Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu CHƯƠNG I : CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.81 KB, 8 trang )

CHƯƠNG I : CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu 1: Làm rỏ quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trả lời:
1. Thời kì trước năm 1911: hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng
cứu nước
Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh bị ảnh hưởng sâu sắc bởi
nhiều yếu tố:
+ Trong gia đình: thân sinh của Người là một nhà nho cấp tiến có lòng
yêu nước, thương dân sâu sắc những đều học được từ cha Hồ Chí Minh nâng lên
thành tư tưởng cốt lỏi trong đường lối chính trị của mình. Ngoài ra tư tưởng của
Người cũng bị ảnh hưởng nhiều từ người mẹ nhân hậu, đảm đang chan hòa với mọi
người. Mối quan hệ anh chị em trong gia đình cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lòng
yêu nước thương nòi của Hồ Chí Minh.
+ Quê hương: Nghệ Tĩnh là một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lao
động, yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm…nơi đây đã sản sinh ra biết bao
anh hùng danh tiếng như: Mai Thúc Loan, Đặng Dung…các vị yêu nước thời cận
đại như: Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng…
+ Từ thưở bé Người đã tận mắt nhìn thấy cuộc sống khốn khổ, bị chèn ép
đến cùng cực của đồng bào. Người đã tận mắt nhìn thấy tội ác của thực dân Pháp và
sự ươn hèn của triều Nam cùng với sự thất bại của các vị tiền bối đương thời …
+ Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, quê hương với sự nhảy
cảm đặc biệt về chính trị của mình, Hồ Chí Minh sớm nhận ra được hạn chế của
những người đi trước. Người nhận thức được” nguồn gốc những đau khổ và áp bức
dân tộc là ở ngay tại chính quốc “ở nước đế quốc đang thống trị dân tộc ta cùng với
việc phê phán hành động cầu viện Nhật, Người đã định ra cho mình một hướng
mới.
2. Thời kì từ năm 1911-1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc.
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, trước tiên Người đến nước
Pháp, nơi đã sản sinh ra tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái; tiếp tục đến nhiều nước ở


châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, sống và hoạt động với những người bị áp bức ở phưng
Đông và những người làm thuê ở phương Tây. Người đã khảo sát, tìm hiểu cuộc
cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia Đảng Xã Hội Pháp, tìm hiểu Cách mạng
Tháng Mười Nga, học tập và đã tìm đến chủ nghĩa Lênin, tham dự Đại hội Tua,
đứng về Quốc tế cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là thời kì
Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến vượt bậc về tư tưởng; từ giác ngộ chủ nghĩa dân
tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ một chiến sĩ chống thực dân thành
một chiến sĩ cộng sản Việt Nam. Đây là một bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng
cứu nước của Hồ Chí Minh: “muốn cứu và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”.
3. Thời kì từ năm 1921-1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng
Việt Nam
Trong giai đoạn từ 1921 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động
thực tiễn và hoạt động lý luận hết sức phong phú, sôi nổi trên địa bàn pháp, Trung
Quốc, Thái Lan. Trong giai đoạn này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt
Nam đã hình thành về cơ bản.
Người viết nhiều bài báo tố cáo thực dân, đề cập đến mối quan hệ mật
thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc, khẳng định cách
mạng thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.Những tác phẩm có
tính chất lý luận như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường cách mệnh
(1927), Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930) chứa đựng nội dung căn bản sau:
+ Bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và “giết người”. Vì vậy,
chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con
đường cách mạng vô sản và là một bộ phận của thế giới. Giải phóng dân tộc phải
gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính
quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau.
+ Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”, đánh

