Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng phân chia quyền lực trong lịch sử - Phần 3 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.59 KB, 29 trang )

Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng phân
chia quyền lực trong lịch sử - Phần 3

Charles Louis Montesquieu ( 1689 - 1755 ):
Bàn về Tinh thần pháp luật ( De L'esprit des Lois ) - viên ngọc sáng trong kho
tàng lý luận về khoa học pháp lý cũng như triết học và nhiều môn khoa học xã hội
khác của nhân loại, là tác phẩm đồ sộ nhất và cũng là tác phẩm xuất sắc nhất của
người tiên phong cho phong trào Khai sáng Pháp Charles Louis Montesquieu. Đây
chính là nơi ông thể hiện một cách sâu sắc toàn bộ tư tưởng của mình.
Thành tựu to lớn nhất của Bàn về Tinh thần pháp luật chính là tư tưởng phân chia
quyền lực, bởi vậy khi nhắc đến Bàn về Tinh thần pháp luật là người ta nghĩ ngay
đến tư tưởng phân quyền, và bởi sự xuất sắc của Montesquieu trong tác phẩm kinh
điển này mà khi nhắc đến tư tưởng phân quyền, người ta cũng sẽ nghĩ ngay đến
Bàn về Tinh thần pháp luật. Tư tưởng này của Montesquieu được tập trung thể
hiện trong quyển 11, chương 6: Hiến pháp nước Anh, mà ta có thể dễ dàng nhận ra
nhiều sự tiếp thu, kết nối với tư tưởng phân quyền của Locke trong Khảo luận thứ
hai về chính quyền.
Ngay từ dòng đầu tiên của chương này, Montesquieu đã khẳng định: "Trong mỗi
quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp
với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự.
Với quyền lực thứ nhất, nhà vua hay pháp quan làm ra các thứ luật cho một thời
gian hay vĩnh viễn, và huỷ bỏ hay sửa đổi các luật này.
Với quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định việc hoà hay chiến, gửi đại sứ đi các
nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược.
Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh
chấp giữa các cá nhân. Người ta sẽ gọi đây là quyền tư pháp, vì trên kia là quyền
hành pháp quốc gia"(1).
Ta có thể nhận ra ngay sự tiến bộ hơn hẳn trong tư tưởng phân quyền của
Montesquieu so với tư tưởng của Locke, khi đã tách quyền lực xét xử - quyền tư
pháp ra độc lập với các thứ quyền lực khác.
Theo Montesquieu, một nhà nước tự do hoàn hảo là một nhà nước mà ba thứ


quyền lực này được phân chia và được đặt vào tay những cá nhân, tổ chức khác
nhau: "Tự do chính trị chỉ có được khi không có sự lạm dụng quyền lực. Nhưng
kinh nghiệm muôn đời chỉ ra cho chúng ta rằng bất kỳ ai khi được trao quyền lực
là sẽ có khuynh hướng lạm dụng quyền lực ấy, và sẽ tăng quyền lực của anh ta lên
đến hết mức Để ngăn chặm sự lạm dụng này, điều cần thiết rất tự nhiên là
quyền lực phải được ngăn cản ( kiềm chế ) bởi quyền lực"(2).
Về nguyên nhân của sự phân quyền, ông viết:
"Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay
một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính
ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng
không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền
hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc
đoán đối với quyền sống và quyền tự do của công dân, quan toà sẽ là người đặt ra
luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan toà sẽ có cả
sức mạnh của kẻ đàn áp.
Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân
chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết"(3).
Nguyên nhân này, so với nguyên nhân do Locke đưa ra về cơ bản là giống nhau,
bởi đều xuất phát từ luận đề: người nắm quyền luôn có xu hướng lạm quyền, nên
muốn chống sự lạm quyền đó để bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân thì phải
tổ chức và phân chia quyền lực sao cho đảm bảo "quyền lực ngăn cản quyền lực".
Thực tế lịch sử đã chứng minh: xu hướng lạm quyền của nhà cầm quyền là rất phổ
biến khi các quyền lực không được phân tách rõ ràng. Chính bản thân
Montesquieu đã đưa ra rất nhiều minh chứng cho hiện tượng này.
_____________
(1) Charles Louis Montesquieu: Bàn về Tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội, 2006, tr.105
(2) TS Nguyễn Thị Hồi: Sđd, tr.75
(3) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.106
Ông cho rằng ở phần lớn các nước châu Âu, khi nhà vua nắm quyền lập pháp,

