Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NHẬN THỨC VÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG GIỮA THUỐC NỘI VÀ THUỐC NGOẠI" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.19 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

140
NHẬN THỨC VÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG GIỮA THUỐC NỘI VÀ THUỐC NGOẠI
DANANG CONSUMERS’ PERCEPTION AND CHOICE OF DOMESTIC
AND IMPORTED MEDICAMENTS

Bùi Thanh Huân
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Bùi Thị Thanh Thu
Cựu sinh viên Trường Đại học Kinh tế,
Đại học Đà Nẵng

TÓM TẮT
Hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra nhiều thách thức cho công nghiệp dược Việt Nam.
Trên thị trường nội địa, dược phẩm Việt Nam chưa chiếm được lòng tin của người tiêu dùng.
Nghiên cứu này đánh giá sơ lược thực trạng ngành công nghiệp dược Việt Nam, so sánh
tương quan giữa thuốc nội và thuốc ngoại thông qua phỏng vấn trực tiếp người tiêu dùng nhằm
tìm hiểu nh
ận thức và sự lựa chọn thuốc sử dụng của họ. Trên cơ sở nhận ra những điểm
mạnh và điểm yếu của thuốc nội so với thuốc ngoại, một số kiến nghị được đề xuất cho các
doanh nghiệp sản xuất dược phẩm nhằm từng bước hoàn thiện hoạt động kinh doanh, đáp ứng
mong đợi của người tiêu dùng,
đối phó với những thách thức cạnh tranh toàn cầu và đạt được
các mục tiêu đề ra.
ABSTRACT
International economic integration has posed many challenges to Vietnamese
pharmaceutical industry. On domestic markets, Vietnamese medicaments have not yet gained
the confidence of consumers. This study evaluates the current general situation of
pharmaceutical industry in Vietnam and compares domestic with imported medicaments


through direct interviews with consumers to find out their perception and choice on different
medicaments. Based on the strong and weak points of domestic medicaments in comparison
with oversea medicines, some solutions are suggested to pharmaceutical manufacturers so that
they can make gradual improvement of their businesses to meet consumers’ demand, cope with
the threats in global competitions and achieve their defined objectives.
1. Đặt vấn đề
Trong thời gian qua, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng lĩnh vực
dược phẩm Việt Nam vẫn phát triển khá mạnh, tăng trưởng bình quân hàng năm trên
10%, dự đoán đạt từ 2,25 đến 2,40 tỷ đô la Mỹ vào năm 2015 và có thể tăng đến 3,50 tỷ
đô la Mỹ vào năm 2020 [1]. Hiện nay, các doanh nghiệp trong nước đã sản xuất được
hầu hết các lo
ại thuốc điều trị thông thường. Dù chưa thể sánh ngang với thuốc ngoại
nhưng nhiều nhãn hiệu thuốc nội vẫn có khả năng thay thế hàng ngoại nhập mà giá lại
thấp hơn nhiều.
Nhìn lại quá khứ, ngành công nghiệp dược Việt Nam lạc hậu về công nghệ, chủng
loại sản phẩm nghèo nàn, chất lượng thấp và mẫu mã không đẹp. Giai đoạn ấy đã để lại
trong người tiêu dùng một khái niệm “Thuốc nội”. Thương hiệu “Thuốc nội” đã và đang
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

141
là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong cạnh tranh với các dược phẩm
nhập khẩu với tên gọi là “Thuốc ngoại”. Có thể nói thuốc nội chưa thật sự cạnh tranh
thành công trên thị trường nội địa trước các đối thủ ngoại đến từ rất nhiều quốc gia.
Từ khi nước ta gia nhập WTO, cạnh tranh giữa thuốc nội và thuốc ngoại ngày
càng trở nên quyết liệt hơn. Các doanh nghiệp đã chú trọng cải tiến công nghệ theo tiêu
chuẩn quốc tế, đào tạo nhân lực, xây dựng hệ thống kiểm tra chất lượng toàn diện, phát
triển quan hệ hợp tác với các viện nghiên cứu, các trường đại học. Tuy nhiên, ngành
công nghiệp dược Việt Nam vẫn được xem là chậm phát triển; chưa làm tốt công tác
Marketing và chưa chú trọng đến yêu cầu của khách hàng; gặp khó khăn trong đầu tư
nghiên cứu; chủ yếu sản xuất các loại thuốc thông thường, thuốc gốc (generics); sản

