TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
21
KHẢO SÁT ĐỘ TIN CẬY CỦA PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT - BỘ CÔNG CỤ
ĐO CHIẾN LƯỢC HỌC TẬP NGÔN NGỮ CỦA OXFORD TRÊN ĐỐI
TƯỢNG NGƯỜI VIỆT NAM HỌC TIẾNG PHÁP
RELIABILITY ASSESSEMENT OF VIETNAMESE VERSION OF OXFORD’S
STRATEGY INVENTORY FOR LANGUAGE LEARNING ON VIETNAMESE
LEARNERS OF FRENCH
Nguyễn Hữu Bình
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Bài viết tập trung khảo sát quy trình chuyển dịch và độ tin cậy của bộ công cụ đo chiến
lược học tập ngôn ngữ (Strategy Inventory for Language Learning – SILL) do tác giả Oxford
biên soạn năm 1990. Công việc chuyển dịch đã được thực hiện theo phương pháp dịch – dịch
ngược (translation – back-translation) và phiên bản SILL-80 tiếng Việt đã có những điều chỉnh
cho phù với với cú pháp tiếng Việt và văn hóa Việt Nam. Việc khả
o sát độ tin cậy (reliability)
thông qua các phương pháp thử - thử lại (test – retest) và phương pháp nhất quán nội tại
(internal consistency reliability) trên 246 đối tượng đã cho phép khẳng định SILL-80 tiếng Việt
có đủ độ tin cậy để được sử dụng trong các nghiên cứu về sau trên đối tượng người Việt học
tiếng Pháp như là ngoại ngữ.
ABSTRACT
This paper focuses on the translation and the reliability of the Strategy Inventory for
Language Learning (SILL) compiled by Oxford in 1990. The translation was done by translation-
back-translation method and the Vietnamese Sill-80 version was adjusted in line with
Vietnamese syntax and culture. The assessement of the Vietnamse SILL-80 reliability through
the test-retest reliability and internal consistency reliability in a sample of 246 subjects have
enabled the Vietnamese Sill-80 to have sufficient reliability to be used in future studies on the
Vietnamese learners of French as a foreign language.
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, trước những đòi hỏi của xã hội, ngành giáo dục đã có
những đổi mới rất cơ bản, quan niệm lấy người học làm trung tâm ngày càng được nhận
thức một cách triệt để và được ứng dụng sâu rộng trong giảng dạy. Ngành ngoại ngữ
cũng không nằm ngoài xu thế này của giáo dục hiện đại. Các nghiên cứu đã và đang tập
trung nhiều hơn vào việc tìm hiểu mọi khía cạnh liên quan đến người học nhằm đưa ra
những phương pháp phù hợp hơn với từng đối tượng người học. Một trong những
hướng nghiên cứu thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên thế giới đó là
tìm hiểu các chiến lược học tập ngôn ngữ (laguage learning strategy) mà người học áp
dụng nhằm làm cho việc học của mình dễ dàng và đạt hiệu quả cao hơn.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
22
Cho đến thời điểm hiện tại, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã xây dựng được
một khung lý thuyết khá đầy đủ cho hướng nghiên cứu này. Ngoài việc đưa ra được
định nghĩa của chiến lược học tập ngôn ngữ, xây dựng bảng xếp loại các chiến lược, các
kết quả nghiên cứu đã cho phép tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn lựa các
chiến lược học tập ngôn ngữ như là giới tính, trình độ ngoại ngữ, động lực, niềm tin,
văn hóa
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu các chiến lược học tập ngôn ngữ chưa thực sự
thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đúng như tầm quan trọng của nó. Các
nghiên cứu trong lĩnh vực này ở nước ta còn tập trung chủ yếu vào việc dạy và học Anh
văn. Một trong những lý do của thực tế này là chúng ta chưa có công cụ đo các chiến
lược học tập phù hợp với người Việt, văn hóa Việt và có thể dùng để nghiên cứu nhiều
ngoại ngữ khác nhau.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập trung vào việc miêu tả công việc
chuyển dịch và khảo sát độ tin cậy của bảng câu hỏi điều tra chiến lược học ngoại ngữ
do Oxford (1990) biên soạn trên đối tượng người Việt học ngoại ngữ Pháp văn. Bài viết
này được chia ra 3 phần chính. Phần đầu chúng tôi xin trình bày sơ lược cơ sở lý thuyết
của chiến lược học tập ngôn ngữ và bảng câu hỏi điều tra – Strategy Inventory for
Language Learning (SILL) của tác giả Oxford. Chúng tôi dành phần thứ hai để nói về
công việc chuyển dịch bảng câu hỏi từ tiếng Anh sang tiếng Việt và phần thứ ba để
khảo sát độ tin cậy của bộ công cụ đo này.
