nhiều đoạn thoại, vì có thể nói về nhiều chủ đề.
Ngời ta phân đoạn thoại thành các đoạn cơ bản: đoạn mở thoại, đoạn thân thoại
(có thể gồm nhiều đoạn), đoạn thoại kết thúc. Đoạn mở thoại và đoạn kết thúc trong
một cuộc thoại thờng chỉ là những đoạn có tính chất nghi thức.
d) Cuộc thoại
Cuộc thoại là đơn vị hội thoại bao trùm lớn nhất. Một cuộc thoại có thể dài, ngắn
tuỳ tính chất của cuộc thoại. Để xác định một cuộc thoại, có thể dựa vào các tiêu chí
sau đây :
- Nhân vật hội thoại: Nói chung một cuộc thoại đợc xác định bởi sự góp mặt, trao
đổi giữa ít nhất 2 ngời hội thoại.
21
- Tính thống nhất về thời gian và địa điểm: Một cuộc thoại thờng xảy ra trong một
thời gian và một không gian nhất định.
- Tính thống nhất về đề tài và diễn ngôn: Một cuộc thoại thờng phải có hớng nhất
định từ đầu đến khi kết thúc.
Thuật ngữ hội thoại đợc sử dụng trong luận án chủ yếu đợc hiểu là song thoại, có
sự tham gia của các vai giao tiếp trong một cuộc hát (phờng nam, phờng nữ) và đợc
thực hiện theo quy trình luân phiên đổi vai. Tuy nhiên, ngữ liệu đợc xem xét ở đây là
lời HPV đợc su tầm, tập hợp theo từng nhóm lời ứng với các bớc, các chặng nên sự luân
phiên đổi vai chỉ phần nào thể hiện đợc trong từng cặp thoại trao - đáp, khó xác định ở

lời hát đơn. Mặt khác, do lời hát tách khỏi môi trờng diễn xớng nên việc nghiên cứu
cũng không có điều kiện xét đến các yếu tố ngôn ngữ cử chỉ nh ánh mắt, động tác, điệu
bộ của ngời hát; ở đây chỉ tập trung xem xét về mặt ngôn từ.
Hệ thống ngữ liệu đợc khảo sát trong luận án gồm tổng hợp 1745 lời hát, mỗi lời
hát tơng đơng một tham thoại, chủ yếu xuất hiện ở dạng lời đơn (cặp thoại một tham
thoại) hoặc cặp lời trao - đáp (cặp thoại 2 tham thoại). Chỉ có 6 trờng hợp xuất hiện ở
dạng 3 tham thoại, 2 trờng hợp ở dạng 4 tham thoại, 1 trờng hợp ở dạng 7 tham thoại.
Do ngữ liệu đợc tập hợp thành nhóm lời theo từng chặng, từng bớc của cuộc hát, luận
án không có điều kiện xem xét đơn vị hội thoại là đoạn thoại và cuộc thoại.
1.1.2.2. Vận động hội thoại
Yule (1997) đã dùng cách nhìn của nền kinh tế thị trờng để gọi quyền đợc nói
(floor) là một "thứ hàng hoá quý hiếm" trong hội thoại, và khẳng định: "có thể định
nghĩa đó là cái quyền đợc nói ra" "Nắm đ ợc quyền chủ động đối với thứ hàng hoá
hiếm hoi này lần nào thì lần ấy đợc gọi là một lợt lời (turn) [170, tr. 136]. Đề cập tới
việc thực hiện cái quyền này của ngời dự thoại, có thể hình dung một cách đầy đủ tính
logic của vấn đề nh sau: "Quyền đợc nói (floor) là quyền cơ sở để ngời dự thoại có thể
có lợt lời (turn at talk), còn gọi là bớc thoại (move). Muốn thực hiện lợt lời thì phải có
cơ hội nhận lợt lời (turn-taking). Cơ hội nhận lợt lời chịu sự chi phối của (hay lệ thuộc
vào) hệ thống điều hành cục bộ (local management system), một hệ thống mang tính xã
hội" [7, tr. 69]. Quá trình phân phối cơ hội nhận lợt lời theo hệ thống điều hành cục bộ
giữa những ngời dự thoại chính là quá trình vận động hội thoại.
22
Trong bất cứ cuộc hội thoại nào, vận động hội thoại giữa các nhân vật cũng thờng
bao gồm ba nhân tố: sự trao lời, sự trao đáp và sự tơng tác.
a) Sự trao lời (allocution)
Chuỗi đơn vị ngôn ngữ đợc nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt đầu cho đến lúc
chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của mình là một lợt lời. Đỗ Hữu Châu
đã dùng kí hiệu Sp để chỉ ngời tham gia vào hội thoại, Sp1 là vai nói, Sp2 là vai nghe.
Sp1, Sp2 và Spn là các đối tác hội thoại [29, tr. 205].
Theo đó, sự trao lời là vận động mà Sp1 nói lợt lời của mình ra và hớng lợt lời của

