11
A. Những mặt tích cực trong hoạt động quản lý ngoại hối:
Trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách quản lý ngoại hối không
ngừng đợc đổi mới để phù hợp với thông lệ quốc tế và thích ứng với cơ chế kinh
tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Trong nửa đẩu kế hoạch 5 năm 2001 -
2005, công tác quản lý ngoại hối đã thu đợc những kết quả đáng khích lệ:
1. Về chính sách lãi suất ngoại tệ
Từ ngày 03/01/ 2001 đến ngày 25/6/2003, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED)
đã 13 lần hạ lãi suất chủ đạo từ 6,5% xuống 1%/năm. Lãi suất khu vực đồng
euro giảm từ 2,5% xuống còn 2%/năm. Lãi suất Sibor cũng giảm. Lãi suất quốc
tế giảm đã ảnh hởng lớn đến việc điều hành chính sách lãi xuất trong nớc.
Những tháng đầu năm 2001, lãi suất cho vay ngoại tệ của các NHTM Việt
Nam đối với cho vay ngắn hạn là dựa trên cơ sở lãi suất Sibor 3 tháng + 1%/năm;
đối với cho vay trung dài hạn là lãi suất Sibor 6 tháng + 2,5%/năm.
Theo dõi diễn biến tình hình tiền tệ quốc tế, từ 01/06/2001, NHNN xoá bỏ
cơ sở dựa vào lãi suất Sibor, cho phép các tổ chức tín dụng căn cứ vào lãi suất thị
trờng quốc tế và quan hệ cung cầu vốn ngoaị tệ trong nớc để thoả thuận với
khách vay ngoại tệ mức lãi suất cho vay. Xét về thực chất, động thái này là việc
tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ - một bớc ngoặt cơ bản của NHNN về chính
sách lãi suất.
Năm 2002, lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đợc điều
chỉnh theo các mức: Không kỳ hạn: 1,2%/năm; 3 tháng: 1,4%/năm; 6 tháng :
1,6?%/năm; 12 tháng: 2,2%/năm (mức này xê dịch tuỳ theo từng ngân hàng). Lãi
suất cho vay ngoại tệ ngắn hạn của các NHTM phổ biến ở mức 3,5 - 4,5%/năm;
trung dài hạn ở mức 4,5%/năm.
Riêng đối với lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tại các tổ chức
tín dụng, NHNN vẫn tiếp tục khống chế ở mức thấp: không kỳ hạn 1%/năm, có
12
kỳ hạn đến 6 tháng là 1,5%/năm, trên 6 tháng 2%/năm, nhằm hạn chế việc găm
giữ USD trên tài khoản.
Nói chung lãi suất ngoại tệ trong 2 năm 6 tháng vừa qua (từ 01/01/2001 -
30/6/2003) chịu ảnh hởng của biến động lãi suất quốc tế và tỉ lệ dự trữ bắt buộc
(DTBB) bằng ngoại tệ do NHNN quy định từng thời kỳ.
Do tác động của lãi suất, tốc độ tăng huy động vốn nói chung của toàn hệ
thống ngân hàng Việt Nam năm 2002 đạt 19,4%/năm, thấp hơn so với tốc độ
tăng 25,1% của năm 2001. Nguyên nhân do lãi suất tiền gửi ngoại tệ thấp dẫn
đến tốc độ tăng huy động vốn ngoại tệ chỉ đạt 5,6% (2001 là 25,98%). Trong khi
đó, lãi suất tiền gửi VND duy trì ở mức cao (loại kỳ hạn 12 tháng từ 0,62 -
0,67%/tháng, tơng đơng 8,04%/năm) khiến nhiều ngời giữ tiết kiệm bằng
ngoại tệ đã chuyển sang VND. Kết quả là, năm 2002, vốn huy động bằng VND
tăng 29,22%, cao hơn so với tốc độ tăng 24,4% năm 2001.