2. Chiến lược học tập ngôn ngữ
2.1 Định nghĩa và phân loại :
Chiến lược học tập ngôn ngữ đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Rubin (1987 : 23) định nghĩa chiến lược học tập ngôn ngữ như là “các chiến lược góp
phần vào sự phát triển hệ thống ngôn ngữ mà người học phát triển và có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động học”. Oxford (1990 : 8) đã đề nghị một định nghĩa có tích chất tổng
quát hơn khi cho rằng “chiến lược học tập là những hành động đặc biệt mà người học
thực hiện nhằm làm cho việc học tập trở nên dễ dàng nhất, nhanh nhất, vui vẻ hơn, chủ
động hơn, hiệu quả hơn và có thể dễ dàng hơn trong việc áp dụng các kiến thức đã h
ọc
vào tình huống mới”. O’Malley và Chamot (1990:1), dựa trên các quan sát về tiến trình
tri nhận thông tin, miêu tả chiến lược học tập như là “cách thức tri nhận thông tin có
tính chất riêng biệt và làm nổi bật các quá trình hiểu, nhận thức và ghi nhớ thông tin”.
Trong bài viết này, chúng tôi chọn định nghĩa của Oxford (1990) vì nó có tính chất tổng
quát và phù hợp hơn với các nghiên cứu miêu tả chiến lược học tập của đối tượng người
Việt Nam học ngoại ngữ mà chúng tôi dự
định thực hiện sau này.
Chiến lược học tập cũng được các nhà nghiên cứu phân loại theo nhiều cách
khác nhau. Chúng tôi chọn giới thiệu bảng phân loại của Oxford (1990) vì nó phù hợp
với các nghiên cứu về việc sử dụng các chiến lược học tập (Hsiao & Oxford, 2002) và
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
23
cho phép tạo mối liên kết giữa từng chiến lược, từng nhóm chiến lược với với các kỹ
năng thực hành tiếng: nghe, nói, đọc, viết (Oxford & Burry-Stock, 1995). Theo tác giả
này các chiến lược học tập ngôn ngữ có thể được sắp xếp vào 6 nhóm khác nhau được
đặt tên lần lượt là: chiến lược ghi nhớ (memory strategy), chiến lược nhận thức
(cognitive strategy), chiến lược bù đắp (compensation strategy), chiến lược điểu khiển
nhận thức (metacognitive strategy), chiến lược về mặt tâm lý (affective strategy) và
chiến lược xã hội (social strategy).
Từ định nghĩa và bảng phân loại nêu trên, Oxford đã tiến thêm một bước khi xây
dựng bộ cộng cụ khảo sát chiến lược học tập ngôn ngữ - Stategy Inventory for
Language Learning (SILL) mà chúng tôi sẽ giới thiệu trong phần tiếp theo.
2. Bảng hỏi khảo sát chiến lược học ngôn ngữ (SILL) của Oxford
SILL đã được tác giả Oxford phát triển từ năm 1986 cho đến nay. Đầu tiên bảng
hỏi này được xây dựng để điều tra tần suất sử dụng các chiến lược học tập của sinh viên
Học viện Bảo vệ Ngôn ngữ (Defense Language Institute) tại Monterey thuộc tiểu bang
California, Hoa Kỳ. Từ phiên bản đầu tiên này đã được tiếp tục phát triển thành hai
bảng hỏi khác nhau. Một bảng hỏi (80 items) dành cho những người nói tiếng Anh học
ngoại ngữ khác và một bảng hỏi khác ngắn hơn (50 items) dành cho những người học
tiếng Anh như là ngoại ngữ hay ngôn ngữ thứ hai. Cả hai phiên bản này đã được tác giả
công bố trong tác phẩm Language Learning Strategies: What Every Teachers Should
Know được xuất bản năm 1990.