mình về phía Sp2. Sự trao lời có thể đợc thực hiện bằng các yếu tố bằng lời hoặc kèm
theo các yếu tố phi lời (bao gồm cử chỉ, điệu bộ ). Trong một cuộc song thoại, khi chỉ
gồm một ngời nói và một ngời nghe, vấn đề xác định Sp2 không đặt ra. Còn trong một
cuộc đa thoại thì vận động trao lời có thể hớng tới toàn thể ngời nghe, cũng có thể chỉ
nhằm vào một (hoặc một số) ngời nghe trong số đó, tức là Sp1 phải sử dụng những dấu
hiệu để định hớng rõ ai là ngời nghe đích thực của lợt lời đó.
b) Sự trao đáp (exchange)
Sự trao đáp (hay còn gọi là sự đáp lời) là lợt lời đợc Sp2 thực hiện để đáp lại lợt lời
của Sp1. Có sự trao đáp này thì cuộc thoại mới chính thức đợc hình thành. Cũng nh sự
trao lời, sự đáp lời có thể thực hiện bằng các yếu tố bằng lời hoặc các yếu tố phi lời
hoặc kết hợp cả hai.
c) Sự tơng tác (interaction)
Sự tơng tác hội thoại là quá trình các nhân vật hội thoại ảnh hởng lẫn nhau, tác
động qua lại với nhau, làm cho nhau biến đổi. Một chuỗi các tơng tác nối tiếp nhau gọi
là liên tơng tác. Liên tơng tác trong hội thoại trớc hết là liên tơng tác giữa các lợt lời
của Sp1 và Sp2, còn gọi là sự liên hoà phối các lợt lời. Sự hoà phối này hoàn hảo thì
cuộc hội thoại ở cực điều hoà, nhịp nhàng; các lợt lời của Sp1 và Sp2 đợc sắp xếp theo
một trình tự trao/đáp luân phiên giữa những ngời dự thoại. Ngợc lại, nếu thiếu sự hoà
phối nhịp nhàng thì cuộc thoại trở nên hỗn độn với sự xuất hiện của các hiện tợng trùng
lời, dẫm đạp lên lợt lời của nhau, cớp lời nhau. Do vậy, trong giao tiếp, mỗi nhân vật rất
cần thực hiện sự tự hoà phối, tức là tự điều chỉnh hành động, thái độ, lợt lời của mình để
có đợc sự tơng tác tích cực cho cuộc thoại.
23
1.1.2.3. Hàm ý hội thoại và nguyên tắc cộng tác
Trong giao tiếp, ngời nói và ngời nghe cùng tham dự vào cuộc thoại thờng có cộng
tác với nhau. Sự cộng tác ấy giúp cho ngời nghe tiếp nhận những tiền giả định của ngời
nói, từ đó luận giải đợc những điều mà ngời nói cố ý thông báo nhiều hơn cái đợc nói
ra. Đó là "thứ ý nghĩa phụ thêm" đợc chuyển tải ngoài những gì mà nghĩa của các từ
cung cấp, đợc gọi là hàm ý (implicature).
Theo đó, hàm ý hội thoại (conversational implicatures) đợc hiểu là phần ý nghĩa