xuất có nhiều trùng lắp, gây nên hiện tượng cạnh tranh về giá; 90% dược chất chính là
nhập khẩu; chưa chú trọng đầu tư vào hệ thống kho tàng, dịch vụ vận chuyển. Theo các
chuyên gia Chương trình SIDA, công nghiệp dược Việt Nam được đánh giá ở cấp độ
phát triển từ 2,5 đến 3 theo thang phân loại 4 cấp độ của WHO và UNCTAD [2].
Theo cam kết của Việt Nam trong WTO, kể từ 01/01/2009 các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và chi nhánh của doanh nghiệp nước ngoài được phép trực tiếp
nhập khẩu và phân phối dược phẩm tại Việt Nam với mức thuế trung bình giảm còn
2,5% sau 05 năm kể từ ngày Việt Nam là thành viên chính thức của WTO [2]. Tính đến
đầu năm 2009, đã có 438 doanh nghiệp dược nước ngoài đăng ký hoạt động tại Việt
Nam [3]. Các doanh nghiệp này có tính chuyên nghiệp cao, tham gia vào hầu hết các
khâu phân phối, có ưu thế trong việc đào tạo ra những chuyên viên Marketing giỏi, đủ
sức tiếp cận thị trường nhằm quảng bá sản phẩm Dự báo thị trường dược phẩm Việt
Nam sẽ tiếp tục có sự cạnh tranh gay gắt hơn trong thời gian đến.
Năm 2009, giá trị thuốc sản xuất trong nước đạt 831,25 triệu đô la Mỹ, tăng
16,18% so với năm 2008. Tiền thuốc bình quân đầu người năm 2009 đạt 19,77 đô la
Mỹ, tăng 3,32 đô la so với năm 2008. Mặc dù vậy, thuốc sản xuất trong nước chỉ đáp
ứng được khoảng 50% trị giá thuốc sử dụng. Tổng giá trị thuốc nhập khẩu năm 2009
gần 1,2 tỉ đô la Mỹ, tăng gần 27% so với năm 2008 [2].
Việt Nam nhập khẩu nhiều dược phẩm có thể không hoàn toàn vì ngành dược
không đ
áp ứng đủ nhu cầu. Sự chấp nhận sử dụng thuốc nội của người tiêu dùng sẽ
quyết định việc thắng hay bại của các doanh nghiệp. Các giải pháp phát triển ngành
dược cần xuất phát từ đặc điểm nhu cầu và hành vi sử dụng thuốc của người tiêu dùng
cũng như từ những tồn tại cơ bản của ngành dược hiện nay chứ không thuần túy bắ
t
nguồn từ sự nhỏ bé về quy mô của ngành. Giải pháp phát triển về quy mô phải đi kèm
với những giải pháp phát triển chiều sâu và các giải pháp đồng bộ khác.
Vì vậy, nghiên cứu nhận thức và hành vi lựa chọn của người tiêu dùng giữa thuốc
nội và thuốc ngoại cho phép nhận biết được điểm mạnh và điểm yếu thuốc nội so với
thuốc ngoại. Từ đó xác lập chiến lược kinh doanh đúng đắn, cải thiện, phát huy thế mạnh

của thuốc nội, nâng cao nhận thức và sự hài lòng của người tiêu dùng, tăng khả năng cạnh
tranh với các loại thuốc ngoại đang xâm nhập ngày càng mạnh mẽ vào nước ta.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