Cả hai phiên bản SILL đều sử dụng thang độ Likert 5 bậc (từ rất đồng ý đến
hoàn toàn không đồng ý) và các nhóm phát ngôn (items) được chia tương ứng với các
nhóm chiến lược trong bảng phân loại của Oxford. Với mong muốn sử dụng SILL trong
các nghiên cứu về chiến lược học tập trên đối tượng người Việt Nam học ngoại ngữ,
trong đó có tiếng Anh và các ngoại ngữ khác, chúng tôi chọn phiên bản thứ nhất với 80
items dù biết số lượng lớn items là một khó khăn không nhỏ cho việc thực hiện điều tra
và sử lý dự liệu sau này. Sự phân bố các phát ngôn (items) cho từng nhóm chiến lược
học tập như sau : chiến lược ghi nhớ (15 items), chiến lược nhận thức (25 items), chiến
lược bù đắp (compensation strategy), chiến lược điểu khiển nhận thức (metacognitive
strategy), chiến lược về mặt tâm lý (affective strategy) và chiến lược xã hội (social
strategy)
Từ ngày được công bố cho đến nay, SILL đã được sử dụng rất rộng rãi trên toàn
thể giới để nghiên cứu các chiến lược học tập ngôn ngữ trên nhiều đối tượng khác nhau.
Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi, SILL đã được các nhà nghiên cứu chuyển dịch sang
tiếng Hoa, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Hàn, tiếng Thái, tiếng Nga,
tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ukraina … và nhiều ngôn ngữ khác nữa. Tại Việt
Nam, đã có một số nghiên cứu trong lĩnh vực này như Lưu Quý Khương (1997), Lê Thị
Xuân Ánh (2001) Trần Thu Thảo (2009)… nhưng các nghiên cứu này chỉ tập trung vào
Anh văn và sử dụng phiên bản SILL 50 items. Những lý đo này đã thôi thúc chúng tôi
thực hiện việc chuyển dịch phiên bản SILL 80 items (SILL-80) sang tiếng Việt và khảo
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
24
sát độ tin cậy của công cụ này trên đối tượng người Việt Nam học tiếng Pháp như là
một ngoại ngữ.
3. Chuyển dịch SILL-80 sang tiếng Việt
Để chuyển dịch SILL từ nguyên bản tiếng Anh sang tiếng Việt, chúng tôi đã
tuân thủ đầy đủ các quy trình được khuyến cáo trong nghiên cứu khoa học với các bước:
chuyển dịch và kiểm tra tương quan giữa hai phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt.
Công việc chuyển dịch : Chúng tôi đã chọn phương pháp dịch – dịch ngược
(translation – back translation). Đầu tiên, phiên bản tiếng Anh đã được tác giả của bài
viết này dịch sang tiếng Việt. Bản dịch tiếng Việt đầu tiên này được dịch trở lại tiếng
Anh. Cả hai người dịch cùng thảo luận với nhau về các điểm khác biệt trong hai phiên
bản tiếng Anh và tiếng Việt để đi đến một thống nhất chung về cách dịch sang tiếng
Việt của SILL-80. Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của một nhà nghiên cứu ngôn ngữ
tiếng Việt để có được những nhận xét về cú pháp tiếng Việt. Một vài sửa đổi đã được
thực hiện, chủ yếu tập trung vào việc làm cho các phát ngôn (items) tuân thủ hơn các
cấu trúc của tiếng Việt.
Khi có được phiên bản thứ ba này, chúng tôi đã tham khảo ý kiến của 2 học
sinh trường Trung học Phổ thông Phan Chu Trinh, đối tượng mà chúng tôi cho rằng sẽ
gặp nhiều khó khăn nhất trong việc hiểu rõ các phát ngôn. Đúng như dự đoán, khá
nhiều phát ngôn (items) trong bảng hỏi còn mập mờ, khó hiểu đối với hai học sinh
này. Vì lý do đó, chúng tôi đã quyết định dựa vào các ví dụ trong tác phẩm Language
Learning Strategies: What Every Teachers Should Know của Oxford (1990) để thêm
những ví dụ và minh họa cho các phát ngôn của SILL-80 phiên bản tiếng Việt với
mục đích làm cho các phát ngôn này trở nên dễ hiểu hơn. Cụ thể là chúng tôi đã thêm
ví dụ cho các items 1, 2, 3, 4, 5, 8, 12, 14, 34, 35, 46 và 79; thêm minh họa cho các
items 9, 11.
