TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(29).2008
1
NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT HIỆN TRẠNG ĂN MÒN
PHÁ HỦY CỦA CÁC CÔNG TRÌNH BÊ TÔNG
CỐT THÉP VÀ KHẢ NĂNG XÂM THỰC CỦA MÔI
TRƯỜNG VÙNG VEN BIỂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
AN INVESTIGATION ON THE CORROSION DESTRUCTIVE IN
REINFORCED CONCRETE STRUCTURE AND POSSIBILITY OF
ENVIRONMENTAL EROSION OF DANANG’S SEASIDE
TRƯƠNG HOÀI CHÍNH –
TRẦN VĂN QUANG – NGUYỄN PHAN PHÚ
Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng
HUỲNH QUYỀN
Trường Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh
TM TT
Ăn mn ct thp lm hư hng kt cu bê tông ct th p l vn đ ph bin trong xây
dng cc công trnh bin . Bi bo ny trnh by mt vi kt qu nghiên cu v kim
nghim v vn đ ăn mn ct thp trong kt cu bê tông ct thp dưi tc đng ca
nưc bin v môi trưng ở vng bin Đ Nng . Bài báo ny s góp mt s ý kin cho
vic xây dng công trnh vi mc đch gia tăng đ bn kt cu bê tông ct thp trong
vng bin Đ Nng.
ABSTRACT
Corrosion of reinforced steel damaging reinforced concrete structure is a widespread
construction problem for in the coastal areas. This article refers to some results of
study and inspection in regard of the abrasion of reinforcement in reinforced concrete
structure under sea and the environment effect of Danang’s seaside. The discussion
and conclusion will be a foundation for the basic civil constructions to increase the
durability of reinforced concrete structures on the Danang’s seaside.
1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu khảo sát hiện tr ng ăn mòn phá hủy của các công trình và môi
trường xâm thực là vấn đề quan trọng trong việc xây dựng cơ sở để đưa ra định hướng,
phương pháp bảo vệ phù hợp và hiệu quả kinh tế đối với các công trình xây dựng vùng
ven biển.
Với vị trí địa lí của mình, Đà Nẵng là một thành phố có rất nhiều công trình xây
dựng dân dụng và công nghiệp (DD & CN ) bằng thép, bê tông cốt thép ( BTCT) chịu
ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu vùng biển. Kết quả nghiên cứu khảo sát đánh giá hiện
trng ăn mòn và mức độ xâm thực của môi trường là cơ sở giúp cho các nhà quản lí,
thiết kế, thi công… có những định hướng biện pháp sữa chữa, chống ăn mòn cho các
công trình BTCT một cách phù hợp để nâng cao tuổi thọ, tăng hiệu quả đầu tư cho các
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(29).2008
2
công trình, góp phần vào sự phát triển ổn định cho thành phố Đà Nẵng.
2. Kết quả nghiên cứu và khảo sát
Để thực hiện các nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu là
khảo sát thực tế ti hiện trường và đo đc ti hiện trường hoặc lấy mẫu đo đc trong
phòng thí nghiệm.
- Hiện trạng ăn mòn phá hủy công trình
Các kết quả khảo sát trên hiện trường ti bốn công trình tiêu biểu bao gồm: Cầu
Nguyễn Văn Trỗi, Cảng cá Thuận Phước, Cảng Liên Chiểu và Cảng Tiên Sa cho thấy
rằng, tất cả 4 công trình đều nằm ở trong tình trng ăn mòn và phá hủy từ mức độ trung
bình cho đến rất nặng. Nhiều vị trí công trình bị hư hỏng nặng, không còn khả năng chịu
lực, lớp bê tông bảo vệ bị bong bục từng mảng do cốt thép bị ăn mòn nặng.