142
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này tìm hiểu nhận thức và sự lựa chọn của người tiêu dùng đối với
các loại thuốc thông thường, khi mua có thể không cần đơn của bác sĩ (OTC). Hai khái
niệm về quá trình “Đồng hóa” và “Đối lập” trong khoa học hành vi được sử dụng trong
nghiên cứu. Khi đánh giá thuốc, người tiêu dùng có thể gộp các loại thuốc nhập khẩu
vào nhóm thuốc ngoại và các loại thuốc sản xuất trong nước vào nhóm đối lập, được gọi
là thuốc nội. Sự nhóm gộp này dựa vào nguyên lý cơ bản từ hệ tâm lý học Gestalt cho
rằng con người thường nhóm gộp các tác nhân tương tự để tạo nên một bức tranh hay ấn
tượng thống nhất, giúp cho việc xử lý tác nhân dễ dàng hơn [4]. Dựa trên kinh nghiệm,
người tiêu dùng đưa ra những đánh giá mang tính so sánh về hai loại thuốc kể trên. Tùy
theo một nhãn hiệu thuốc thuộc nhóm nào mà họ có những đánh giá tốt hay không tốt,
mặc dù không phải tất cả các nhãn hiệu thuộc một nhóm đều tốt hoặc không tốt. Nghiên
cứu được tiến hành qua hai bước: nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức.
Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện thông qua tham khảo các tài liệu, phỏng vấn
nhanh 10 người tiêu dùng nhằm xác định các tiêu chí đánh giá các loại dược phẩm, khả
năng phân biệt thuốc, những lý do chuyển đổi thuốc sử dụng, những yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định mua để thiết kế bảng câu hỏi phục vụ cho nghiên cứu chính thức. Sau
giai đoạn nghiên cứu sơ bộ, 17 tiêu chí lựa chọn thuốc sử dụng của người tiêu dùng đã
được xác định bao gồm: giá, chất lượng, bao bì, hình thức, liều dùng tiện lợi, dễ sử
dụng, dễ bảo quản, hạn sử dụng, hướng dẫn sử dụng kèm theo, nhãn hiệu, danh tiếng
công ty sản xuất, quốc gia sản xuất, kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm từ người khác,
tư vấn của người bán, quảng cáo và khả năng cung ứng thuốc.
Căn cứ kết quả nghiên cứu sơ bộ, bảng câu hỏi được thiết kế và đưa ra phỏng
vấn thử 30 người tiêu dùng nhằm hiệu chỉnh bảng câu hỏi trước khi chính thức sử dụng
để phỏng vấn 350 người tiêu dùng tuổi từ 18 đến 75 thuộc các ngành nghề tại Đà Nẵng.

Kết thúc điều tra, số bảng trả lời thu được có thể sử dụng cho nghiên cứu là 313. Việc
mã hoá, nhập và xử lý dữ liệu được tiến hành trên phần mềm SPSS.
3. Phân tích kết quả
3.1. Tầm quan trọng của các tiêu chí lựa chọn thuốc sử dụng
Tiến hành phân tích nhân tố theo thành phần chính và kiểm tra độ tin cậy (tất cả
Alpha Cronbach đều lớn hơn 0.6), các tiêu chí lựa chọn của người tiêu dùng có thể được
chia thành 06 thành phần và sắp xếp theo thứ tự tầm quan trọng giảm dần như sau:
- Thành phần 1: Chất lượng
- Thành phần 2: Sự tiện lợi sử dụng (liều dùng tiện lợi, dễ sử dụng, dễ bảo quản,
hạn sử dụng, hướng dẫn sử dụng kèm theo)
- Thành phần 3: Kinh nghiệm (kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm từ người
khác, tư vấn của người bán)
- Thành phần 4: Thương hiệu và xuất xứ (nhãn hiệu, danh tiếng công ty sản
xuất, quốc gia sản xuất, khả năng cung ứng, quảng cáo)
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

143
- Thành phần 5: Giá cả
- Thành phần 6: Cảm quan (hình thức của thuốc, bao bì).
Theo kết quả điều tra, đa số ý kiến cho rằng việc lựa chọn cẩn thận thuốc sử
dụng là quan trọng. Chất lượng là yếu tố quan trọng nhất trong quyết định thuốc sử
dụng của người tiêu dùng và cũng là lý do chính mà người tiêu dùng chuyển đổi loại
thuốc sử dụng. Vấn đề cảm quan của thuốc xem ra ít quan trọng nhất. Khi tầm quan
trọng của chất lượng tăng thì lợi thế sẽ thuộc về các doanh nghiệp có công nghệ sản
xuất hiện đại, chất lượng cao. Đây là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt
Nam trong bối cảnh cạnh tranh với thuốc ngoại đang được nhập khẩu ngày càng nhiều.
3.2. Nhận thức so sánh giữa thuốc nội và thuốc ngoại
Trong số 17 tiêu chí lựa chọn thuốc sử dụng của người tiêu dùng, 10 tiêu chí đã
được sử dụng để so sánh giữa thuốc nội và thuốc ngoại. Kết quả trung bình đánh giá của
người tiêu dùng cho thấy thuốc nội thua kém thuốc ngoại theo các tiêu chí khảo sát,