hành pháp và nhường quyền tư pháp cho nhân dân thì việc cai trị còn có mức độ;
nhưng ở các nhà nước mà quyền lực bị thâu tóm toàn bộ trong tay một người hay
một nhóm người thì "nền chuyên chế nghiệt ngã đè lên đất nước"(1). Và ông
nghiên cứu khá kỹ các nhà nước cộng hoà Italia - những biểu hiện của việc quyền
lực tập trung trong tay một tập đoàn quý tộc. Theo ông, nhân dân trong các nhà
nước này có ít quyền tự do hơn nhiều so với trong các nước quân chủ châu Âu.
Ông khẳng định: "Ở đây, tất cả quyền lực chỉ là một. Tuy bề ngoài chẳng có sự
phô trương gì của ông vua chuyên chế, mà người ta vẫn cảm thấy sự chuyên chế
vào bất cứ lúc nào"(2). Nhưng sự chuyên chế của những nhà nước cộng hoà này
không giống hẳn chính thể chuyên chế ở châu Á, ví dụ như ở Cộng hoà Venise có
sự phân quyền tương đối, khi Đại hội đồng có quyền lập pháp, các đại quý tộc
Prégadi nắm quyền hành pháp, và nắm quyền tư pháp là các quý tộc Quaranties;
nhưng cái dở ở nhà nước Venise này là: tuy có sự phân quyền, nhưng mọi cơ quan
này đều nằm trong tay tầng lớp quý tộc, nên cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp thực chất cũng chỉ là một thứ quyền lực mà thôi, thực chất là chẳng có một
sự phân quyền nào cả. Và ông chỉ ra cái tai hại của nhà nước ấy: "cơ quan cầm
quyền vừa là kẻ thi hành luật vừa tự cho mình là kẻ lập pháp. Họ có thể tàn phá
quốc gia bằng những ý chí chung sai lầm của họ. Mà họ còn nắm cả quyền xét xử
nữa thì họ có thể đè nát mỗi công dân theo ý muốn của họ"(3).
Cũng giống như Locke, Montesquieu đặc biệt chú trọng tới cơ quan lập pháp, dù
ông hoàn toàn không thừa nhận rằng đây là cơ quan quan trọng nhất, có khả năng
uỷ thác quyền lực để hình thành nên các cơ quan khác như trong học thuyết của
Locke.
_____________
(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.106
(2)(3) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.107
Theo ông, trong một nước tự do thì mọi người dân cũng được tự do, và do đó họ
có quyền tự quản, bởi vậy, dân chúng phải nắm quyền lập pháp. Nhưng theo ông,
nếu mọi người dân đều tham gia vào công việc lập pháp, như trong Hội nghị công
dân của các nhà nước dân chủ thời cổ đại thì hoàn toàn không thích hợp, vì họ

thường đòi hỏi thực hiện những việc mà bản thân họ và cộng đồng không đủ sức
làm Bởi vậy, tốt nhất dân chúng chỉ nên tham gia vào công việc của nhà nước
bằng cách bầu chọn đại biểu của mình. Và cơ quan đại biểu dân chúng cũng không
nên giải quyết các công việc cụ thể, vì họ không thể làm tốt điều này, họ chỉ nên
làm ra luật, và xem xét người ta thực thi những luật này ra sao.
Về tổ chức của cơ quan lập pháp - cơ quan đại biểu nhân dân, Montesquieu cho
rằng nó nên gồm hai viện: Viện quý tộc và Viện thứ dân.
Nguyên nhân của việc cần có hai nghị viện riêng biệt, theo ông là do trong xã hội
có những người mà dòng giống, của cải hoặc danh vọng của họ nổi bật lên trên
những người khác, nên nếu trong cuộc bầu cử họ chỉ có được một phiếu bầu như
các công dân khác thì sự tự do chung là xiềng xích nô lệ đối với họ, bởi phần lớn
các quyết nghị chung sẽ chống lại họ. Bởi vậy, những người này cần phải có một
cơ quan đại diện riêng bên cạnh cơ quan đại diện dân chúng, để bảo vệ quan điểm
và lợi ích của mình. Ngoài ra, theo ông, quyền lập pháp cần phải có một uy lực
điều chỉnh để dung hoà, nên cơ quan lập pháp gồm hai viện riêng biệt là một cơ
chế thật thích hợp để phát huy sự dung hoà này.
Quan điểm này là một hạn chế của Montesquieu, bởi chính bản thân ông cũng là
một nam tước - nam tước De La Brède. Nhưng cách thức hoạt động của các viện
này được ông đưa ra lại là sự tiến bộ rất rõ ràng.
Theo ông, cơ quan đại diện quý tộc có thể đình chỉ dự định của cơ quan đại diện
dân chúng, cũng như cơ quan đại diện dân chúng có thể ngăn cản các quyết định
từ cơ quan đại diện các nhà quý tộc. Montesquieu chia quyền lập pháp ra làm hai
chức năng: chức năng quy định và chức năng ngăn cản. Trong đó, "chức năng quy
định là quyền tự mình ra lệnh, hoặc tự mình sửa lại điều mà người khác ra lệnh";
còn "chức năng ngăn cản là quyền làm cho quyết định của người khác trở thành
vô hiệu"(1). Theo ông, Viện quý tộc chỉ được tham gia vào công việc lập pháp với
chức năng ngăn cản chứ không có chức năng quy định, tức là chỉ có quyền phủ
quyết hoặc chuẩn y các quyết định của Viện thứ dân mà không được sửa đổi quyết
định đó, hoặc đưa ra một quyết định khác. Nguyên nhân của việc này, theo ông là
do Viện quý tộc có hình thức cha truyền con nối, mà lại được lập nên để bảo vệ