Các mẫu bê tông được lấy trực tiếp ti các công trình và được đo đc, phân tích
trong phòng thí nghiệm (ti Trung tâm II). Các chỉ tiêu phân tích bao gồm những chỉ tiêu
0
0,02
0,04
0,06
0,08
0,1
0,12
0,14
Giữa
Biên ngoài
Cl
-
(%)
Chiều dày lớp BT bảo vệ
Ngưỡng ăn mòn
Cốt thép
Hình 3. Sự biến thiên hàm lượng Cl- theo chiều dày lớp bê tông bảo vệ
♦: Cảng Liên Chiểu
∆: Cảng Tiên Sa
●: Cảng cá Thuận Phước
Hình 1. Hiện trạng ăn mn các công trnh khảo sát tại vng bin Đà Nẵng
a, b: Cảng Tiên Sa; c: Cảng cá Thun Phước; d: Cu Nguyn Văn Tri
a.
b.
c.
d.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(29).2008
3
đặc trưng cho khả năng bị ăn mòn của kết cấu như hàm lượng Cl
-
, SO
4
-2
, pH Kết quả
phân tích mẫu cho thấy, hàm lượng Cl
-
thấm đều theo chiều dày của lớp bê tông bảo vệ và
gấp 3-4 lần giới hn cho phép (hình 3). Hàm lượng SO
4
-2
Điện thế ăn mòn của cốt thép được đo đc trực tiếp ti các công trình. Phương
pháp đo đc sử dụng trong quá trình nghiên cứu là điện cực so sánh Ag/AgCl. Kết quả
đo đc được đánh giá dựa vào tiêu chuẩn ASTM C 876 và giản đồ E-pH của hệ Fe-
H
cũng nằm trong tình trng trên
và nằm ngoài vùng cho phép của ngưỡng ăn mòn. pH bê tông dao dộng từ 10-11,7.
2
Bảng 1. Kết quả đo đạc điện thế ăn mn cốt thép và khả năng ăn mn tại các công trnh.
O, xem bảng 1.
Công trình
Điện thế so với điện thế
Ag/AgCl (mV)
Khả năng ăn
mòn cốt thép
Phương pháp đánh giá
Cảng Tiên Sa
-436 đến -516 ≥95% ASTM C876
Cảng Thuận Phước
-409 đến -450 ≥90% ASTM C876
Cảng Liên Chiểu
-320 đến -460 ≥90% ASTM C876
Cầu Nguyễn Văn Trỗi
-306 đến -325 ≥90% Giản đồ E-pH hệ Fe- H2O
Bảng 2. Kết quả đo đạc phân tích các thông số không khí ven Bin Đà Nẵng
TT
Thông số ĐVT
PP
Phân
tích
Cảng
Liên Chiểu
Cầu Nguyễn
Văn Trỗi
Cảng
Thuận
Phước
Cảng
Tiên Sa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
1 SO2 mg/m3
Trắc
quang
- UVIS
0,07 0,01 0,19 0,06 0,04 0,06 0,11 0,03
2 Cl- mg/m3 Chuẩn độ 0,18 0,04 0,19 0,05 0,21 0,05 0,32 0,09
3 Nhiệt độ 0C 35,57 - 32,13 - 0,53 0,50 36,55 -
4 Độ ẩm % 33,17 - 42,00 - 44,20 - 40,93 -
5 Vận tốc gió m/s 2,95 - 1,69 - 1,54 - 2,49 -
Kết quả phân tích và đo đc ti các vị trí cho thấy, do Đà Nẵng có nhiều nhánh
sông chảy ra, nên độ mặn của tầng nước mặt có thay đổi. Nhưng nhìn chung, độ mặn
Hình 4. Công tác đo đạc điện thế ăn mn tại các công trnh
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(29).2008
4
của vùng ven biển Đà Nẵng tương đương với các vùng biển khác ở Việt Nam và trên
thế giới, bảng 3.
Bảng 3. So sánh một số thông số của vng bin Đà Nẵng và các khu vực.