ngoại trừ yếu tố giá. Thuốc nội chỉ được đánh giá ở mức độ trung bình ở 07/10 tiêu chí.
Tài liệu hướng dẫn sử dụng kèm theo thuốc, tính dễ sử dụng và khả năng cung ứng
thuốc được họ đánh giá ở mức độ khá. Đối với thuốc nhập khẩu, ngoại trừ mức giá bán
được cho là khá cao, 09/10 tiêu chí so sánh còn lại đều được đánh giá ở mức khá, đặc
biệt chất lượng của thuốc ngoại được đánh giá tốt. Như vậy, so với thuốc ngoại thì
thuốc nội chỉ có một lợi thế cạnh tranh duy nhất là giá. Kết quả các kiểm định thống kê
với độ tin cậy 95% cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa về sự đánh giá của nguời
tiêu dùng giữa thuốc nội và thuốc ngoại ở hai tiêu chuẩn: tính dễ sử dụng
(p=0,242>0,05) và khả năng cung ứng thuốc (p=0,626>0,05).
Như vậy, có thể kết luận thuốc ngoại hơn thuốc nội ở 07/10 tiêu chí xem xét
(chất lượng, bao bì, hình thức, liều dùng tiện lợi, hướng dẫn sử dụng kèm theo, dễ bảo
quản, hạn sử dụng) và chỉ chịu thua thuốc nội về mức giá. Tuy nhiên, giá lại không hoàn
toàn là lợi thế cạnh tranh của thuốc nội vì chỉ được xếp thứ 14/17 về tầm quan trọng và
xếp thứ 5/6 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn của người tiêu dùng. Giá cũng
không phải là lý do chính khiến họ chuyển đổi loại thuốc sử dụng mà là vì những lý do
khác.
3.3. Tình hình sử dụng thuốc nội và thuốc ngoại
Mặc dù thuốc ngoại được người tiêu dùng đánh giá cao hơn thuốc nội về nhiều
mặt, nhưng theo kết quả điều tra thì có 54% người tiêu dùng thường sử dụng thuốc nội
so với 46% thường sử dụng thuốc ngoại. Tuy nhiên, đây chỉ là một sự khác biệt nhỏ khi
thuốc nội đang phải cạnh tranh với thuốc ngoại ngay trên thị trường của mình. Do thu
nhập của người dân hiện nay vẫn còn thấp nên họ chọn thuốc nội với giá rẻ mặc dù họ
nhận thức rằng những yếu tố khác là quan trọng hơn.
Khi mức sống cao hơn, hành vi của người tiêu dùng sẽ được điều chỉnh phù hợp
với nhận thức của họ. Giá sẽ không còn là yếu tố chi phối quan trọng đến hành vi mua
của người tiêu dùng. Vì thế, sử dụng giá thấp để cạnh tranh với thuốc ngoại không phải
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

144
là sự lựa chọn đúng đắn. Về lâu dài, các doanh nghiệp cần đầu tư nâng cao chất lượng

