Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Giải thích pháp luật potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.56 KB, 33 trang )



………… o0o…………

















Giải thích pháp luật
Giải thích pháp luật

"Pháp luật" là một khái niệm ra đời từ rất sớm và luôn gắn liền với khái
niệm “nhà nước”; được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được bảo
đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước; là yếu tố bảo đảm sự
ổn định và trật tự xã hội
1. Một số vấn đề cơ bản về lý luận của giải thích pháp luật
1.1. Khái niệm giải thích pháp luật
Theo từ điển Tiếng Việt[1], “giải thích” là làm cho hiểu; là việc dùng lý lẽ để


giảng giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu đúng vấn đề[2]. Ví dụ: thủy triều được
giải thích là một hiện tượng tự nhiên, diễn tả quá trình nước biển dâng cao, rút
xuống trong ngày do nguyên nhân sức hút của mặt trời và mặt trăng với trái đất
v.v…
“Pháp luật” là một khái niệm ra đời từ rất sớm và luôn gắn liền với khái niệm “nhà
nước”; được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được bảo đảm thực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế của nhà nước; là yếu tố bảo đảm sự ổn định và trật tự xã
hội[3].
Lịch sử nhà nước và pháp luật đã chứng minh tập quán pháp và tiền lệ pháp là các
hình thức đầu tiên của pháp luật. Do vậy, với tiền đề là việc làm rõ những thủ tục
trong các nghi thức cộng đồng, nghi lễ tôn giáo thông qua các nhà tư tế và thủ lính
tôn giáo thì cùng với sự ra đời của pháp luật, giải thích pháp luật đầu tiên là giải
thích tập quán pháp được thực hiện bởi các nhà triết gia và nhà chính trị học. Giải
thích pháp luật thành văn đầu tiên được biết đến thông qua giải thích của các nhà
chính trị của Hy Lạp cổ đại[4].
Khái niệm giải thích pháp luật chỉ thật sự trở thành một thuật ngữ xã hội – pháp lý
trong thời kỳ tư sản. Theo đó, giải thích pháp luật được hiểu là việc làm sáng tỏ về
mặt tư tưởng và nội dung các quy phạm pháp luật, bảo đảm cho sự nhận thức và
thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất pháp luật; là nhằm xây dựng lại ý tưởng mà
tác giả mong muốn truyền đạt qua các quy định của văn bản pháp luật đó[5]. Hoặc
xét về thực chất, giải thích pháp luật là việc xác định nội dung và phạm vi áp dụng
của văn bản hay một quy định cụ thể của văn bản đó[6].
Như vậy, giải thích pháp luật được hiểu là việc làm rõ hơn về tinh thần, nội dung,
phạm vi, ý nghĩa và mục đích các quy định của pháp luật so với nội dung ban đầu
của nó, giúp mọi người hiểu và thực thi các quy định của pháp luật một cách chính
xác và thống nhất.
Tuy nhiên, pháp luật với vị trí và vai trò vốn có của nó là một công cụ chủ yếu của
nhà nước để quản lý nhà nước và xã hội; các quy định của pháp luật được đặt ra là
để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một định hướng nhất định; thông qua việc

đặt ra, thực hiện và áp dụng các quy định của pháp luật sẽ tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp đến hành vi, quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể pháp luật; do đó, việc
hiểu đúng, đầy đủ và chính xác các quy định của pháp luật theo nội dung và ý
nghĩa vốn có của nó để thực thi và áp dụng pháp luật một cách nghiêm minh và có
hiệu quả là một yêu cầu khách quan và cần thiết của bất cứ một hệ thống pháp luật
nào. Chính vì vậy, việc giải thích pháp luật không thể “buông lỏng”, tức là không
thể mặc nhiên thừa nhận hoặc công nhận kết quả của mọi hoạt động giải thích
pháp luật đều là pháp luật, được thực thi và bảo đảm bằng quyền lực nhà nước.
Bởi nếu bất cứ kết quả giải thích pháp luật nào cũng đều được công nhận thì chắc
chắn mỗi chủ thể sẽ giải thích một kiểu, theo nhận thức, trình độ chuyên môn, vị
trí, địa vị xã hội và lợi ích của mình. Điều này sẽ làm cho hệ thống pháp luật rối
tung và trật tự xã hội bị đảo lộn, không thể quản lý.
Để khắc phục tình trạng đó, pháp luật các nước bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp
đều ghi nhận hoặc thừa nhận những hoạt động giải thích nào là giải thích chính
thức, hợp pháp và có giá trị pháp lý. Một cách thức phổ biến được áp dụng đó là
các nhà nước đã dùng quyền lực nhà nước để thu hẹp phạm vi của các chủ thể
trong hoạt động giải thích, đồng thời xác định hình thức, giá trị pháp lý của kết
quả giải thích và luật định về trình tự, thủ tục trong giải thích pháp luật. Nói cách
khác, hoạt động giải thích pháp luật đã được thiết lập để trở thành một thẩm quyền
của một chủ thể nhất định mang quyền lực nhà nước.
Ở Việt Nam, với lịch sử, truyền thống của chế độ xã hội chủ nghĩa và pháp luật
thực định kiểu mới[7] nên hình thức pháp luật duy nhất được thừa nhận và sử
dụng là văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Theo quy định của Luật Ban
hành VBQPPL hiện hành, hệ thống VBQPPL của chúng ta bao gồm: Hiến pháp,
luật, nghị quyết, pháp lệnh do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH)
ban hành; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Nghị quyết, nghị định của Chính
phủ; Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định, chỉ thị, thông tư
của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao; Quyết định, chỉ thị, thông tư của Chánh án Toà án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Nghị quyết, thông

tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền với tổ chức chính trị – xã hội; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân[8]. Như vậy, khi nói đến giải thích pháp
luật ở Việt Nam là nói đến giải thích các VBQPPL trên – VBQPPL thành văn và
không tồn tại giải thích tập quán pháp và tiền lệ pháp.
Một đặc trưng nữa ở Việt Nam khi tìm hiểu khái niệm giải thích pháp luật, đó là
hệ thống pháp luật mới chỉ quy định việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh mà
chưa có bất cứ một VBQPPL hiện hành nào quy định về giải thích các hình thức
VBQPPL khác. Nhưng thực tế cho thấy, ngay cả việc giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh mặc dù được quy định rất sớm trong Hiến pháp 1980 nhưng cho đến
nay cũng chỉ có ba lần UBTVQH thực hiện thẩm quyền này[9]. Vì vậy, việc giải
thích pháp luật nói chung và giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh nói riêng chưa
được coi trọng và còn nhiều bất cập.
1.2. Phân loại giải thích pháp luật
Với cách hiểu giải thích pháp luật theo nghĩa rộng, các nhà khoa học pháp lý đã
chia giải thích pháp luật thành nhiều loại khác nhau. Căn cứ vào cách thức và căn
cứ phân loại, giải thích pháp luật được chia thành các loại cơ bản như sau:
- Nếu căn cứ vào tính chất của chủ thể tiến hành giải thích, giải thích pháp luật
được phân loại thành giải thích của cơ quan lập pháp (Nghị viện, Quốc hội); giải
thích của cơ quan hành pháp (Chính phủ)[10]; giải thích của cơ quan tư pháp (Tòa
án) và giải thích của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác như: giải thích của các luật sư,
thẩm phán, nhà khoa học v.v
- Nếu căn cứ vào hình thức pháp luật, giải thích pháp luật được phân thành giải
thích tập quán pháp; giải thích tiền lệ pháp và giải thích VBQPPL. Trong giải
thích VBQPPL, chúng còn có thể chia thành: giải thích Hiến pháp, giải thích luật,
giải thích pháp lệnh v.v
Ở đây, cần có sự lưu ý giữa giải thích Hiến pháp và giải thích các hình thức pháp
luật khác. ở hầu hết các nước Châu Âu, kể cả các nước theo hệ thống pháp luật
Common law hay Civil law thì giải thích Hiến pháp được nhận thức và quy định
với một vị trí khá đặc biệt. Nó được coi là một hoạt động bảo hiến, được phân biệt

với việc giải thích pháp luật thông thường về thẩm quyền, chủ thể yêu cầu giải
thích, chủ thể thực hiện giải thích, giá trị pháp lý của việc giải thích, quy trình, thủ
tục của việc giải thích. Nhìn chung, việc giải thích Hiến pháp được quy định hết
sức chặt chẽ và nguồn gốc của sự khác biệt này thể hiện truyền thống chính trị –
pháp lý và nguyên tắc tam quyền phân lập trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
- Nếu căn cứ vào giá trị pháp lý của nội dung giải thích, giải thích pháp luật được
phân thành giải thích chính thức và giải thích không chính thức[11]. Trường hợp
giải thích không chính thức thì nội dung giải thích không mang tính bắt buộc thực
hiện đối với các bên liên quan; nó chỉ có giá trị tham khảo và thường được tiến
hành bởi tất cả các chủ thể pháp luật như các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa
học v.v Giải thức chính thức thường được thực hiện bởi các chủ thể được nhà
nước trao quyền; được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định;
nội dung giải thích thường được thể hiện bằng văn bản, có giá trị pháp lý như các
quy định pháp luật cần giải thích. Giải thích chính thức lại được chia làm hai loại
là giải thích chính thức mang tính quy phạm và giải thích chính thức cho những vụ
việc cụ thể (giải thích tình huống)[12].
+ Giải thích chính thức mang tính quy phạm là giải thích pháp luật mà nội dung
giải thích được thể hiện dưới dạng một VBQPPL; thường được thực hiện bởi cơ
quan quyền lực nhà nước theo một trình tự độc lập[13] trên cơ sở khái quát từ thực
tế của hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật; văn bản thể hiện nội dung giải
thích có giá trị chính thức và bắt buộc đối với mọi cơ quan quyền lực nhà nước lập
pháp, hành pháp, tư pháp, các cơ quan tự trị địa phương, các xí nghiệp, công sở, tổ
chức, hiệp hội, các quan chức và công dân[14].
+ Giải thích tình huống là hoạt động giải thích gắn liền với việc giải quyết một vụ
việc cụ thể; nội dung giải thích không mang tính quy phạm, chỉ có giá trị pháp lý
đối với các chủ thể trong vụ việc được giải quyết mà không có giá trị đối với các
chủ thể ở các vụ việc pháp lý khác; thường được Toà án và các cơ quan có thẩm
quyền khác tiến hành khi giải quyết một tranh chấp hoặc xét xử một vụ án cụ
thể[15]. Vì vậy, giải thích tình huống được hiểu là việc làm sáng tỏ quy phạm của