đuổi bọn ngoại xâm, giành độc lập, tự do.
+ Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất
trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến bóc lột nặng nề. vì vậy cách mạng giải phóng
dân tộc muốn giành được thắng lơi cần phải thu phục, lôi cuốn được nông dân đi
theo, cần xây dựng khối liên minh công nông đi theo.
+ Cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng lãnh đạo. Đảng
phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin và phải có một đội ngủ cán bộ sẵn sàng chiến đấu vì
lý tưởng của Đảng, vì lợi ích và sự tồn vong của dân tộc, vì lý tưởng giải phóng giai
cấp công nhân và nhân loại
+Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải của
một vài người. Vì vậy, cần phải tập hợp giác ngộ và từng bước tồ chúc quần chúng
đấu tranh từ thấp lên cao.
4. Thời kì từ 1930-1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường
cách mạng
Vào cuối nhũng năm 20, đầu năm 30 của thế kỉ XX, Quốc tế cộng sản bị
chi phối nặng bởi khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng này đã tác động trực tiếp vào
cách mạng Việt Nam.
Từ ngày 14 đến 31-10-1930 Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng
quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng Sản Đông Dương,chỉ trích và phê phán
đường lối của Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn
tắt đã phạm những sai lầm chính trị rất “nguy hiểm” vì “chỉ lo phản đế, mà quên
mất lợi ích giai cấp đấu tranh”.
Trên cơ sở xác định chính xác con đường cần phải đi của cách mạng
Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì bảo vệ quan diểm của mình về vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô
sản, chống lại những biểu hiện “tả” khuynh và biệt phái trong Đảng.
Thực tiễn đã chứng minh quan điểm của Người là đúng.
Tháng 7-1935, Đại hội VII Quốc tế Cộng Sản đã phê phán khuynh
hướng “tả”trong phong trào cộng sản quốc tế, chủ trương mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất vì hòa bình, chống chủ nghĩa phátxit.

Như vậy là sau quá trình thực hành cách mạng, cọ xát với thực tiễn, vấn
đề phân hóa kẻ thù, tranh thủ bạn đồng minh…đã trở lại với Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc. Đó là cơ sở để Đảng ta chuyển hướng đấu
tranh trong thời kì 1936-1939, thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương và
từ năm 1939 đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu.
Trước khi về nước, trong thời gian còn hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn
Ái Quốc vẫn luôn luôn theo dõi tình hình trong nước, kịp thời có những chỉ đạo để
cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên. Khi tình hình thế giới có những biến động
mới, Người đã chủ động đề nghị Quốc tế Cộng Sản cho về nước hoạt động. Người
yêu cầu “đừng để tôi sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là
sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng.
Ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc
trở về Tổ quốc. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp tại Pác Pó dưới sự chủ trì
của Nguyễn Ái Quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương đã
hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh các quyền cơ bản của các dân
tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bản tuyên ngôn nêu rõ: “tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,quyền sung
sướng và quyền tự do”. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật
đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
Thắng lợi của Cách mạng Thánh Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng, phát
triển ngày càng sát đúng với hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
5. Thời kì từ 1945-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn
thiện
Ngày 23-9-1945 Pháp núp sau quân đội Anh gây hấn ở Nam Bộ. Ở miền
Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào nhằm thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta,

bóp chết nước Viêt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Người chủ trương củng cố
chính quyền non trẻ, đẩy lùi giặc dốt, khắc phục nạn tai chính thiếu hụt. Về đối
ngoại, Người vận dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo thêm bạn, bớt thù, “dĩ bất
biến ứng vạn biến”, tranh thủ thời gian để chuẩn bị thế và lực cho kháng chiến lâu
dài.
Ngày 19-12-1946, với tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá vào cuộc kháng
chiến trường ky, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi, Hồ Chí Minh đã phát động
cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp. Người đề ra đường lối vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực
cánh sinh. Người chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cán bộ, đấu tranh
chống tệ quan liêu, mệnh lệnh, xây dựng đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, phát động phong trào thi đua ái quốc.
Năm 1951, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đưa Đảng ra hoạt động công khai với
tên Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội cũng thông qua Cương lĩnh và Điều lệ mới
của Đảng, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp, nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân toàn dân ta kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

×