sản phẩm, xây dựng đội ngũ các nhà khoa học giỏi để nghiên cứu tìm ra các phương
thuốc mới, nâng cao năng lực quản lý kinh doanh
3.4. Khả năng phân biệt giữa thuốc nội và thuốc ngoại
Kết quả điều tra cho thấy 45% người tiêu dùng cho rằng việc phân biệt xuất xứ
của thuốc là không dễ dàng do thầy thuốc không hướng dẫn; có nhiều hàng nhái, hàng
giả; ít sử dụng thuốc; thiếu kinh nghiệm; nhãn hiệu, nguồn gốc của thuốc không được
ghi rõ ràng. Họ sử dụng một vài yếu tố để phân biệt như bao bì, hình thức, nhãn hiệu,
ngôn ngữ ghi trên bao bì và trên hướng dẫn sử dụng, giá, nhãn phụ bằng tiếng Việt dán
ngoài bao bì, tem nhập khẩu, quảng cáo, chỉ dẫn của người bán.
3.5. Ảnh hưởng của đặc điểm cá nhân đến việc sử dụng thuốc nội và thuốc ngoại
Việc mua của người tiêu dùng có thể chịu ảnh hưởng bởi đặc điểm cá nhân nên
sự khác biệt trong hành vi tiêu dùng thuốc nội, thuốc ngoại theo các đặc điểm cá nhân là
vấn đề cần xem xét. Sử dụng các kết quả kiểm định thống kê với độ tin cậy 95% về sự
khác biệt trong mức độ sử dụng thuốc nội, thuốc ngoại giữa các nhóm người tiêu dùng
theo các đặc điểm cá nhân và các dữ liệu thống kê của cuộc điều tra cho thấy:
- So với nhóm người tiêu dùng trẻ (dưới 40 tuổi), nhóm người cao tuổi (trên 55
tuổi) sử dụng thuốc ngoại nhiều hơn thuốc nội. Nhóm trung niên (từ 41 đến 55 tuổi) có
khuynh hướng do dự, tỷ lệ sử dụng thuốc ngoại và thuốc nội tương đương nhau. Như
vậy, có thể cho rằng người tiêu dùng thuộc nhóm tuổi càng cao thì tỷ lệ sử dụng thuốc
ngoại càng tăng. Có lẽ càng cao tuổi người ta càng quan tâm đến sức khỏe và không
hoàn toàn yên tâm về chất lượng của thuốc nội. Giới trẻ có khả năng ủng hộ thuốc nội
và có thể là thị trường trọng điểm của các doanh nghiệp dược Việt Nam.
- Nhóm người tiêu dùng có thu nhập gia đình thấp (dưới 6 triệu/tháng) có
khuynh hướng sử dụng thuốc nội nhiều hơn thuốc ngoại, ngược lại so với nhóm có thu
nhập gia đình cao hơn. Như vậy, khi thu nhập càng cao thì người tiêu dùng càng có xu
hướng sử dụng sử dụng thuốc ngoại. Cũng cần lưu ý rằng, người có thu nhập thấp chưa
hẳn đã ủng hộ thuốc nội. Họ dùng thuốc nội vì giá thuốc ngoại cao mà thu nhập lại
khiêm tốn.
- So với các nhóm nghề nghiệp có thu nhập cao và ổn định (kinh doanh, kỹ sư,
bác sĩ, lực lượng vũ trang), nhóm người tiêu dùng có nghề nghiệp thu nhập thấp hoặc

không ổn định (sinh viên, công nhân, nhân viên văn phòng, hưu trí, nội trợ, làm nông,
làm vườn) có khuynh hướng sử dụng thuốc nội nhiều hơn thuốc ngoại. Kết quả điều tra
cho thấy người làm nông, làm vườn và công nhân là những đối tượng có tỷ lệ sử dụng
thuốc nội cao nhất (trên 72%). Hơn nữa, những nhóm nghề nghiệp sử dụng thuốc ngoại
bao gồm những người có học vấn cao, có nhiều hiểu biết hơn những người thuộc những
nhóm nghề nghiệp sử dụng thuốc nội. Như vậy, có khả năng càng có trình độ, kiến thức
người ta càng ngại dùng thuốc nội.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

145
4. Một số kiến nghị cho ngành công nghiệp dược Việt Nam
4.1. Phát triển công nghiệp dược và nâng cao chất lượng thuốc
Nâng cao chất lượng thuốc để tăng khả năng cạnh tranh là một yêu cầu cấp bách.
Các doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ, hoàn thiện quy trình sản xuất đạt tiêu chuẩn
Thực hành tốt sản xuất thuốc của Tổ chức y tế thế giới (GMP/WHO). Nếu các doanh
nghiệp dược phẩm Việt Nam đồng loạt đạt tiêu chuẩn này thì sẽ nhận được sự đánh giá
tích cực và sự tin tưởng của người tiêu dùng vì chất lượng thuốc sản xuất ra hoàn toàn
khác.
Giải pháp có thể thực hiện thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ sản xuất
từ các doanh nghiệp nước ngoài theo phương thức nhượng quyền để các doanh nghiệp
trong nước nhanh chóng nắm bắt công nghệ tiên tiến và có thể sản xuất được những sản
phẩm chất lượng cao. Bên cạnh đó, Bộ Y tế cần khuyến khích phát triển công nghiệp
dược liệu, xây dựng những nhà máy hóa dược nhằm đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu
có chất lượng phục vụ cho công nghiệp bào chế thuốc trong nước, tránh quá lệ thuộc
vào nguồn nhập khẩu.
Theo các chuyên gia, nền tảng cốt lõi để phát triển công nghiệp dược là năng lực
nghiên cứu và phát triển. Điều này lại phụ thuộc vào chất lượng của nguồn nhân lực.
Ngành dược và các cơ quan hữu quan cần có giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao và cho phép tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và phát triển. Hiện mức đầu tư
cho nghiên cứu của các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm chỉ chiếm khoảng 5% doanh