đặc quyền của một nhóm người, nên có thể nó sẽ chỉ biết đến lợi ích riêng tư của
mình mà quên đi lợi ích chung của cả cộng đồng.
_____________
(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.113
Về hoạt động của các đại biểu dân chúng trong cơ quan lập pháp, theo
Montesquieu, các đại biểu này là người đã nhận được ý kiến chung của những
người bầu ra họ, là đại diện cho ý chí của các cử tri, nên không nhất thiết mọi việc
đều phải hỏi ý kiến dân chúng. Ông thừa nhận làm như thế mới đảm bảo được
quyền tự do và dân chủ của nhân dân, nhưng như vậy thì công việc sẽ kéo dài vô
tận, và trong những trường hợp cấp bách thì lối làm việc này sẽ làm ngưng trệ cả
quốc gia, hay thậm chí là huỷ diệt nó. Và ông đưa ra cách làm mà ông cho là hợp
lý như ở quốc hội Hà Lan, khi các đại biểu chỉ phải báo cáo lại công việc với các
cử tri.
Về cách thức bầu cử cơ quan lập pháp, Montesquieu cho rằng người dân biết rõ
nhu cầu của thành phố mình hơn là của các thành phố khác, hiểu năng lực của
người láng giềng mình hơn là láng giềng của người khác, nên dân chúng ở mỗi địa
phương phải được chọn ra một người đại biểu, chứ không nên tiến hành bầu cử
chung trong cả nước.
Về tinh thần của người lập pháp, được ông nêu lên trong Chương 1, Quyển 29, và
được khẳng định lại bởi một chính khách Pháp về sau là Abel Francois Villemain
thì: "Luật phải thật vô tư, không thiên vị. Chính người lập pháp phải vô tư để
không ghi tham vọng của mình vào tác phẩm luật"(1). Và Montesquieu nhấn mạnh
lại quan điểm chính phủ phải "trung dung" của Aristote trong quyển 1, sách
Politics: "Một chính phủ càng xa đảng phái và càng gắn với phương sách trung
dung thì càng được vững vàng. Nhiều nhà lập pháp trong chính thể quý tộc đã cho
người giàu quá nhiều và rút bớt của người nghèo cũng quá nhiều. Lầm lẫn đưa tới
cái xấu xa thực sự; ưu thế của nhà giàu đánh đổ chính phủ nhiều hơn là ưu thế
của người nghèo, của muôn dân"(2). Có thể nhận thấy đây là một quan điểm rất
tiến bộ của Montesquieu, nhưng tiếc là ông lại không chỉ ra làm sao để có được sự
"vô tư" và "trung dung" ấy, nên ta chỉ có thể phỏng đoán dựa trên tư tưởng của

ông rằng, theo ông, cái mà một nhà lập pháp khôn ngoan cần có chính là "đức
hạnh" và trí thông minh.
_____________
(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.228
(2) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.228
Về thời điểm họp bàn của cơ quan lập pháp, ông khẳng định nếu trong thời gian
dài mà cơ quan này không nhóm họp thì cũng sẽ không có tự do nào hết, bởi hoặc
nhà nước sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ do không có nghị quyết lập pháp mới
phù hợp hoàn cảnh, hoặc cơ quan hành pháp sẽ nắm lấy và thao túng các nghị
quyết lập pháp cũ, dẫn đến tình trạng chuyên chế. Nhưng cơ quan lập pháp họp
liên tục thì cũng bất hợp lý. Thứ nhất nó là sự bất tiện với các đại biểu. Thứ hai nó
là khó khăn cho cơ quan hành pháp, bởi sẽ mãi chỉ lo bảo vệ quyền hạn chuyên
trách của mình mà không lo được việc chấp hành các đạo luật. Và cuối cùng, nếu
như nghị viện rơi vào tình trạng sa đoạ thì thật là vô phương cứu chữa, bởi nó luôn
hiện diện nên nhân dân sẽ nhận thấy ngay sự bại hoại của cơ quan lập pháp, nhận
thấy ngay sự vô nghĩa ở pháp luật, họ sẽ tức giận mà nổi loạn, hoặc thờ ơ, hững hỡ
với công việc quốc gia.
Vậy là cơ quan lập pháp phải có thời gian họp bàn nhất định, và sau thời gian đó
nó phải giải tán. Nhưng sự triệu tập và triển hạn của cơ quan này sẽ diễn ra như
thế nào ?
Theo Montesquieu, cơ quan lập pháp không nên tự mình triệu tập lấy mình mà cơ
quan hành pháp, tuỳ theo hoàn cảnh mà nó cho là hợp lý, sẽ quyết định thời gian
và thời hạn họp bàn của nghị viện.
Vậy nghị viện có quyền tự triển hạn cho mình hay không ? Nếu như vậy thì có thể
nó sẽ không bao giờ tự triển hạn cả, và như thế thật là nguy hiểm khi nghị viện có
ý định công kích cơ quan hành pháp. Và Montesquieu lại nhấn mạnh rằng ở nước
Anh, nhà vua - người nắm quyền hành pháp có thể triển hạn nghị viện và tổ chức
bầu cử nghị viện mới; nhưng ông cũng không loại trừ hình thức xác định nhiệm kỳ
của nghị viện bằng Hiến pháp.
Về quyền hành pháp, Montesquieu cho rằng nó phải nằm trong tay một vị vua