Từ một ý kiến mà chúng tôi cho là rất quan trọng của Hambleton (1994 : ) “việc
lựa chọn những người am tường cả hai ngôn ngữ để nhận xét bản dịch là chưa đủ; kinh
nghiệm trong lĩnh vực đang nghiên cứu cần phải được coi trọng”, chúng tôi đã nhờ hai
nhà nghiên cứu thông thạo cả tiếng Việt và tiếng Anh và nhất là đã có những công trình
trong lĩnh vực này xem xét thêm một lần nữa phiên bản đã thêm các ví dụ và minh họa.
Một vài sửa đổi nhỏ đã được thực hiện để có được phiên bản thứ tư của SILL-80 tiếng
Việt.
Ở công đoạn cuối cùng, chúng tôi đã dùng phiên bản thứ tư của SILL-80 tiếng
Việt để điều tra thử nghiệm trên 28 học sinh lớp 12 của trường Trung học Phổ thông
Phan Chu Trinh – Đà Nẵng. Thử nghiệm này nhằm mục đích đánh giá thời lượng cần
thiết thể thực hiện điều tra và xem xét một lần cuối phiên bản SILL-80 tiếng Việt trước
khi đưa ra sử dụng trong các nghiên cứu. Kết quả: một sửa đổi nhỏ đã được thực
hiện tại phát ngôn (item) số 23 và thời gian cần thiết để trả lời bảng hỏi này là từ 25 đến
30 phút.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
25
Tương quan giữa nguyên bản và SILL-80 tiếng Việt : Chúng tôi đã tiến hành
điều tra trên 36 học viên cao học học bằng 2 hệ vừa làm vừa học tại Khoa Tiếng Pháp
của trường Đại học Ngoại ngữ (ĐHNN) thuộc Đại học Đà Nẵng (ĐHĐN). Chúng tôi đã
chọn đối tượng này vì đây là những người đang học tiếng Pháp và biết tiếng Anh. Hai
phiên bản SILL-80 tiếng Anh và tiếng Pháp được sử dụng trên cùng một đối tượng này
và khoảng cách giữa hai lần điều tra là 14 ngày. Sau đó, chúng tôi sử dụng phần mềm
SPSS 18.0 để phân tích hệ số tương quan giữa kết quả của hai lần điều tra. Hệ số tương
quan thu được là r:0.83. Như vậy có thể kết luận có sự tương quan rất cao giữa kết quả
điều tra của hai phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt. Điều này khẳng định giá trị so sánh
chéo (cross validity) của phiên bản SILL-80 tiếng Việt.
4. Khảo sát độ tin cậy của phiên bản SILL-80 tiếng Việt
4.1 Người tham gia
Chúng tôi đã tiến khảo sát trong khoảng thời gian từ giữa tháng 09/2010 đến
giữa tháng 10/2010. 267 phiếu điều tra đã được phát ra và 246 phiếu thu về, đạt tỉ lệ
92.1%. Sở dĩ chúng tôi có được số phiếu thu về cao như vậy là nhờ việc chúng tôi nhờ
các giáo viên đang trực tiếp giảng dạy thực hiện điều tra ngay tại lớp trong giờ giải lao
và thu ngay phiếu điều tra đã điền đầy đủ. 21 phiếu (7.9%) chúng tôi không thu được là
số phiếu chúng tôi nhờ người tham gia điều tra làm tại nhà và gởi lại cho chúng tôi vào
ngày hôm sau.
Một trong các phương pháp khảo sát độ tin cậy của thang đo đó là phương pháp
thử - thử lại (test-retest reliability). Để áp dụng phương pháp này, chúng tôi đã đề nghị
34 người (13.8%) trong số 246 người tham gia điều tra điền phiếu điều tra hai lần và hai
lần cách nhau 10 ngày.