thu trong khi con số này lên đến 15-25% đối với các công ty ở nước ngoài [5].
Song song với việc đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, các doanh nghiệp
dược cần đầu tư hệ thống nhà kho đạt tiêu chuẩn Thực hành tốt bảo quản thuốc (GSP)
nhằm đảm bảo chất lượng của thuốc khi đưa ra thị trường. Ngoài ra, ngành dược cần
có phương án sắp xếp lại các cơ sở sản xuất thuốc trong nước theo hướng chuyên môn
hóa có tính đến nhu cầu sử dụng thuốc, mô hình bệnh tật của người Việt Nam, năng
lực quản lý, năng lực sản xuất và trình độ kỹ thuật của các doanh nghiệp, đồng thời
tránh sự trùng lắp. Các doanh nghiệp trong nước có thể thực hiện liên kết, sáp nhập để
hình thành những tập đoàn dược phẩm đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài.
4.2. Đảm bảo sự tiện lợi cho người tiêu dùng
Thuốc và việc đóng gói phải tạo sự tiện lợi cho sử dụng và bảo quản của người
tiêu dùng. Trên bao bì phải ghi rõ hạn sử dụng và đặc biệt là nơi sản xuất để người tiêu
dùng dễ dàng phân biệt được xuất xứ của thuốc, giúp họ an tâm hơn khi lựa chọn thuốc
sử dụng. Bên cạnh đó, hình thức của thuốc và mẫu mã bao bì cũng là một yếu tố cần
đầu tư cải tiến nhằm gây ấn tượng và tăng cảm nhận của người tiêu dùng về chất lượng.
Ngoài ra, hướng dẫn sử dụng kèm theo thuốc là yếu tố quan trọng đối với việc lựa chọn
và chuyển đổi thuốc sử dụng của người tiêu dùng. Tài liệu này cần được trình bày rõ
ràng, dễ hiểu để người tiêu dùng sử dụng đúng cách và an toàn.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

146
4.3. Thay đổi nhận thức của người tiêu dùng về thuốc nội
Các doanh nghiệp sản xuất dược Việt Nam đang vấp phải một khó khăn là tâm
lý người kê đơn và người dùng thuốc có xu hướng chuộng hàng ngoại, nghĩ rằng thuốc
ngoại thì tốt hơn thuốc nội, thuốc càng đắt tiền thì càng tốt. Trên thực tế, thuốc nhập từ
các hãng dược lớn Âu - Mỹ thường có chất lượng cao và ổn định, còn thuốc nhập từ các
quốc gia kém tên tuổi trên thị trường dược phẩm chưa hẳn luôn có chất lượng ổn định.
Hơn nữa, đã là thuốc ngoại thì dù là thuốc của các hãng lớn hay của các hãng kém tên
tuổi đều có giá cao vì nhiều lý do khác nhau. Vì vậy, giá cao không phải luôn đi đôi với