chúa, bởi bản thân quyền hành pháp luôn cần đến những hành động tức khắc, kịp
thời, mà nếu phải qua một cuộc họp bàn thì quyết định đưa ra thường đã muộn hơn
yêu cầu thực tế. Ông cũng khẳng định cần phải có một vị vua, bởi vua nắm quyền
bằng con đường thế tập chứ không phải do được bầu chọn ra; nếu cá nhân hành
pháp lại được nghị viện bầu ra thì đó thường là người trong nghị viện, và như thế
thì sẽ chẳng còn tự do nữa, bởi hai quyền lập pháp và hành pháp đã nhập lại với
nhau, con người hành pháp ấy có thể nhúng tay vào cả quyền này lẫn quyền kia.
Như đã nói ở trên, theo Montesquieu, nhà vua có quyền triệu tập và triển hạn nghị
viện, tuỳ theo hoàn cảnh mà vua thấy thích hợp. Còn về quyền ngăn cản giữa hai
cơ quan này thì sao? Theo Montesquieu, cơ quan lập pháp không có quyền ngăn
cản cơ quan hành pháp, do hành pháp có những đặc điểm riêng của nó, mà ở đây
có thể hiểu là ông muốn nói đến "đặc quyền hành động" của cơ quan hành pháp,
như theo quan điểm của Locke. Nhưng cơ quan hành pháp phải có quyền ngăn cản
cơ quan lập pháp, bởi nếu không cơ quan lập pháp sẽ trở thành chuyên chế, sẽ tạo
ra những đạo luật để tự ban cho mình mọi thứ quyền hành, và xoá bỏ các quyền
lực khác. Ông khẳng định: "quyền lực hành pháp phải vận dụng chức năng ngăn
cản để tham gia việc lập pháp, nếu không nó sẽ bị tước mất ưu quyền. Nhưng trái
lại, nếu quyền lực lập pháp tham gia vào việc hành pháp thì quyền hành pháp sẽ
bị thủ tiêu"(1).
Về sự tham gia của quyền hành pháp vào chức năng lập pháp, ông chỉ rõ: "Quyền
hành pháp chỉ tham gia việc lập pháp bằng chức năng ngăn cản, chứ không chen
vào bàn cãi công việc, mà cũng không phải làm các kiến nghị"(2). Và ông lấy ví
dụ trong các nước cộng hoà thời kỳ cổ đại, trong các cuộc Hội nghị nhân dân, nhà
nước phải có quyền đưa ra kiến nghị và cùng bàn cãi với dân, nếu không thì quyết
nghị cuối cùng sẽ có sự hỗn độn, xa lạ với chính thể, bởi dân chúng không phải lúc
nào cũng hiểu hết được đất nước bằng những nhà cầm quyền.
Nhưng nếu như cơ quan lập pháp không có quyền ngăn cản hoạt động của cơ quan
hành pháp, nhưng nó vẫn phải có chức năng xem xét các đạo luật do nó ban hành
đã được thực thi như thế nào, như thế mới đảm bảo cho sự tự do của công dân.
Nhưng như thế thì nó cũng không có quyền xét xử con người hành pháp, bởi cá

nhân con người hành pháp là bất khả xâm phạm, ông ta là cần thiết cho quốc gia;
nếu cơ quan lập pháp xâm phạm tới ông ta thì có nghĩa là nó đã trở thành chuyên
chế, và như vậy cũng không còn có tự do gì nữa cả.
Montesquieu còn chỉ ra một vài vấn đề quan trọng trong hoạt động của hai cơ
quan này, là vấn đề thu thuế, và vấn đề quân đội.
_____________
(1)(2) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.117
Đầu tiên là vấn đề thu thuế. Ông khẳng định đây phải là công việc của cơ quan lập
pháp mà cơ quan hành pháp không thể can thiệp vào, do đó là : "điểm quan trọng
nhất của việc lập pháp"(1). Ông còn cho rằng cơ quan lập pháp không nên quy
định việc thu thuế một cách vĩnh viễn bởi như thế thì cơ quan hành pháp cũng
không còn phụ thuộc vào cơ quan lập pháp nữa, và tự do của công dân cũng sẽ
biến mất.
Còn về vấn đề quân đội, Montesquieu cho rằng nó phải nằm dưới sự quản lý của
cơ quan hành pháp chứ không phải của cơ quan lập pháp, như thế mới hợp với bản
chất của quân đội là hành động chứ không phải là bàn cãi. Nhưng "để cho người
hành pháp không áp bức được dân chúng thì quân đội trong tay cơ quan hành
pháp phải mang tính nhân dân, cùng lòng với dân", "và muốn được như vậy thì
chỉ có hai cách: hoặc là những người tham gia quân đội phải có tài sản bảo đảm
tính mạng của mình trước các công dân khác và chỉ tòng quân trong thời hạn một
năm; hoặc là có một quân đội thường trực mà quân nhân thuộc tầng lớp thấp kém
nhất trong nước, để cơ quan lập pháp muốn giải tán nó lúc nào cũng được. Binh sĩ
thường trực này ở ngay trong dân chúng, không có doanh trại hay đồn luỹ tách
biệt với dân"(2).
Còn về thứ quyền lực cuối cùng, quyền tư pháp, Montesquieu cho rằng nó không
nên được giao cho một cơ quan hay một cá nhân cụ thể, thường trực như hai
quyền lực kia, mà do một đoàn thể dân chúng được cử ra trong một thời gian ngắn
do luật định. Làm như thế thì thứ quyền lực đáng sợ với người đời này mới không
phải là một sự hữu hình, như thế người ta mới sợ cơ chế cai trị chứ không phải là
sợ các quan cai trị.