Chỉ tiêu Đơn vị Biển Hòn Gai
Biển Hải Phòng Biển Bắc Mỹ Biển Bantic Đà Nẵng
pH
- 7,8-8,4 7,5-8,3 7,5 8,0
7,7
Cl-
g/l 6,5-18,0 9,0-18,0 18,0 19,0
0,4-12
SO
4
g/l
-2
0,2-1,2 0,002-1,1 1,4 1,3
0,2-0,9
3. Bàn luận
Kết quả nghiên cứu khảo sát đã xây dựng hoàn thiện một thực trng bị ăn mòn
phá hủy của các công trình vùng ven biển Đà Nẵng. Hầu như các công trình bị ăn mòn
đều nằm trong khả năng bị ăn mòn trên 90%. Các công trình đều xuống cấp sau 5-10
năm đưa vào sử dụng (cảng cá Thuận Phước, cảng Liên Chiểu), công trình cảng Tiên Sa
nằm trong tình trng bị ăn mòn phá hủy ở mức báo động, nhiều kết cấu ti công trình
này bị phá hủy hoàn toàn không còn khả năng phục hồi được.
Theo các kết quả nghiên cứu thì ảnh hưởng của môi trường xâm thực đế n quá
trình ăn mòn rất phức tp. Ngoài các tác động của khí hậu như nhiệt độ, độ ẩm môi
trường, không khí thì các tác nhân hoà tan trong môi trường đặc biệt là môi trường
nước biển, gây xâm thực rất mnh. Các yếu tố gây ăn mòn tác động tương hỗ lẫn nhau
trong quá trình ăn mòn phá huỷ vật liệu. Trong quá trình xâm thực, phá huỷ cốt thép
trong BTCT, thì sự thâm nhập của ion SO
4
-2
và Cl
-
là quá trình xảy ra thường xuyên và
đóng vai trò chủ yếu gây nên sự phá huỷ BTCT. Sự xâm thực của SO
4
-2
gây ra sự thay
đổi cấu trúc vi mô và làm giản nở bê tông, sinh ra các vết nứt, chính các vết nứt này
tăng cường sự thâm nhập của các tác nhân xâm thực khác và phá hủy cốt thép trong bê
tông cốt thép. Trong trường hợp ion Cl
-
, ngoài sự có mặt của nó trong quá trình sử dụng
vật liệu, thi công, thì quá trình thâm nhập thông qua lớp bê tông bảo vệ từ môi trường
rất mnh. Sự tồn ti của ion Cl
-
gây nên sự phá hủy màng thụ động của cốt thép, khơi
mào cho quá trình ăn mòn và phá hủy. Bên cnh đó, sự phá huỷ BT và BTCT còn do sự
thâm nhập của CO
2
qua các khe nứt, hoặc qua các vùng bê tông có độ đặc chắc kém, sự
có mặt của CO
2
kết hợp với Ca(OH)
2
có trong bê tông to ra một vùng có pH thấp và
đưa đến sự phá hoi cốt thép trong bê tông. Nước biển là một trong những môi trường
Hình 5. Công tác đo đạc, lấy mẫu bê tông tại các công trnh khảo sát
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(29).2008
5
có độ xâm thực mnh do chứa nhiều tác nhân gây ăn mòn và phá hủy như Cl-, SO
4
2-
,
O
2
Trên cơ sở các số liệu thu thập và đo đc, khí hậu Đà Nẵng tương đối giống các
vùng khác ti Việt Nam với đặc trưng là nhiệt đới ẩm ướt, gió mùa, nhiều nắng và mưa.