chất lượng và cái mác ngoại nhập không phải luôn là tấm bằng xác định chất lượng
thuốc.
Thông qua các bác sĩ và với cách giải thích khoa học, cần tuyên truyền cho
người dân hiểu rằng thuốc nội nếu được sản xuất bằng công nghệ hiện đại, nguyên liệu
nhập khẩu, đạt tiêu chuẩn thì cho dù sản xuất trong nước vẫn đạt chất lượng không thua
kém thuốc ngoại. Vấn đề là khi nào dùng thuốc ngoại, khi nào dùng thuốc nội, giải thích
như thế nào về thuốc nội để người tiêu dùng tin tưởng vào thuốc nội mà không băn
khoăn giá cả thấp cao và xuất xứ nội ngoại. Điều này còn giúp giảm được gánh nặng chi
phí thuốc cho bệnh nhân trong bối cảnh giá thuốc ngoại ngày càng tăng cao như hiện
nay.
4.4. Khai thác thị trường hiện tại, thâm nhập thị trường tiềm năng
Đối tượng sử dụng thuốc nội với tỷ lệ lớn là người làm nông, làm vườn, nhân
viên văn phòng, công nhân, nội trợ, hưu trí, sinh viên, những người trẻ tuổi, những hộ
gia đình có mức thu nhập thấp. Vì vậy, các doanh nghiệp dược trong nước cần tập trung
khai thác thị trường rộng lớn này, phải thường xuyên trưng cầu ý kiến và tìm hiểu nhu
cầu của người tiêu dùng thông qua đội ngũ trình dược viên, những nhà phân phối, hoặc
thông qua các cuộc điều tra nghiên cứu thị trường.
Các doanh nghiệp không nên cạnh tranh bằng giá bởi giá thấp không phải là một
biện pháp hữu hiệu. Doanh nghiệp này hạ giá, doanh nghiệp khác cũng hạ giá theo. Kết
quả là các đơn vị sản xuất dược trong nước chỉ làm khó cho nhau. Điều này có thể lại là
nguyên nhân làm cho chất lượng thuốc giảm, bao bì, mẫu mã xấu vì gánh nặng chi phí
ngày một tăng. Hơn nữa, giá thấp sẽ làm giảm ấn tượng của người tiêu dùng về chất
lượng của thuốc nội. Khi niềm tin trong cộng đồng gia tăng, các doanh nghiệp sẽ có
những cơ hội khai thác những thị trường có thu nhập cao, công việc ổn định. Cuộc vận
động sử dụng thuốc nội nên tập trung vào những nhóm người tiêu dùng này.
4.5. Tăng cường công tác quảng bá thương hiệu
Một thương hiệu có giá trị, có bản sắc riêng là một lợi thế cạnh tranh lớn của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp nước ngoài thì các doanh nghiệp
Việt Nam còn thua kém trong quảng bá thương hiệu của mình. Tùy theo nguồn kinh phí
cho truyền thông Marketing mà mỗi doanh nghiệp xây dựng chiến dịch quảng bá cho

sản phẩm, thương hiệu của mình, phải làm cho người dân, bác sĩ, dược sĩ, giới chuyên
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

147
môn, bệnh viện và người bán thuốc biết và nhớ đến thương hiệu của mình. Các doanh
nghiệp có thể tăng cường quảng bá thông qua các phương tiện phù hợp và chú ý nhấn
mạnh đến sự cải thiện về chất lượng nhằm tạo dựng niềm tin ở người tiêu dùng trong
nước.
5. Kết luận
Nghiên cứu này đã mô tả một cách khái quát những đánh giá mang tính so sánh
của người tiêu dùng về thuốc nội và thuốc ngoại, xác định các tiêu chí lựa chọn thuốc sử
dụng của họ và đã đề xuất một số kiến nghị giúp các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm
của Việt Nam hoàn thiện hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhằm đối phó với
những thách thức mới trong tương lai. Để nâng cao thương hiệu thuốc Việt thì trước hết
đòi hỏi các doanh nghiệp dược Việt Nam phải không ngừng đầu tư nghiên cứu, đổi mới
công nghệ sản xuất, nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động. Ngoài
ra, các cơ quan quản lý Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước thông qua
việc cải thiện môi trường để các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, đóng góp vào sự
phát triển của đất nước.
Do hạn chế về thời gian và kinh phí nên nghiên cứu chỉ mới được thực hiện đối
với các loại thuốc thông dụng mà chưa thể triển khai nghiên cứu đối với những các loại
thuốc đặc trị. Nhiều yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi của người
tiêu dùng chưa được xem xét đến. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chưa thể tiếp cận hai đối
tượng không kém phần quan trọng là bác sĩ và các dược sĩ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Muray Smith và cộng sự, Economic Integration and Vietnam’s development, Phái
đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam, 2009
[2] Cao Minh Quang, Cơ hội và thách thức của ngành dược Việt Nam trước thềm hội
nhập WTO, 2006

[3] Lệ Hà, “Công nghiệp dược vẫn là ngành lệ thuộc”, Báo điện tử Sài Gòn tiếp thị
media, 30/07/2010
[4] Nguyễn Xuân Lãn và cộng sự, Hành vi người tiêu dùng, Đại học Kinh tế Đà Nẵng,
2008
[5] Phương Nam, “Cấp độ dược Việt Nam”, Báo điện tử Sài Gòn tiếp thị media,
20/7/2006
[6] Trang thông tin điện tử của Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Bộ
Công thương:

×