Tốc độ tăng trởng tín dụng (d nợ) năm 2002 đạt 22,2%. Trong đó tín
dụng bằng ngoại tệ tăng mạnh 25,13% so với mức tăng 12,7% của năm 2001. Tín
dụng ngoại tệ tăng chủ yếu do lãi suất cho vay ngoại tệ thấp (do ảnh hởng của
lãi suất quốc tế ). Thậm chí có doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ không đa vào sản
xuất, kinh doanh mà lại bán ra thị trờng tự do lấy VND gửi vào ngân hàng
hởng lãi suất cao (có thời điểm lãi suất tiền gửi VND cao gấp 3 - 4 lần lãi suất
tiền gửi ngoại tệ)
2. Về chính sách tỉ giá
Biên độ tỉ giá đợc nới rộng từ 0,1% năm 2001 lên 0,25% năm 2002.
Động thái này của NHNN đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các tổ
chức tín dụng kinh doanh mua bán ngoại tệ. Sự điều hành tỉ giá theo quy luật
cung cầu ngoại tệ có tính đến khả năng cạnh tranh tỉ giá giữa các ngoại tệ mạnh
(USD, euro, Yên) đã phản ánh ngày càng toàn diện hơn mối quan hệ giữa
VND với ngoại tệ các nớc có quan hệ thơng mại, vay nợ, đầu t với Việt Nam.
13
Qua đó, tỉ giá VND không đơn thuần gắn với USD nh trớc mà gắn với cả "một
rổ tiền tệ" nên giữ đợc thế tơng đối ổn định. Cụ thể là, năm 2001 tỉ giá
USD/VND tăng 3,8%, năm 2002 tăng 2,1%, 6 tháng đầu năm 2003 chỉ tăng
2,6%.
3. Về công cụ dự trữ bắt buộc
Năm 2000 và những tháng đầu năm 2001, lãi suất tiền gửi ngoại tệ còn
cao, vốn ngoại tệ chảy vào ngân hàng nhiều. Để ngăn chặn tình trạng đô la hoá
tài sản nợ của các tổ chức tín dụng, từ tháng 5/2001, NHNN đã nâng tỉ lệ DTBB
ngoại tệ từ 12% lên 15%. Do tri phí đầu vào cao, xu hớng tăng trởng vốn huy
động ngoại tệ giảm dần. Đến tháng 10/2001, do ảnh hởng của lãi suất quốc tế,
lãi suất ngoại tệ trong nớc giảm mạnh, gây khó khăn cho tình hình tài chính của
các tổ chức tín dụng, NHNN đã điều chỉnh tỉ lệ DTBB từ 15% xuống 10%, sang
2002 xuống còn 8% và có chiều hớng còn tiếp tục giảm để phù hợp với chính
sách nới lỏng tín dụng.
4. Về chính sách kết hối
3 năm trở lại đây, trong điều kiện cung cầu ngoại tệ không còn căng thẳng,
tỉ giá USD/VND tơng đối ổn định, Chính phủ đã từng bớc giảm tỉ lệ kết hối đối
với các tổ chức kinh tế có thu ngoại tệ từ 80% xuống 50%, 40%, 30% và hiện
nay là 0%.
Việc giảm tỉ lệ kết hối xuống 0% là bớc đi quan trọng trong chủ chơng
tự do hoá giao dịch vãng lai, phù hợp với thông lệ quốc tế. Giảm tỉ lệ kết hối
xuống 0% không ảnh hởng tới khả năng đáp ứng ngoại tệ của ngân hàng cho
các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu. Bởi vì 2 năm gần đây, lãi
suất USD giảm xuống rất thấp, các doanh nghiệp giữ USD trên tài khoản chỉ
đợc hởng lãi suất 1%/năm. Trong khi đó tỉ giá USD/ VND tơng đối ổn định,
lãi suất tiền gửi VND cao hơn USD.
Điêù này cũng khuyến khích các doanh nghiệp có thu ngoại tệ bán hết số
ngoại tệ thu đợc cho ngân hàng để lấy VND. Làm nh vậy, các doanh nghiệp
14
vừa có tiền chủ động chi trả chi phí hoạt động kinh doanh, vừa đợc hởng lãi
suất tiền gửi VND cao. Từ thực tiễn này có thể rút ra kết luận: Nếu tỉ giá hợp lý
thì không cần chính sách kết hối; việc mua bán ngoại tệ không còn bị ràng buộc
mà đợc tự do hoá, sẽ thúc đẩy thị trờng ngoại hối phát triển mạnh mẽ và sôi
động.