Nghiêng theo cơ cấu tổ chức nhà nước của Anh, ông cho rằng quyền tư pháp
không nên kết hợp với bộ phận nào của quyền lập pháp, nhưng vẫn có những
trường hợp ngoại lệ đặc biệt.
Thứ nhất, khi người bị xét xử thuộc tầng lớp quý tộc, nếu giao cho dân chúng xét
xử thì thường do bị ganh ghét mà bị xử sai lệch, hơn thế, người này lại không
được hưởng quyền cơ bản của công dân là chỉ bị xét xử bởi những người ở cùng
đẳng cấp với mình, bởi vậy, trong trường hợp này, Viện quý tộc sẽ nắm quyền xét
xử.
_____________
(1)(2) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.118
Thứ hai, Viện quý tộc nên xem xét các vụ án mà điều chỉnh cho khi tuyên án, bản
án do các quan toà đưa ra bớt phần khắc nghiệt và không mù quáng theo luật một
cách máy móc.
Thứ ba, khi một viên chức nhà nước vi phạm quyền của dân chúng, gây tội ác với
nhân dân, thì Viện thứ dân sẽ tố cáo lên Viện quý tộc, và bộ phận trong Viện quý
tộc không có chung quyền lợi hay ý đồ với cả hai bên sẽ nắm quyền xét xử.
Quan điểm này của ông có những hạn chế nhất định khi vẫn chủ trương đề cao các
đặc quyền của tầng lớp quý tộc phong kiến, nhưng mặt khác vẫn có điểm tiến bộ,
khi đề cao thủ tục đàn hạch, đảm bảo sự phụ thuộc của cơ quan hành pháp vào cơ
quan lập pháp.
Nói tóm lại, qua tác phẩm Bàn về Tinh thần pháp luật của Montesquieu, ta có thể
nhận thấy một bước phát triển mới của tư tưởng phân chia quyền lực, khi tác giả
đưa ra quan điểm phân tách các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách
triệt để, có sự giám sát, kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực, và ngay
giữa các cơ quan trong cùng một nhánh quyền lực với nhau, nhằm ngăn chặn sự
lạm quyền, những vẫn tạo nên một bộ máy nhà nước thống nhất: "Cả ba quyền lực
này do ràng buộc lẫn nhau mà dường như nghỉ ngơi hay bất động. Tuy nhiên, vì
tính tất yếu của mọi sự vật là vận động nên cả ba quyền lực vẫn buộc phải đi tới,
mà đi tới một cách nhịp nhàng"(1).
Tư tưởng của Montesquieu tuy vẫn còn mang nặng tư duy bảo thủ phong kiến, đòi

hỏi đặc quyền cho tầng lớp quý tộc, nhưng nó vẫn là nền tảng nòng cốt cho tư
tưởng phân chia quyền lực ngày nay, vẫn đã và đang được áp dụng rộng rãi trong
tổ chức bộ máy nhà nước ở nhiều quốc gia như Anh, Mỹ
Có thể khẳng định sau Aristote 1300 năm, với Charles Louis Montesquieu, tư
tưởng phân chia quyền lực đã hồi sinh trở lại, và với lần trở lại này nó đã thực sự
trở thành một học thuyết đầy đủ, trọn vẹn và hoàn hảo. Montesquieu xứng đáng
được mệnh danh là cha đẻ của tư tưởng phân quyền hiện đại.
_____________
(1) C.L Montesquieu: Sđd, tr.117
Jean - Jacques Rousseau ( 1712 - 1778 ):
Bàn về Khế ước xã hội hay là các nguyên tắc của quyền chính trị ( Du contrat
social - ou principes du droit politique ) của Jean - Jacques Rousseau là một tác
phẩm mà tư tưởng của nó đã tạo ra sự chuyển biến lớn lao trong xã hội và đã trở
thành di sản trí tuệ quý báu cho nhiều thế hệ. Trong 5 năm của cuộc Đại Cách
mạng Pháp 1789-1794, Bàn về Khế ước xã hội đã được coi như "một thứ kinh
Coran của cách mạng dân chủ"(1).
Đúng như tên gọi của mình, Bàn về Khế ước xã hội trình bày một cách rất hoàn
thiện về học thuyết khế ước xã hội, mà nội dung chủ yếu của nó là cho rằng: xã
hội và nhà nước ra đời không phải do ý muốn của Chúa trời, mà do những con
người trong trạng thái tự nhiên liên kết lại với nhau thông qua một bản khế ước.
Theo khế ước, nhân dân có nghĩa vụ phải phục tùng nhà nước, nhưng nhà nước
cũng có nghĩa vụ phải chăm lo cho nhân dân; xã hội và nhà nước chỉ có thể tồn tại
nếu như mối quan hệ hai chiều này được đáp ứng một cách thích đáng và đầy đủ.
Một khi nhà nước đã vi phạm những nguyên tắc của khế ước xã hội, lạm quyền,
chà đạp lên quyền lợi của nhân dân thì nhân dân có quyền lật đổ nhà nước ấy đi
mà thiết lập một bản khế ước mới, tạo dựng một nhà nước mới mà họ cho là phù
hợp hơn, vì lợi ích của họ hơn.
Dù nội dung chủ yếu của tác phẩm là trình bày về học thuyết khế ước xã hội,
nhưng bên cạnh đó, tác giả Rousseau cũng đã đưa ra những quan điểm rất mới mẻ
và tiến bộ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước.
_____________
(1) Jean - Jacques Rousseau: Bàn về Khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội, năm 2006, tr. 27
Trong cả 4 quyển, 48 chương của tác phẩm, Rousseau không hề đề cập tới việc:
quyền lực nhà nước được chia quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp;
hơn thế Rousseau còn cho rằng quyền lực tối cao là không thể phân chia, ông cực
lực phản đối việc chia tách các quyền: "Trong chính trị của ta, tuy về nguyên tắc
thì quyền lực tối cao là không thể phân chia, nhưng trên thực tế người ta vẫn chia
tách nó trong đối tượng. Họ chia nó thành lực lượng và ý chí, thành quyền lực lập
pháp và quyền lực hành pháp, thành quyền quan thuế, quyền tư pháp, quyền chiến
tranh, thành cai trị đối nội và ứng phó đối ngoại; khi thì người ta trộn lẫn các bộ
phận, khi thì người ta tách rời chúng với nhau. Họ biến quyền lực tối cao thành
một thứ quái dị, ghép lại bằng nhiều mảnh, giống như họ ghép một hình người từ
nhiều cơ thể; mặt của anh này, tay của chị nọ, chân của người kia sau khi tách
rời các bộ phận trong cơ thể xã hội, họ dùng uy tín tạp nham mà ghép các bộ phận
ấy lại một cách tuỳ tiện, chẳng ai hiểu ra làm sao cả"(1).
Dù nêu cao tư tưởng quyền lực là không thể phân chia, nhưng Rousseau lại cho
rằng phân quyền là phương cách tốt nhất để ngăn chặn sự lạm quyền, ông viết: "ai
đã truyền lệnh cho người thì không được truyền lệnh cho pháp luật. Và kẻ đã
truyền lệnh cho pháp luậtthì cũng không nên truyền lệnh cho người. Không như
thế thì luật pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sẽ trở thành công cụ để duy trì
bất công"(2). Ông đưa ra dẫn chứng: " La Mã đến thời cực thịnh thì bắt đầu quy
vào cho một số người cả quyền lập pháp và quyền cai trị tối cao; từ đó nảy sinh
các tệ nạn độc đoán chuyên quyền và nhà nước La Mã cổ đại bước dần vào chỗ
suy vong"(3).
Và ngay trong bố cục của tác phẩm Khế ước xã hội đã toát lên rất rõ tư tưởng phân
quyền. Nếu như trong Quyển 1, ông dành để đề cập khái quát tới học thuyết khế
ước xã hội, thì Quyển 2 là để "bàn về người lập pháp" (đầu đề Chương 7) và
nghiên cứu về "các hệ thống lập pháp khác nhau" (đầu đề Chương 11); Quyển 3