chủ thể áp dụng quy phạm[16].
- Ngoài ra, giải thích pháp luật còn được phân thành giải thích đích thực và giải
thích thông thường[17]. Giải thích đích thực là giải thích bằng văn bản của cơ
quan lập pháp hoặc một cơ quan khác của nhà nước được giao thẩm quyền này.
Giải thích thông thường được sử dụng trong thực tiễn chấp hành pháp luật, trong
quá trình áp dụng pháp luật mà không được ghi thành văn bản mang tính quy
phạm pháp luật.
1.3. Phương pháp giải thích pháp luật
Để thực hiện giải thích pháp luật, có các phương pháp được áp dụng khác nhau.
Khoa học pháp lý đã đưa ra các phương pháp giải thích pháp luật sau đây[18]:
- Phương pháp lôgíc và phương pháp lịch sử: Phương pháp lôgíc thường được sử
dụng khi quy định cần giải thích không trực tiếp nói đến quyền và nghĩa vụ của
các bên. Phương pháp lịch sử thường được áp dụng để xác định phạm vi, đối
tượng áp dụng, mục đích, ý nghĩa của nội dung cần giải thích. Hai phương pháp
này gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau;
- Phương pháp giải thích về văn phạm là làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng quy định
của pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa từng chữ, từng câu được dùng để thể hiện
nội dung và xác định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng. Giải thích về văn phạm
gồm giải thích từ ngữ và giải thích theo cú pháp;
- Phương pháp giải thích chính trị – lịch sử là phương pháp tìm hiểu nội dung, tư
tưởng quy định của pháp luật thông qua việc nghiên cứu các điều kiện chính trị –
lịch sử tại thời điểm ban hành quy định đó. Ví dụ, với cùng một quy định về chế
độ sở hữu thì với điều kiện chính trị – lịch sử năm 1980 thì chỉ được hiểu gồm hai
chế độ là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, nhưng với các điều kiện chính trị –
lịch sử năm 1992 thì phải được hiểu gồm ba chế độ là sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân;
- Phương pháp giải thích hệ thống là làm rõ tư tưởng, nội dung quy định của pháp
luật thông qua việc đối chiếu nó với các quy định khác của pháp luật; xác định vị
trí của quy định cần giải thích trong mối quan hệ với toàn văn bản, ngành luật và
hệ thống pháp luật.

- Ngoài ra, trong hoạt động giải thích pháp luật, phương pháp giải thích theo khối
lượng gồm giải thích theo đúng nguyên văn; giải thích mở rộng; giải thích hạn chế
cũng được sử dụng.
Trong thực tế, khi tiến hành giải thích pháp luật, các chủ thể thường không sử
dụng một phương pháp nhất định mà kết hợp một số phương pháp với nhau để
mang lại hiệu quả cao. Việc lựa chọn này tuỳ thuộc vào nhận thức chủ quan, tư
duy khoa học của người giải thích và tương ứng phù hợp với từng loại quy định
cần giải thích, hoàn cảnh giải thích, mục đích giải thích, thời điểm giải thích,
người đề nghị giải thích v.v
1.4. Vị trí và vai trò của giải thích pháp luật
Trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đặc biệt trong nhà nước pháp
quyền và xã hội công dân thì pháp luật ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng. Giải
thích pháp luật với nhiệm vụ làm sáng tỏ hơn các quy phạm pháp luật, kết quả của
việc giải thích pháp luật có giá trị như pháp luật, nên nó rất cần thiết và có vai trò
vô cùng quan trọng trong nhận thức – thực thi – áp dụng pháp luật. Có thể khẳng
định rằng, giải thích pháp luật là một nhu cầu tất yếu khách quan đối với mọi xã
hội và mọi hệ thống pháp luật. Bởi lẽ, về lý thuyết, nhu cầu này chỉ không phát
sinh khi và chỉ khi có một hệ thống pháp luật hoàn thiện tuyệt đối và nhận thức
pháp luật của người dân ở trình độ cao. Tuy nhiên, pháp luật là một yếu tố của
kiến trúc thượng tầng. Nó được xây dựng trên nền tảng là cơ sở hạ tầng và để điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống thực tế. Đồng thời, trình độ
nhận thức của mỗi con người là khác nhau. Chính vì vậy, trong điều kiện Việt
Nam, với thực trạng của hệ thống pháp luật và ý thức pháp luật của người dân còn
nhiều hạn chế thì nhu cầu giải thích pháp luật trở nên thật sự cần thiết và có vai trò
quan trọng. Vai trò của giải thích pháp luật được thể hiện từ sự nhận thức đến quá
trình thực hiện pháp luật của người dân cũng như của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Thông qua việc làm rõ nội dung, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật, giải thích
pháp luật sẽ giúp các chủ thể pháp luật hiểu chính xác và thống nhất các quy định
của pháp luật, qua đó nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật của các