5. Về quy định trạng thái ngoại tệ
Để hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, ngày
07/10/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành quy định mới về trạng thái ngoại tệ
(TTNT) của các tổ chức tín dụng đợc phép kinh doanh ngoại tệ (trừ các ngân
hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nớc ngoài hoạt động trên đất Việt
Nam).
Quy định mới không quy định trạng thái ngoại tệ riêng cho USD mà chỉ
quy định giới hạn tổng TTNT dơng và tổng TTNT âm vào cuối ngày làm việc
của tất cả các loại ngoại tệ mà tổ chức tín dụng có hoạt động kinh doanh không
đợc vợt quá 30% vốn tự có của tổ chức tín dụng đó. Nh vậy quy định mới về
TTNT đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đợc phép kinh doanh ngoaị hối
linh hoạt hơn trong giới hạn về cơ cấu và tỉ trọng các loại ngoại tệ, nhất là đối với
USD.
6. Về chính sách kiều hối
Vài ba năm trở lại đây, Chính phủ và NHNN có những chính sách thông
thoáng hơn nhằm khuyến khích kiều bào chuyển tiền về nớc: Mức thu phí dịch
vụ kiều hối ngày càng giảm.
Nếu nh trớc đây, ngời nhận kiều hối bắt buộc phải bán toàn bộ ngoại tệ
cho ngân hàng theo tỉ giá quy định, chỉ đợc nhận nội tệ, thì nay họ đợc nhận
bằng ngoại tệ hoặc bán cho ngân hàng lấy tiền VN, hoặc gửi ngoại tệ theo thể
thức tiết kiệm tại ngân hàng. NHNN đã mở rộng mạng lới làm dịch vụ kiều hối
tạo thuận lợi cho việc giao dịch của khách hàng.
15
Năm 2000 số kiều hối gửi về qua hệ thống ngân hàng là 1.717 triệu USD ,
tơng đơng với 12,2% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2001, lợng kiều hối lên tới
1.820 triệu USD. Theo NHNN, 6 tháng đầu năm 2003, lợng kiều hối chuyển về
nớc qua hệ thống ngân hàng là 1.100 triệu USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm
ngoái . Theo ớc tính, trong năm nay lợng kiều hối sẽ vợt con số 2.400 triệu
USD của năm 2002.
Lợng kiều hối gửi về dồi dào đã đem lại nhiều lợi ích : Các NHTM có
nguồn vốn ngoại tệ lớn đầu từ cho các dự án trọng điểm của Chính phủ; cho vay
các doanh nghiệp đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu; góp phần cải thiện cán
cân thanh toán quốc tế của Việt Nam , góp phần tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia.
B. Những yếu kém, bất cập trong hoạt động quản lý ngoại hối:
1. Về điều hành chính sách lãi suất:
Trong một thời gian dài giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ đã có một
khoảng chênh lệch quá lớn, đã làm nảy sinh sự chuyển dịch vốn của khách hàng
từ nội tệ sang ngoại tệ và ngợc lại. Ngân hàng bỏ ra nhiều công sức mà không
đợc thu đợc lợi, lại tạo cơ hội và kẽ hở cho những ngời có nhiều tiền gửi và
những doanh nghiệp khôn ngoan kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất.
2. Về điều hành chính sách tỉ giá
Biên độ giao dịch tỉ giá quá hẹp trong một thời gian dài đã hạn chế doanh
số mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng.
Công cụ tỉ giá và công cụ lãi suất ngoại tệ có khi diễn biến ngợc chiều:
lãi suất ngoại tệ diễn ra theo xu hớng giảm trong khi tỉ giá giữa USD/VND vẫn
tăng (tuy ở mức độ hẹp), đã gây ra tâm lý khách hàng găm giữ ngoại tệ hoặc
tránh vay ngoại tệ về tỉ giá.
Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (SWAP) tuy có tác dụng giải quyết tình trạng
khan hiếm VND cho các tổ chức tín dụng, song lãi suất SWAP quá cao, các ngân
hàng thơng mại đợc cung cấp nghiệp vụ này kêu ca nhiều.