được dành trọn vẹn cả 18 chương để viết về chính phủ, hay cơ quan hành pháp; và
Quyển 4, dĩ nhiên là được dành để "bàn về cơ quan tư pháp" và "chức quan tư
pháp" (đầu đề Chương 5 và Chương 7).
Sự phân quyền của Rousseau không giống với Locke, và càng khác xa so với
Montesquieu, bởi ông vẫn luôn khẳng định một điều duy nhất rằng "những bộ
phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối cao" và "mỗi
bộ phận đều chỉ thực hiện ý chí tối cao đó"(4) mà thôi.
Khi nói về sự phân tách quyền lập pháp và quyền hành pháp, ông viết: "Mỗi hành
động tự do đều có hai nguyên nhân tạo sinh ra nó. Một nguyên nhân thường và
một nguyên nhân vật lý. Nguyên nhân vật lý tức là cái lực tác động thành việc làm
Cơ thể chính trị cũng có những động lực như thế: sức mạnh và ý chí.
_____________
(1) J.J. Rousseau: Sđd, tr.81
(2)(3) J.J. Rousseau: Sđd, tr.101
(4) J.J. Rousseau: Sđd, tr.82
Một cái gọi là quyền lực lập pháp; cái kia gọi là quyền lực hành pháp. Không có
cái gì tự làm hoặc phải làm mà không dựa vào thứ quyền lực ấy"(1). Như vậy có
thể thấy, quyền lập pháp thực chất là ý chí, và quyền hành pháp thực chất là sức
mạnh của một cơ thể chính trị duy nhất, là quyền lực tối cao. Rousseau chủ trương
không phân quyền, nhưng thực chất lại phân quyền tương đối giữa lập pháp và
hành pháp.
Về quyền lực lập pháp, theo Rousseau, "quyền lực lập pháp thuộc về nhân dân và
chỉ có thể thuộc về nhân dân mà thôi"(2).
Ông khẳng định: "Dân chúng tuân theo luật phải là người làm ra luật. Chỉ những
người họp thành xã hội mới có quyền xử lý các điều kiện xã hội". Nhưng ông cũng
đặt ra một câu hỏi: "Làm sao mà một đám người muôn vẻ, mù quáng, thường
không biết mình muốn gì, hoạ hoằn lắm mới hiểu cái gì là tốt cho mình, lại có thể
cùng nhau thực hiện một công trình lớn lao và khó khăn như công trình lập pháp
?"(3). "Chính vì thế mà cần phải có một người lập pháp"(4); con người này sẽ
giúp dân chúng nắm được thời điểm, thấy được những món lợi và những mối nguy