4.2 Phương pháp
Để đánh giá độ tin cậy của SILL-80 tiếng Việt, chúng tôi tiến hành thực hiện hai
phương pháp: phương pháp thử - thử lại (test-retest reliability) và phương pháp nhất
quán nội tại (internal consistency reliability) với hai kỹ thuật: kỹ thuật chia đôi (half-
split reliability) và hệ số alpha của Cronbach.
Phương pháp thử - thử lại: Các đo lường được lặp lại trong điều kiện như nhau và
cánh nhau một khoảng thời gian ngắn nhằm xem xét độ ổn đinh trong trả lời. Kết quả
của phương pháp này là hệ số tương quan giữa hai lần thử (r). Hệ số r đạt đến giá trị 1
nếu kết quả của hai lần thử hoàn toàn giống nhau. Nhưng trong thực tế trường hợp này
rất khó xảy ra, cho nên nếu r ≥ 7 được xem là chấp nhận được hay tốt.
Kỹ thuật tách đôi: Kỹ thuật tách đôi là một kỹ thuật để đánh giá độ nhất quá nội tại
của thang đo. Theo đó, các items của thang đo sẽ được chia làm hai phần để đánh giá
tương quan giữa hai phần này. Hệ số R ≥ 7 được xem là chấp nhận được hay tốt.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
26
Hạn chế của kỹ thuật này là kết quả phụ thuộc vào cách thức chúng ta chia các items
làm đôi. Chính vì thế, chúng ta cần xem xét hệ số alpha của Cronbach (alpha’s
Cronbach)
Hệ số alpha của Cronbach: Yêu cầu tối thiểu của hệ số này là α = 0.6 (Nunnally &
Burnstein, 1994)
Để thực hiện các đánh giá này, chúng tôi đã sử dụng phần mềm PASW 18.0.
4.3 Kết quả và bàn luận
4.3.1 Phương pháp thử - thử lại:
34 người tham gia trả lời đã điền phiếu thăm dò lần hai với khoảng cách giữa hai
lần là 10 ngày. Kết quả đạt được với r = 0.83. Giá trị này của r cho phép chúng tôi
khẳng định tương quan của hai lần thử là cao, điều đó có nghĩa SILL-80 tiếng Việt có
khả năng cho ra kết quả có độ ổn định cao trong các nghiên cứu sau này có sử dụng
công cụ này.
4.3.2 Kỹ thuật tách đôi:
Bảng 1 : Kết quả kỹ thuật tách đôi
Value .891 Part 1
N of Items 40
a
Value .908 Part 2
N of Items 40
b
Cronbach's Alpha
Total N of Items 80
Correlation Between Forms .788
Equal Length .881 Spearman-Brown Coefficient
Unequal Length .881
Guttman Split-Half Coefficient .879
a. The items are: 1 Æ 40.
b. The items are: 41 Æ 80.
Các chỉ số thu được sau khi sử lý bằng phần mềm PAWS 18.0 được trình bày
trong Bảng 1. Chúng ta thấy rõ là tương quan giữa hai lần thử r = 0.79 và alpha của
Cronbach cho từng phần là α = 0.89 và α = 0.91. Ngoài ra tất cả các chỉ số khác trong
bảng thống kê đều rất cao. Tất cả điều đó cho phép chúng tôi khẳng định SILL-80 tiếng
Việt thỏa mãn các yêu cầu trong kỹ thuật tách đôi.
4.3.3 Hệ số alpha của Cronbach:
Bảng 2. Kết quả khảo sát alpha của Cronbach
Biến tiềm ẩn Số biến quan sát Alpha của Cronbach
Chiến lược ghi nhớ 15 7.38
Chiến lược nhận thức 25 8.69
Chiến lược bù đắp 8 6.69
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
27
Chiến lược điều khiển nhận thức 16 8.84
Chiến lược về mặt tâm lý 7 6.67
Chiến lược xã hội 9 7.47
SILL-80 tiếng Việt 80 9.43
Theo kết quả từ Bảng 2, hệ số alpha của Cronbach cho các biến tiểm ẩn giao
động từ 6.67 đến 8.84 và giá trị của hệ số này cho toàn bộ bảng hỏi là 9.43. Kết quả này
hoàn toàn thỏa mãn yêu cầu của Nunnally & Burnstein (1994) để khẳng định độ tin cậy
của SILL-80 tiếng Việt.