chủ thể, giúp họ tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật một cách hợp pháp; kiềm
chế và hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật do không nhận thức đúng các quy
phạm pháp luật. Hơn thế nữa, vai trò của giải thích pháp luật được thể hiện đầy đủ
và mang lại ý nghĩa to lớn trong hình thức áp dụng pháp luật – một hình thức thực
hiện pháp luật được tiến hành với mục đích nhằm bảo đảm cho các quy định của
pháp luật được thực hiện một cách triệt để hơn trong đời sống thực tế – do cơ
quan, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền thực hiện và có tính chất quyết
định tới quyền và nghĩa vụ của người dân. Vai trò đó được quyết định bởi chính
bản chất và tính chất của hoạt động áp dụng pháp luật. Bản chất của hoạt động áp
dụng pháp luật chính là việc áp dụng các quy phạm pháp luật vào từng trường hợp
cụ thể. Tính chất của hoạt động áp dụng pháp luật là sự sáng tạo của chủ thể áp
dụng pháp luật trong quá trình vận dụng cái chung, cái tổng quát vào từng cái
riêng, cái cụ thể. Yêu cầu này đòi hỏi người áp dụng pháp luật trước khi quyết
định lựa chọn quy phạm pháp luật cần phải làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của
quy phạm pháp luật đó. Để làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của quy phạm pháp
luật đưa ra áp dụng, thì cần phải biết giải thích pháp luật. Như vậy, nếu không có
giải thích pháp luật thì sẽ khó có thể hiểu nội dung quy phạm pháp luật được mang
ra áp dụng một cách chính xác, đầy đủ, sâu sắc và toàn diện, thể hiện hết ý nghĩa,
mục đích pháp lý, chính trị và kinh tế sâu xa đằng sau các ngôn từ của quy phạm
pháp luật đó khi được xây dựng. Việc làm này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất
lượng của văn bản áp dụng pháp luật – một sản phẩm của giai đoạn quan trọng
nhất trong quá trình áp dụng pháp luật và có thể ảnh hưởng trực tiếp tới quyền,
nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các chủ thể pháp luật hoặc những trách nhiệm pháp lý
đối với vi phạm được xác lập.
Trong hình thức áp dụng pháp luật, giải thích pháp luật còn có vị trí đặc biệt quan
trọng đối với hoạt động áp dụng tương tự quy phạm pháp luật, cụ thể là áp dụng
tương tự quy phạm pháp luật và áp dụng tương tự pháp luật. Đối với áp dụng
tương tự quy phạm pháp luật, việc xác định không có quy phạm pháp luật trong hệ
thống pháp luật điều chỉnh vụ việc cần giải quyết là điều kiện cần và tìm ra quy
phạm pháp luật để áp dụng tương tự là điều kiện đủ. Để hội tụ cả hai điều kiện

này, đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải rất am hiểu pháp luật để có thể thực
hiện một cách chính xác. Việc am hiểu pháp luật còn giúp cho chủ thể phân tích
kỹ lưỡng và chính xác hơn nội dung và tư tưởng của quy phạm pháp luật được lựa
chọn để áp dụng tương tự, thấy được điểm tương tự với vụ việc cần giải quyết,
làm cơ sở pháp lý cho việc áp dụng tương tự và làm cho chủ thể trực tiếp chịu sự
điều chỉnh của quy phạm trong hoạt động áp dụng tương tự quy phạm hiểu – một
nền tảng quan trọng cho việc ra quyết định và thực thi văn bản áp dụng pháp luật.
Còn đối với áp dụng tương tự pháp luật, mặc dù chỉ được đặt ra khi và chỉ khi
chưa có quy phạm pháp luật tương ứng điều chỉnh và cũng chưa có quy phạm
pháp luật tương tự; do đó, về nguyên tắc hoạt động giải thích pháp luật không
được đặt ra, vì không có đối tượng giải thích. Tuy nhiên, để áp dụng tương tự pháp
luật thì các chủ thể áp dụng pháp luật cũng vẫn phải: i) chứng minh chưa có quy
phạm pháp luật tương ứng điều chỉnh và cũng chưa có quy phạm pháp luật tương
tự; ii) giải thích cho các chủ thể liên quan biết và hiểu tại sao vụ việc của họ lại
được giải quyết bằng cách sử dụng các nguyên tắc pháp lý chung và ý thức pháp
luật.
Tóm lại, giải thích pháp luật không những có vị trí, vai trò quan trọng trong việc
nâng cao ý thức và hiểu biết pháp luật của người dân mà còn quyết định tính đúng
đắn và tính khả thi của văn bản áp dụng pháp luật. Thông qua việc làm rõ nội
dung, tư tưởng các quy phạm pháp luật, giải thích pháp luật giúp cho các chủ thể
pháp luật có sự nhận thức thống nhất và đúng đắn về pháp luật, giúp cho pháp luật
tăng cường tính nghiêm minh, hiệu lực và hiệu quả trong quá trình thi hành và áp
dụng; qua đó, tăng cường pháp chế và bảo vệ trật tự pháp luật.
2. Thực tiễn giải thích pháp luật ở Việt Nam
2.1. Các quy định của pháp luật về giải thích pháp luật
Giải thích pháp luật theo nghĩa hẹp là một hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước,
do đó các nội dung của nó phải được các VBQPPL quy định và khi thực hiện giải
thích pháp luật các chủ thể buộc phải tuân theo. Thực tế cho thấy, tương ứng với
mỗi hệ thống pháp luật sẽ có một cơ chế giải thích pháp luật và theo đó cơ sở pháp
lý của giải thích pháp luật sẽ được thể hiện dưới các hình thức văn bản khác nhau,

có thể là Hiến pháp, luật hoặc văn bản dưới luật. Tuy nhiên, một cách chung nhất,
cơ sở pháp lý của giải thích pháp luật thường quy định các nội dung về:
- Chủ thể có thẩm quyền đề nghị giải thích pháp luật;
- Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật;
- Hình thức và giá trị pháp lý của văn bản giải thích pháp luật;
- Quy trình thủ tục khi tiến hành giải thích pháp luật.
Hiến pháp 1959 (khoản 3 Điều 53) là VBQPPL đầu tiên quy định về giải thích
pháp luật với tư cách là một thẩm quyền của UBTVQH. Luật tổ chức Quốc hội,
Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân; Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân
dân tối cao và tổ chức của các Toà nhân dân địa phương; Pháp lệnh quy định cụ
thể về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là các văn bản thể chế hoá quy
định này. Tuy nhiên, các văn bản này mới chỉ quy định nguyên tắc mang tính định
hướng mà chưa quy định các nội dung cụ thể và do đó việc giải thích pháp luật
chưa được tiến hành trên thực tế.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định của Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980,
Hiến pháp 1992 và các VBQPPL quy định về giải thích pháp luật như: Luật tổ
chức Quốc hội; Luật tổ chức Chính phủ; Luật tổ chức Toà án nhân dân; Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân; Luật Ban hành VBQPPL; Quy chế hoạt động của
UBTVQH; Nghị quyết số 02 của UBTVQH ban hành về tổ chức, nhiệm vụ của
Văn phòng Quốc hội; Nghị quyết số 369 của UBTVQH ban hành về việc thành
lập Ban Công tác lập pháp năm 2003… và một số VBQPPL khác, đã quy định về
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh mà không quy định về giải thích pháp luật.
Theo đó, hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được quy định với những
nội dung cơ bản như sau:
a) Về chủ thể có thẩm quyền đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
Theo quy định của khoản 1 Điều 15 Nghị quyết số 26/2004/QH11 của Quốc hội
ngày 15/6/2004 về Quy chế hoạt động của UBTVQH thay thế cho Quy chế hoạt
động của UBTVQH 1993, các chủ thể sau đây có thẩm quyền kiến nghị UBTVQH
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh: UBTVQH; Chủ tịch nước; Chính phủ; Tòa

án nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban
của Quốc hội, đại biểu Quốc hội; Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
tổ chức thành viên của Mặt trận.
b) Chủ thể có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
Theo quy định của Điều 90 Hiến pháp 1992, cơ quan thường trực của Quốc hội –
UBTVQH – là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh. Giúp ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện thẩm quyền này có Hội đồng Dân
tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Ban Công tác lập pháp[19].
c) Hình thức thể hiện của văn bản giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
Khoản 2 Kiều 21 Luật Ban hành VBQPPL và Khoản 3 Điều 15 Nghị quyết số
26/2004/QH11 của Quốc hội ngày 15/6/2004 quy định: “UBTVQH thảo luận và
thông qua nghị quyết về giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. nghị quyết về việc
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được công bố trên các phương tiện thông tin
đại chúng”…
d) Quy trình, thủ tục trong việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
Theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL và Quy chế hoạt động của UBTVQH
năm 2004 thì quy trình, thủ tục trong hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, được
thực hiện giống như quy trình, thủ tục thông qua luật. Tuy nhiên, với tính chất, nội
dung và phạm vi nghị quyết của UBTVQH nên quy trình, thủ tục cũng được đơn
giản hoá hơn. Cụ thể, gồm các bước như sau:
- Đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh:
Khi phát sinh nhu cầu giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, các chủ thể có thẩm
quyền đề nghị UBTVQH giải thích. Trong văn bản đề nghị phải thể hiện được các
nội dung cơ bản như sự cần thiết, nội dung quy định cần giải thích, các cách hiểu
khác nhau về quy định… Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đề
nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, điều ước quốc tế, UBTVQH có trách
nhiệm xem xét và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã đề nghị biết ý kiến
của UBTVQH về vấn đề này.
- Soạn thảo dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh:
Sau khi đề nghị giải thích được UBTVQH chấp nhận thì Ban soạn thảo được thành

lập để chuẩn bị dự thảo nghị quyết giải thích. Thông thường, chủ thể giải thích sẽ
tự thành lập Ban soạn thảo. UBTVQH thành lập Ban soạn thảo trong trường hợp
chủ thể đề nghị giải thích là: UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc
hội, đại biểu Quốc hội hoặc nội dung giải thích có liên quan đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực.
Căn cứ vào tính chất và nội dung của việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh mà
UBTVQH giao cho Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội để soạn thảo dự thảo nghị
quyết. Dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh sau khi đã soạn
thảo sẽ được trình UBTVQH để tiến hành thẩm tra. Thời hạn gửi dự thảo nghị
quyết để thẩm tra chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày bắt đầu phiên họp
UBTVQH.
- Thẩm tra dự thảo nghị quyết giải thích:
Trên cơ sở dự thảo nghị quyết đã được cơ quan soạn thảo chuẩn bị, UBTVQH căn
cứ vào nội dung và tính chất của nội dung cần giải thích, giao cho Hội đồng Dân
tộc, các Uỷ ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra.
Như vậy, chủ thể thực hiện việc thẩm tra là Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của
Quốc hội. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, UBTVQH tự mình hoặc theo đề
nghị của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội trình Quốc hội quyết định thành lập Uỷ ban lâm
thời của Quốc hội để thẩm tra dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh (Điều 26 Quy chế 2004). Tuy nhiên, từ khi thiết lập quy định này, chưa có lần
nào Quốc hội thành lập Uỷ ban lâm thời để thẩm tra về dự thảo nghị quyết giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Ngay cả việc thành lập Uỷ ban lâm thời để thẩm
tra dự án luật cũng thực hiện chỉ được một vài lần.
Về phạm vi thẩm tra, theo quy định của Điều 34 Luật Ban hành VBQPPL, cơ quan
thẩm tra phải tiến hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự thảo nghị quyết, nhưng
tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây:
+ Sự cần thiết ban hành nghị quyết; đối tượng, phạm vi điều chỉnh;
+ Sự phù hợp của nội dung dự thảo với đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp của dự thảo và tính thống nhất của văn bản với hệ
thống pháp luật;
+ Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo;
+ Tính khả thi của dự thảo.
Việc thẩm tra dự thảo nghị quyết có thể được tiến hành một lần hoặc nhiều lần.
Đối với dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được UBTVQH
xem xét thông qua trong hai phiên họp thì dự thảo nghị quyết phải được cơ quan
thẩm tra tiến hành thẩm tra sơ bộ lần đầu. Đối với dự thảo nghị quyết trình
UBTVQH xem xét, quyết định thông qua tại phiên họp thứ hai hoặc trong trường
hợp dự thảo được UBTVQH quyết định xem xét thông qua tại một phiên họp thì
phải được cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra chính thức. Điều 35 Luật Ban hành
VBQPPL quy định: “Khi thẩm tra chính thức, cơ quan thẩm tra phải tiến hành
phiên họp toàn thể. Trong trường hợp dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị
quyết được giao cho nhiều cơ quan phối hợp thẩm tra, thì cơ quan được giao chủ
trì thẩm tra có trách nhiệm tổ chức phiên họp liên tịch để tiến hành thẩm tra. Báo
cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên cơ quan thẩm tra
- Thảo luận tại phiên họp và xem xét thông qua dự thảo nghị quyết giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh
Thông thường, UBTVQH quyết định xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết tại
hai phiên họp. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết,
UBTVQH có thể xem xét thông qua tại một phiên họp. Về cơ bản, trình tự, thủ tục
thông qua tại một phiên họp và hai phiên họp là tương tự nhau. Tại phiên họp thứ
nhất, dự thảo nghị quyết sẽ được biểu quyết thông qua các nội dung cơ bản như
phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và những vấn đề còn nhiều ý kiến khác
nhau. Sau đó, trên cơ sở các ý kiến đóng góp, trong thời gian giữa hai phiên họp,
UBTVQH chỉ đạo cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiến hành nghiên
cứu tiếp thu và chỉnh lý dự thảo nghị quyết để trình UBTVQH thông qua tại kỳ
họp thứ hai. Tại phiên họp thứ hai, sau khi, tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo nghị quyết
được đọc trước toàn thể phiên họp UBTVQH. Các thành viên UBTVQH tiến hành
biểu quyết thông qua một số nội dung còn ý kiến khác nhau và biểu quyết toàn văn