hại, giúp định hướng cho ý chí của dân chúng luôn hướng tới một cái đích đúng
đắn, vì lợi ích chung của toàn thể.
Vậy phải có một cá nhân phi thường đứng ra vạch đường chỉ lối cho ý chí chung,
và ghi chép ý chí chung ấy thành luật. Nhưng "người lập pháp quyết không phải là
một vị pháp quan hay một quốc vương" bởi lập pháp "là một chức năng đặc biệt
và cao cả, không giống với chức năng của một con người cụ thể; bởi vì ai đã
truyền lệnh cho người thì không được truyền lệnh cho luật pháp. Và kẻ đã truyền
lệnh cho luật pháp cũng không nên truyền lệnh cho người. Không như thế thì luật
pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sẽ trở thành công cụ để duy trì bất
công"(5). Đây chính là một biểu hiện cụ thể cho chủ trương phân quyền của
Rousseau.
_____________
(1) J.J. Rousseau: Sđd, tr.121
(2) J.J. Rousseau: Sđd, tr.122
(3) J.J. Rousseau: Sđd, tr.97
(4) J.J. Rousseau: Sđd, tr.98
(5) J.J. Rousseau: Sđd, tr.101
Về hoạt động của con người lập pháp, như đã nói ở trên, Rousseau cho rằng con
người này chỉ đứng ra vạch đường chỉ lối cho ý chí chung, và ghi chép lại ý chí
chung ấy thành luật, chứ không có quyền quy định luật một cách tuỳ tiện. Bởi "
theo như Công ước cơ bản thì chỉ có ý chí chung buộc các cá nhân phải theo nó.
Người ta không bao giờ chắc rằng ý chí cá nhân ( tức là ý chí của người lập pháp -
nhóm NC ) tự nó phù hợp với ý chí chung. Chỉ có thể tin như thế sau khi đã đặt ý
chí cá nhân dưới cuộc đầu phiếu tự do của dân chúng"(1).
Nhưng ở đây lại nảy sinh ra một điều là với những vấn đề không hiển nhiên, hay
quá phức tạp với ngôn ngữ bình dân thì làm sao có thể khiến những con người chỉ
thích thú những vấn đề liên quan tới quyền lợi của mình mà khó nhận ra những
điều lợi cho cộng đồng có thể nắm bắt và hiểu được ? Người lập pháp không thể
dùng sức mạnh của bạo lực cũng như lý lẽ của sức thuyết phục được, nên họ phải
dùng đến một thứ quyền uy khác, là quyền uy của Trời. Những nhà lập pháp gắn

cho Trời ý chí của chính họ, để dân chúng phục tùng luật pháp của nhà nước y như
phục tùng các quy luật tự nhiên. Với những nhà lập pháp thông thái, luật pháp của
họ có thể trở thành những quy luật tự nhiên thực sự; nhưng với những nhà lập
pháp dởm thì sự nghiệp bịp bợm của họ sẽ tiêu tan ngay sau khi họ chết. "Mọi thứ
uy tín giả tạo chỉ làm nên những mối liên hệ tạm thời; chỉ có trí tuệ uyên bác mới
tạo nên những mối liên hệ vững bền"(2).
Quyền hành pháp, Rousseau trao cho chính phủ. "Vậy chính phủ là gì ? Chính phủ
là một cơ thể trung gian giữa các thần dân với cơ quan quyền lực tối cao, để hai
bên tương ứng với nhau, thi hành các luật, giữ gìn quyền tự do dân sự cũng như tự
do chính trị"(3).
Về tổ chức của chính phủ, theo Rouseau " quyền hành pháp không thể thuộc về cái
chung như quyền lập pháp hoặc quyền lực tối cao, bởi lẽ quyền hành pháp chỉ liên
quan đến những điều khoản cụ thể, không thuộc về thẩm quyền của luật cơ bản
hoặc của cơ quan quyền lực tối cao"(4). Bởi vậy, nó không thể trao vào tay tập thể
công dân như quyền lập pháp, mà phải thuộc về một cá nhân cụ thể. Cá nhân ấy
được gọi là pháp quan hoặc là nhà vua, tức là người cai trị. Ở đây, tư tưởng phân
quyền được thể hiện một cách gián tiếp khi ông khẳng định quyền hành pháp
không thể trao vào tay cơ quan quyền lực tối cao - tức nhân dân, là cơ quan đã có
quyền lập pháp.
_____________
(1) J.J. Rousseau: Sđd, tr.102
(2) J.J. Rousseau: Sđd, tr.104
(3)(4) J.J. Rousseau: Sđd, tr.122
Về bản chất quyền lực của chính phủ, ông cho rằng nó chỉ là một cơ quan thực
hành, trong đó các viên chức thực hiện những điều mà cơ quan quyền lực tối cao
uỷ thác; cơ quan quyền lực tối cao có thể hạn chế, sửa đổi hoặc thu hồi quyền
hành của các viên chức này.
Một chính phủ dân sự hoàn hảo theo Rousseau phải là một thể trung gian giữa cơ
quan quyền lực tối cao và nhân dân; nó chấp hành các đạo luật của cơ quan quyền
lực tối cao, và có quyền ra các quyết định để lãnh đạo nhân dân. Nhưng theo nội