Tuy nhiên, khí hậu Đà Nẵng còn có những đặt trưng riêng là sự tác động theo chu kỳ khô-
ẩm và nhiều gió, bão. Trong mùa đông, thường xen kẽ những đợt gió mùa Đông- Bắc
kèm theo thời tiết hanh khô với các đợt mưa phùn độ ẩm cao. Về mùa hè, trời nắng nóng
làm nước bốc hơi nhanh nhưng li có những đợt mưa rào làm thấm ướt đột ngột. Các tác
động trên gây nên quá trình khô ẩm bề mặt kết cấu và khuếch đi tốc độ thẩm thấu của
các chất xâm thực trên bề mặt. Các đợt gió bão cũng đưa vào vùng ven biển một lượng
muối khá lớn. Do có độ ẩm không khí cao đặc biệt mùa mưa, kết hợp với những cơn mưa
thường xuyên dẫn đến bề mặt của các công trình luôn luôn bị ẩm [1], đặc biệt vào tháng 2
đến tháng 4 trong năm. Sự ẩm ướt bề mặt của công trình làm tăng khả năng khuyếch tán
các ion xâm thực qua lớp bê tông bảo vệ. Sự chênh lệch lớn của nhiệt độ giữa mùa đông
và mùa hè, kèm theo sự thay đổi mnh của độ ẩm giữa mùa mưa (~40% ) và mùa khô
(~85%) gây nên sự giãn nở của lớp BT bảo vệ, sinh ra các vết nứt trên bề mặt cũng tăng
cường quá trình thâm nhập các tác nhân gây ăn mòn phá huỷ. Nhìn chung, khả năng bị ăn
mòn phá hủy của các công trình BTCT ở Đà Nẵng là rất lớn.
hoà tan, ngoài ra còn có các khoáng chất khác
Kết quả phân tích và đo đc môi trường nước biển được thực hiện chủ yếu ở
tầng nước mặt do sự ăn mòn phá huỷ các công trình xảy ra mnh nhất ti vùng này.
Nhìn chung, độ mặn và thành phần nước biển ti các vị trí khảo sát tương đối khác nhau
điều này xảy ra là do nguyên nhân các vị trí công trình khảo sát đều nằm ở cửa sông. Độ
mặn tính theo nồng độ ion Cl
-
ti các vị trí khảo sát tương đối thấp hơn so với những
vùng biển khác ở trong nước và trên thế giới. Nồng độ Cl
-
thấp nhất ti khu vực cầu
Nguyễn Văn Trỗi dao động trong khoảng 71-77 mg/l đối với mùa mưa và 198,5 đến
327,6 mg/l mùa khô. Vị trí có nồng độ Cl
-
cao nhất là cảng Liên Chiểu thay đổi từ
9075,2 đến 14357,3 mg/l đối với mùa khô và 922,9 đến 923,5 mg/l đối với mùa mưa,
trong khi đó nồng độ của vùng biển Hòn Gai dao động từ 6000 đến 18000mg/l, biển
Bắc Mỹ 18000mg/l. Sự thay đổi lớn về nồng độ Cl- trong nước biển là do hằng năm ở
Đà Nẵng có lượng mưa lớn, giá trị lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 2041,5
(mm/năm). Theo kết quả khảo sát thì khu vực Đà Nẵng thì lượng Cl
-
sa lắng lớn khoảng
40-80mg/m
2
/ ngày [2]. Hàm lượng SO
4
-2
Kết quả khảo sát về môi trường không khí của vùng biển Đà Nẵng cho thấy,
mức độ xâm thực của yếu tố này cũng rất lớn. Với hàm lượng các ion Cl-, SO
ti các vùng khảo sát thấp hơn so với các vùng
biển trên thế giới (khoảng 2000mg/l), ngược li pH đo đc được ti các vị trí khảo sát
tương đương với các vùng biển trên thế giới và trong nước, giá trị pH thay đổi từ 7,2
đến 8,0. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, hàm lượng của các yếu tố gây
ăn mòn trong môi trường nước biển vùng ven bờ thành phố Đà Nẵng tương đối thấp
hơn so với các môi trường vùng biển khác ở Việt Nam và trên thế giới. Nhưng do nằm
trong điều kiện khí hậu thúc đẩy quá trình ăn mòn, phá hủy nên khả năng gây ăn mòn
của các yếu tố này lớn hơn so với các khu vực khác ở Việt Nam và trên thế giới.
-2
4
nằm
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(29).2008
6
trong các nhóm khí B,C,D kết hợp với độ ẩm tương đối lớn hơn 85% trong mùa mưa,
môi trường không khí ven biển Đà Nẵng thuộc vào vùng xâm thực trung bình đến nặng
(TCVN 3994-1995). Bên cnh đó, sự kết hợp với kh í hậu nóng nắng về mùa khô làm
bốc hơi một lượng lớn muối vào trong môi trường không khí, tăng khả năng xâm thực
của ion Cl
-
, SO
-2
4
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu và khảo sát cho thấy rằng với sự kết hợp của
môi trường khí hậu, thành phần nước biển và môi trường không khí, vùng ven biển Đà
Nẵng là một môi trường xâm thực và gây ăn mòn phá hủy rất mnh đối với các công
trình BTCT.
vào các lớp bê tông bảo vệ đối với các công trình BTCT.