đợc truyền đạt nhiều hơn những gì mà nghĩa từ ngữ cung cấp; đặc tính của hàm ý hội
thoại là giải đoán đợc, cản ngăn đợc, huỷ bỏ đợc, tăng cờng đợc. Các hàm ý hội thoại
thờng gặp đợc chia ra thành hai lớp lớn là hàm ý hội thoại thông dụng (generalized
conversational implicature, còn dịch là dùng chung hay tổng quát hoá) bao gồm cả
hàm ý thang độ (scalar implicature) và hàm ý hội thoại đặc dụng (particularized
conversational implicature, còn dịch là dùng riêng, hay cá thể hoá). Việc giải đoán
hàm ý hội thoại thông dụng không cần vận dụng đến ngữ cảnh riêng biệt, còn hàm ý
hội thoại đặc dụng chỉ có thể nhận biết, giải đoán đợc trên cơ sở vận dụng kiến thức
riêng về tình huống cụ thể trong đó nó đợc sử dụng [7, tr. 130-134].
Nh vậy, hàm ý hội thoại là thứ hàm ý suy ra đợc trong quá trình hội thoại, gắn với
cách thức thực hiện nguyên tắc cộng tác trong hội thoại, cụ thể hơn là gắn với các ph-
ơng châm hội thoại. Điều kiện để có đợc một cuộc thoại là những ngời dự thoại phải
hợp tác với nhau trên cơ sở đổi vai trao - đáp trong suốt diễn biến cuộc thoại. Việc thực
hiện cuộc tơng tác phải theo những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc có mặt trong
cuộc tơng tác phổ biến đến mức Grice (1975) đã nâng lên thành nguyên tắc cộng tác
(co-operative principle) của hội thoại và chi tiết hoá thành bốn nguyên tắc bậc dới, gọi
là các phơng châm (maxims) hội thoại bao gồm: phơng châm về lợng yêu cầu phần
đóng góp chứa số lợng tin đòi hỏi theo tiêu chuẩn cần và đủ xét theo mục đích của cuộc
thoại đó, không chứa nhiều tin hơn; phơng châm về chất yêu cầu phần đóng góp là chân
thực, không nói những điều mà ngời nói không tin là đúng hoặc không có bằng chứng
xác thực; phơng châm về quan hệ yêu cầu phần đóng góp những gì có quan hệ với đề
tài một cách cần thiết (trọng yếu), ngời đa tin cần nói đúng vào đề tài giao tiếp, tránh
24
nói lạc đề, ngời nhận tin cần hiểu nghĩa thực ở phát ngôn của ngời phát tin, không ra
ngoài đề, ngoài mục đích; phơng châm về cách thức yêu cầu cần phải nói ngắn, gọn, rõ,
có trật tự, không nói tối nghĩa, gây mơ hồ cho ngời nghe. Các nguyên tắc cộng tác này
đợc nhiều nhà ngôn ngữ học tán thành, sử dụng, phát triển, mở rộng [7, tr. 126-127],
[29, tr. 229 - 231].
Tuy nhiên, trong thực tế giao tiếp, có những lí do chính đáng khiến các phơng
châm hội thoại trên có thể bị vi phạm. Sử dụng hàm ý là một trong những biểu hiện vi

phạm ấy. Khi ngời nói cố ý vi phạm một phơng châm hội thoại nào đó, thì cũng tức là
ngời nói thông báo một ý nghĩa nào đó bằng hàm ý, và bằng suy luận thông qua tiền giả
định, ngời nghe có thể hiểu đợc hàm ý này.
Để sử dụng hàm ý, đòi hỏi phải có sự cộng tác giữa các bên giao tiếp. Cụ thể là
ngời nói dùng hàm ý phải tính đến năng lực giải đoán hàm ý ở ngời nghe, còn ngời
nghe thì ý thức đợc rằng ngời nói đang cùng cộng tác và có chủ định thông báo một
điều gì đó. Nếu ngời nói không quan tâm đến năng lực giải đoán hàm ý của ngời nghe
thì hàm ý sẽ không đợc nhận biết; ngợc lại, nếu ngời nghe không ý thức về việc ngời
nói đang cộng tác với mình thì sẽ không cố gắng giải đoán hàm ý, và hệ quả của cả hai
giả thiết trên là việc dùng hàm ý thất bại.
Do vậy, trong Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản (2009), khi nói về hàm
ý hội thoại, tác giả Diệp Quang Ban cho rằng: "Muốn dùng hàm ý thành công, trớc hết
ngời dự thoại phải cộng tác với nhau, trong đó ngời nói phải tính đến khả năng giải
đoán hàm ý của ngời nghe và ngời nghe phải nắm đợc rằng ngời nói muốn thông báo
một điều gì đó (nằm trong hàm ý) và cố gắng hiểu điều đó (cố gắng giải đoán đúng)"
[7, tr. 137].
Giao tiếp trong HPV là giao tiếp mang tính nghệ thuật, do vậy hầu hết các lời
HPV đều chứa hàm ý hội thoại. Trong quá trình tham gia hoạt động trao đáp, ngời hát
thờng mợn lời hát để gửi gắm tâm t, tình cảm của mình, và ngời nghe có thể luận giải
đợc hàm ý ấy trên cơ sở vận dụng/hoặc không cần vận dụng đến ngữ cảnh riêng biệt.
Theo đó, những vấn đề liên quan tới ngôn ngữ các vai giao tiếp trong HPV đợc luận án
xem xét trên cơ sở hàm ý hội thoại.
25

×