dung cơ bản của khế ước xã hội, toàn thể nhân dân chính là cơ quan quyền lực tối
cao, nên có thể coi Rousseau là một trong những người tiên phong đề cập đến
quyền công dân, khi cho rằng: chính phủ lãnh đạo nhân dân, nhưng cũng đồng thời
là phục vụ nhân dân. Trong một xã hội dân sự hoàn hảo, cá nhân không phải là
thần dân của chính phủ, mà chỉ là thần dân của cả cộng đồng xã hội - chính là cơ
quan quyền lực tối cao; trong mối quan hệ với chính phủ, cá nhân là một công dân,
tức là có địa vị pháp lý ngang bằng với chính phủ, có nghĩa vụ phục tùng chính
phủ, nhưng đồng thời cũng có quyền đòi chính phủ phải phục vụ những lợi ích
công mà mình xứng đáng được hưởng.
Rousseau còn bàn về việc chính phủ lạm quyền và thoái hoá. Theo ông có hai con
đường dẫn chính phủ đến chỗ thoái hoá. Thứ nhất là chính phủ tự siết chặt mình
lại, tức là số pháp quan càng ngày càng ít, nghĩa là từ chính phủ dân chủ với toàn
thể công dân là các pháp quan, tới chính phủ quý tộc với một số pháp quan là
những công dân đặc biệt, và cuối cùng là chính phủ quân chủ chỉ với một pháp
quan duy nhất là nhà vua. Theo Rousseau đó là con đường sa đoạ tự nhiên của
chính phủ, bởi một nguyên nhân tất yếu là : người cầm quyền luôn có xu hướng
muốn nắm giữ quyền lực, và muốn lạm dụng quyền lực trong tay mình Con
đường thứ hai dẫn đến sự thoái hoá của chính phủ là khi chính phủ tự buông lỏng
mình, nhưng theo Rousseau việc chính phủ tự thay đổi như thế là không thể có
được, nó chỉ có thể là kết quả của một cuộc cách mạng.
Chính phủ bị giải tán trong hai trường hợp. Thứ nhất là khi người cầm đầu chính
phủ không cai trị theo luật, mà lấn át cơ quan quyền lực tối cao. Khi ấy, công ước
cơ bản của xã hội đã bị xoá bỏ; mọi công dân lại trở lại với trạng thái tự nhiên, họ
bị cưỡng bức mà phải phục tùng nhà nước chứ không phải vì nghĩa vụ mà phục
tùng. Thứ hai là khi các thành viên của chính phủ thoán đoạt quyền hành một cách
riêng rẽ, mà kết quả của nó là mỗi pháp quan sẽ là một thủ tướng, quốc gia bị chia
cắt, xé nhỏ, đồng thời với nó là chính phủ cũng tiêu vong.
Các thành viên của chính phủ - những người được uỷ thác nắm quyền hành pháp,
đơn giản chỉ là những công chức được nhân dân bầu ra, và cũng có thể bị nhân dân
bãi miễn. Người công chức khi làm công việc của mình là đang làm nghĩa vụ của

mình với quốc gia, với cơ quan quyền lực tối cao, họ không có quyền đòi hỏi hay
đặt điều kiện gì với nhân dân. Nhưng sẽ ra sao khi người pháp quan có âm mưu
lạm quyền ? Với quyền hạn của mình, ông ta có thể ra lệnh kéo dài thời gian triệu
tập hội nghị toàn dân; và với sức mạnh hành pháp trong tay, ông ta cũng có thể đe
doạ hoặc trừng phạt những người dám lên tiếng tố cáo, phê phán mình.
Để ngăn chặn việc chính phủ chiếm đoạt quyền lực như vậy, biện pháp đơn giản
nhất và cũng là biện pháp khả thi duy nhất là ban hành một đạo luật quy định sự
nhóm họp của hội nghị công dân một cách định kỳ, không cần đến thủ tục triệu tập
chính thức. Có như vậy, vị thủ tướng chính phủ mới không thể cấm đoán hội nghị
toàn dân, bởi nếu cấm có nghĩa là đã tự thừa nhận mình vi phạm luật, và công khai
đối nghịch với cả quốc gia. Trong các cuộc hội nghị toàn dân như thế, ngoài việc
bàn bạc các vấn đề quan trọng khác, thì có một việc mà nhân dân không thể không
làm, đó là bỏ phiếu xem có nên tiếp tục giữ nguyên hình thức chính phủ hiện nay
hay không, và nhân dân có vừa lòng với các nhân viên của chính phủ hay không.
Cách thức này hoàn toàn có thể ngăn ngừa được việc chính phủ lạm dụng quyền
hành pháp mà cướp đoạt quyền lực tối cao.
Cơ quan tư pháp được Rousseau nhắc tới trong Bàn về Khế ước xã hội không
giống hoàn toàn như cơ quan tư pháp theo nghĩa hiểu của chúng ta ngày nay. Theo
ông, đó là cơ quan "đặt mỗi bộ phận" của nhà nước "vào đúng chỗ của nó, làm
mối dây liên lạc và yếu tố trung gian giữa chính phủ với nhân dân, hoặc giữa
chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao, hoặc giữa cả ba vế ấy khi cần"(1).
_____________
(1) J.J Rousseau: Sđd, tr.218
Dù không coi cơ quan tư pháp là một bộ phận cấu thành của nhà nước, nhưng ông
lại đặc biệt đề cao vai trò và vị trí của nó. Nhiệm vụ của nó là bảo tồn luật và
quyền lập pháp, bởi vậy mà nó được coi là "cơ quan thiêng liêng nhất và được coi
trọng nhất"(1). Điều đó được thể hiện ở việc một nhà nước có thể chế tốt hay
không phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan tư pháp. Một cơ quan tư pháp hoạt động
thông minh sẽ là chỗ dựa vững chắc cho một thể chế tốt: các vế cơ quan quyền lực
tối cao, chính phủ và nhân dân được giữ ổn định ở vị trí của mình, không có sự

lạm quyền cũng như sự rệu rã của các cơ quan. Một cơ quan tư pháp lạm quyền sẽ
dẫn tới sự tan rã của nhà nước, như nhà nước Sparta và nhà nước Lamã thời cổ
đại, khi các Giám chế quan ở Sparta và các Hộ dân quan ở Roma ngày càng trở

×