4. Kết luận
Mức độ xâm thực của môi trường (không khí, nước biển) là một yếu tố quyết
định đến khả năng gây ăn mòn phá huỷ của các công trình. Kết quả nghiên cứu và khảo
sát cho thấy, đặc điểm thành phần nước biển, môi trường không khí của các vùng ven
biển Đà Nẵng (ti các vị trí khảo sát) có độ xâm thực từ trung bình đến nặng. Bên cnh
đó, kết hợp với điều kiện khí hậu, các công trình luôn chịu ảnh hưởng lớn của các tác
động thường xuyên như nhiệt độ, độ ẩm, hàm lượng Cl
-
Kết quả nghiên cứu khảo sát là cơ sở dữ liệu để minh chứng cho khả năng xâm
thực mnh của môi trường ven biển Đà Nẵng, là cơ sở cho việc đánh giá đưa ra những
biện pháp, công nghệ phù hợp nhằm bảo vệ chống ăn mòn xâm thực, nâng cao tuổi thọ
cho các công trình vùng ven biển Đà Nẵng, đặc biệt là các c ông trình cầu cảng, góp
phần vào sự phát triển bền vững kinh tế của thành phố.
khuếch tán lớn, tác động theo
chu kỳ khô - ẩm và nhiều gió bão, mùa đông, thường có những cơn mưa phùn, thời tiết
hanh khô, ngược li mùa hè, trời nóng làm nước bốc hơi nhanh nhưng có những cơn
mưa phùn đột ngột. Chính những tác nhân này gây nên những quá trình khô ẩm trên bề
mặt kết cấu công trình, tăng cường quá trình xâm thực của các tác nhân gây ăn mòn phá
huỷ đến công trình. Hiện nay, hầu hết các công trình vùng ven biển Đà Nẵng đều bị ăn
mòn phá hủy ở mức độ trung bình đến nặng, các công trình đều bị xuống cấp do sự ăn
mòn phá hủy sau 5-10 năm đưa vào sử dụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tài liệu tập huấn kỹ thuật, ”Chống ăn mn và bảo vệ các công trnh BT và BTCT
vùng bin”, Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng, Bộ Xây dựng, Hà Nội 2002.
[2] ThS. Trương Hoài Chính, TS. Huỳnh Quyền; TS. Trần Văn Quang; KS. Nguyễn
Phan Phú, “Phân tích kết quả đo đc các tác nhân gây ăn mòn xâm thực”, Báo cáo
chuyên đề, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố, Đà Nẵng 11/2007.
[3] ThS. Trương Hoài Chính, TS. Huỳnh Quyề n; TS. Trần Văn Quang; KS. Nguyễn
Phan Phú, “Tổng hợp, phân tích, đánh giá và dự báo hiện trng ăn mòn xâm thực
các công trình xây dựng DD&CN vùng ven biển Đà Nẵng”. Báo cáo chuyên đề, Đề
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(29).2008
7
tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố, Đà Nẵng 11/2007.
[4] Thuy T.B. Hoang, Thuy T.B. Nguyen, Corrosion Control of Steel Bridge sumerged
in brackish water- A case study, International Corrosion Engineering Coference,
Seoul, Korea, May 20-24, 2007.
[5] Marshall E.Parker and Edward G.Peattie, Pipe line Corrosion and Cathode
Protection, Third Edition, A pratical manual for corrosion engineers technicians,
and field personnel, Elsevier Science (USA), 1999
[6] Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học “Ăn mòn và bảo vệ các công trnh vùng ven
bin”, Viện Khoa học Kỹ thuật Xây dựng, Hà Nội 8-1999.