dự thảo nghị quyết. Nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được thông
qua khi có quá nửa thành viên UBTVQH biểu quyết tán thành, trừ trường hợp Chủ
tịch nước đề nghị xem xét lại được quy định tại Điều 39 và Điều 103 Hiến pháp
1992. Theo các quy định này, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nghị quyết được
UBTVQH thông qua, Chủ tịch nước có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại
những nội dung mà Chủ tịch nước chưa đồng ý. Nếu nghị quyết đó vẫn được
UBTVQH biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch
nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất (khoản 7 Điều 103 Hiến pháp
1992).
- Công bố nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh:
Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về việc công bố nghị quyết giải thích
Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH. Nhưng theo quy định chung, sau khi
nghị quyết được Chủ tịch Quốc hội ký sẽ được gửi tới Chủ tịch nước để ký lệnh
công bố. Thời hạn này là 15 ngày, kể từ ngày nghị quyết được thông qua.
Một số đánh giá về cơ sở pháp lý của giải thích pháp luật
- Thứ nhất, hệ thống VBQPPL hiện hành mới chỉ quy định về giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh mà chưa có các quy định về giải thích pháp luật. Đã đến lúc
chúng ta phải nhìn nhận lại giá trị của Điều 53 Hiến pháp 1959, tức là bên cạnh
việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thì giải thích các văn bản quy phạm pháp
cũng cần phải được quy định. Chỉ có như vậy, mới khắc phục được tình trạng đánh
đồng hoạt động quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật của Chính phủ với
việc giải thích pháp luật.
- Thứ hai, giải thích Hiến pháp chưa được thiết lập theo một cơ chế riêng so với
giải thích các VBQPPL khác. Theo quy định hiện hành, giải thích Hiến pháp được
thực hiện giống hoạt động giải thích luật, pháp lệnh. Điều này chưa thể hiện được
vị trí và vai trò của Hiến pháp, đặc biệt trong nhà nước pháp quyền.
- Thứ ba, UBTVQH là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh là chưa hợp lý, đặc biệt về giải thích Hiến pháp và giải thích luật.
- Thứ tư, quy trình, thủ tục trong hoạt động giải thích còn chưa cụ thể, thiếu chi
tiết. Cụ thể là: i) Quy trình, thủ tục của việc giải thích Hiến pháp chưa được Quốc

hội quy định chi tiết theo khoản 1 Điều 13 Luật Ban hành VBQPPL; ii) Chưa phân
biệt quy trình, thủ tục giữa việc UBTVQH tự mình thực hiện việc giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh và việc UBTVQH thực hiện việc giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh theo đề nghị của các chủ thể có thẩm quyền khác; iii) Quy trình tiếp
nhận và xử lý đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh chưa được quy định.
Các nội dung cơ bản và yêu cầu của đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
chưa được quy định cụ thể làm căn cứ cho hoạt động xử lý đề nghị; iv) Việc phân
công soạn thảo dự thảo nghị quyết trong trường hợp đại biểu Quốc hội đề nghị giải
thích chưa được làm rõ; v) Quy trình, thủ tục trong hoạt động thẩm tra dự thảo
nghị quyết giải thích chưa được quy định; vi) Việc lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức,
cá nhân liên quan đến nội dung giải thích chưa được quy định cụ thể; vii) Chưa
xác định thẩm quyền của Chủ tịch nước ký công bố đối với nghị quyết giải thích
Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo quy định của Điều 51 Luật Ban hành VBQPPL;
viii) Các thời hạn trong từng giai đoạn chưa được xác định.
2.2. Việc thực hiện giải thích pháp luật ở Việt Nam trong thời gian qua
Kể từ lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp 1959, qua gần 50 năm phát triển
và hoàn thiện cơ sở pháp lý, cho đến nay, UBTVQH đã hai lần thực hiện thẩm
quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và cả hai lần đều là giải thích luật; đối
với giải thích Hiến pháp và giải thích pháp lệnh thì chưa thực hiện.
Tuy nhiên, tìm hiểu thực tế cho thấy, việc giải thích luật được đặt ra lần đầu tiên
tại Quốc hội khoá VIII, khi quy định của khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai 1993 đã
dẫn đến các cách hiểu không thống nhất làm phát sinh tranh chấp về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp giữa Toà án nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Để giải quyết
việc này, Tổng cục Địa chính đã đề nghị UBTVQH giải thích nội dung này.
Nhưng do nhiều lý do, việc giải thích luật đã không được thực hiện. Một trong các
lý do có thể kể đến là nhiều ý kiến trong UBTVQH cho rằng, Điều 89 Luật Đất
đai, Quốc hội đã giao Chính phủ quy định chi tiết nên việc này thuộc thẩm quyền
của Chính phủ. Nếu UBTVQH tiến hành giải thích sẽ tạo ra tiền lệ và chắc chắn
UBTVQH sẽ khó có thể đảm đương được nhiệm vụ này. Kết quả là, Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng cục Địa chính đã ban hành