5. Kết luận
Mục tiêu của bài viết này là đánh giá quá trình chuyển dịch SILL-80 từ nguyên
bản tiếng Anh sang tiếng Việt và khảo sát độ tin cậy của công cụ này trên đối tượng
người Việt Nam học tiếng Pháp.
Công việc chuyển dịch như mô tả ở trên cho thấy SILL-80 đã được chuyển dịch
sang tiếng Việt với các điều chỉnh cần thiết để phiên bản này trong sáng về tiếng Việt
mà vẫn giữ nguyên các nội dung của nguyên bản tiếng Anh.
Tất cả các hệ số trong quá trình khảo sát độ tin cậy đều chứng tỏ SILL-80 có độ
tin cậy cao và có thể được áp dụng trong thời gian tới trong các nghiên cứu chiến lược
học tập của người Việt học tiếng Pháp như là ngoại ngữ.
Tuy nhiên, sự thận trọng vẫn là cần thiết khi sử dụng những kết luận của bài viết
này vì những lý do sau. Thứ nhất, số lượng người tham gia điều tra còn thấp (n=246) so
với số lượng biến (n=80). Thứ hai, nghiên cứu chỉ tập trung trên các đối tượng tại địa
bàn thành phố Đà Nẵng nên tính đại diện còn hạn chế mặc dù chúng tôi đã cố gắng thu
thập dự liệu trên nhiều loại hình đào tạo tiếng Pháp tại thành phố Đà Nẵng: chuyên ngữ,
không chuyên, hệ chính quy, hệ vừa làm vừa học, học tiếng Pháp tại trung tâm ngoại
ngữ, cấp độ đại học, phổ thông… Thứ ba, trong bài viết này chúng tôi chỉ tập trung
đánh giá SILL-80 ở phương diện độ tin cậy. Một phương diện khác nữa cũng không
kém phần quan trọng là độ chính xác (validity) mà chúng tôi sẽ trình bày kết quả khảo
sát trong một bài viết khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hambleton R. K. (1996), “Guidelines for Adapting Educational and Psychological
Test”, The Annual Meeting of the National Council on Measuring in Education,
New York.
[2] Hsiao T. Y. & Oxford R. L. (2002) “Comparing theories of language learning
strategies: A Confirmatory Analysis”, The Modern Language Journal, 86, iii,
368-383
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
28
[3] Lê Thị Xuân Ánh (2001), An investigation into Listerning Strategies Used by
Thirth and Fourth Year Students of English Departement of College of Foreign
Languages – The University of Da Nang, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Ngoại ngữ,
Đại học Đà Nẵng.
[4] Lưu Quý Khương (1997), An Investigation of English Learning Strategies of
Vietnamse Learners at the Intermediate Level of English Proficiency, Luận văn
Thạc sỹ, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[5] Nunnally, J. C. (1994) & Bernstein, I. H., Psychometric Theory (3
rd
Ed.), New
York: McGraw-Hill.
[6] O’Malley, M., & Chamot, A. U. (1990), Learning Strategies in Second Language
Acquisition, Cambridge: CUP.
[7] Oxford R. L. (1990), Language Learning Strategies: What Every Teachers Should
Know, Newbury House Publishers, New York.
[8] Oxford R. L. & Burry-Stock J. (1995), “Assessing the Use of Language Learning
Strategies Worldwide with the ESL/EFL Version of the Strategy Inventory for
Language Learning (SILL)”, System, 23 (1), 1-23.
[9] Rubin J. (1987), “Learner Strategies: Theoretical Assumptions, Research History
and Typology”, in Wenden & Rubin (Eds), Learner Strategies in Language
Learning, Englewood, NJ: Prentice Hall.
[10] Trần Thu Thảo (2009), The Effects of Metacognitive Strategies Training on High
School Students’ English Language Performance, Luận văn Thạc sỹ, Đại học
Hà Nội.