Thông tư số 02/TTLT, ngày 28/7/1997 để hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án
nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại
khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993. Xem xét nội dung của Thông tư này, về
bản chất, chính là hoạt động giải thích luật.
Việc giải thích luật chỉ được chính thức thực hiện lần đầu tại phiên họp thứ 25 của
UBTVQH khoá XI. Trên cơ sở Tờ trình số 06/CP-XDPL ngày 21/01/2005 của
Chính phủ về việc giải thích điểm c khoản 2 Điều 241 của Luật Thương mại và
Báo cáo ý kiến số 1519 a /UBKTNS ngày 24/01/2005 của Thường trực Uỷ ban
Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội, UBTVQH đã thông qua Nghị quyết số
746/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 28/01/2005 để giải thích khoản c Điều 241 Luật
Thương mại 1997.
Lần thứ hai UBTVQH thực hiện thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
là để giải thích khoản 6 Điều 19 của Luật Kiểm toán Nhà nước. Trên cơ sở Tờ
trình số 682/TTr-KTNN ngày 12/10/2006 của Tổng Kiểm toán Nhà nước và Báo
cáo ý kiến số 3050/UBKTNS ngày 8/11/2006 của ủy ban Kinh tế và Ngân sách
của Quốc hội, UBTVQH đã thông qua Nghị quyết số 1053/2006/NQ-UBTVQH11
ngày 10/11/2006.
Một số đánh giá về thực hiện giải thích pháp luật ở Việt Nam
Tìm hiểu hai lần UBTVQH tiến hành giải thích luật trên cho thấy, còn một số bất
cập sau đây:
- Các chủ thể pháp luật nói chung và các chủ thể có thẩm quyền đề nghị giải thích
Hiến pháp, luật, pháp lệnh nói riêng chưa hiểu đầy đủ và tuân thủ đúng các quy
định của pháp luật. Cụ thể, trong việc giải thích điểm c khoản 2 Điều 241 Luật
Thương mại, Uỷ ban trọng tài Quốc tế Việt Nam và Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam đã có công văn đề nghị UBTVQH giải thích luật mặc dù theo
quy định của pháp luật hai chủ thể trên không có thẩm quyền này[20].
- Hoạt động phối hợp công tác giữa các chủ thể chưa đáp ứng yêu cầu; quy trình,
thủ tục trong hoạt động giải thích luật chưa được thực hiện nghiêm minh. Trong
việc giải thích điểm c khoản 2 Điều 241 Luật Thương mại giữa Chính phủ, Phòng
thương mại và công nghịêp Việt Nam, Văn phòng Quốc hội chưa có sự phối hợp

chặt chẽ, nên đã dẫn đến việc giải thích vụ việc bị kéo dài làm ảnh hưởng tới
quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp.
- Tình trạng quá tải trong công việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
thích và trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ ở các
cơ quan nhà nước còn hạn chế. Như đã nói, đây là một trong các nguyên nhân
chính dẫn đến việc giải thích pháp luật nói chung và giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh còn hạn chế.
3. Một số kiến nghị
3.1. Một số quan điểm, định hướng
Nhu cầu giải thích pháp luật phát sinh, tồn tại trong bất cứ hệ thống pháp luật nào,
do đó, việc nghiên cứu hoàn thiện cơ sở pháp lý và khắc phục những hạn chế trong
quá trình thực hiện giải thích pháp luật là một đòi hỏi khách quan mang tính tất
yếu. Điều này lại càng mang tính cấp thiết và cần thiết đối với nước ta. Để hoàn

×