Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " KHẢO SÁT, SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÙNG ĐẦM PHÁ HUYỆN QUẢNG ĐIỀN - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.27 KB, 7 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 54, 2009



KH
ẢO SÁT, SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ
CÁC MÔ HÌNH NUÔI TR
ỒNG THỦY SẢN VÙNG ĐẦM PHÁ
HUY
ỆN QUẢNG ĐIỀN - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Nguy n Tài Phúc, Ph m Xuân Hùng
Tr
ng i h c Kinh t , i h c Hu
TÓM TẮT
Ngh nuôi tr ng thu s n (NTTS) Qu ng i n có vai trò r t quan tr ng i v i s gia
t
ng thu nh p c a hàng ngàn h dân a ph ng và có nh h ng r t l n n s b n v ng c a
h
sinh thái vùng m phá. Trên c s kh o sát 117 h NTTS vùng nghiên c u theo các hình
th
c nuôi khác nhau: nuôi chuyên canh tôm và nuôi h n h p, k t qu cho th y, so v i mô hình
nuôi chuyên canh tôm, mô hình NTTS h
n h p không ch mang l i hi u qu kinh t cao h n mà
còn có
nh h ng tích c c n h sinh thái. Bên c nh ó, k t qu nghiên c u còn ch ra r ng
thu nh
p c a các h NTTS ch u nh h ng c a nhi u nhân t u vào nh chi phí th c n công
nghi
p, c i t o ao h , ngày công và l a ch n mô hình nuôi. phát tri n NTTS theo h ng b n
v
ng, c n quy ho ch l i vùng nuôi, khuy n khích chuy n i sang mô hình NTTS xen ghép.


Ngoài ra, s
liên k t gi a các h NTTS phát tri n ho t ng d ch v du l ch sinh thái trên
vùng
m phá c n c t ng c ng và m r ng.
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, nuôi trồng thuỷ sản trên vùng đầm phá Tam Giang
c
ủa huyện Quảng Điền phát triển mạnh đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống của
ng
ười dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn vùng ven đầm phá. Tuy nhiên, sự bùng nổ
nuôi tr
ồng và khai thác thuỷ sản không theo quy hoach đã phá vỡ cảnh quan, làm cho
môi tr
ường đầm phá ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Từ thực trạng đó, một vấn đề
đang đặt ra là làm thế nào để vừa khai thác hợp lý tiềm năng vùng đầm phá, vừa bảo vệ,
b
ảo tồn nguồn lợi sinh học, cảnh quan và môi trường, đảm bảo yêu cầu phát triển bền
v
ững. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích khảo sát, đánh giá hiện trạng phát
tri
ển, những ưu điểm và hạn chế của các mô hình NTTS phổ biến ở vùng đầm phá
Qu
ảng Điền. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu, khả thi nhằm xây dựng
nh
ững mô hình NTTS hiệu quả, bền vững, đáp ứng mục tiêu trong quản lý khai thác
hi
ệu quả tiềm năng vùng đầm phá ven biển ở Thừa Thiên Huế.
2. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
2.1. Mô hình NTTS
ở vùng đầm phá huyện Quảng Điền

NTTS là ho
ạt động tạo thu nhập chủ yếu của nhiều hộ dân sống ven đầm phá
huy
ện Quảng Điền. Để khảo sát đặc điểm sản xuất, hiệu quả các mô hình NTTS, nhóm
nghiên c
ứu tiến hành điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên trên 3 xã thuộc địa bàn nghiên cứu
v
ới 2 mô hình nuôi chủ yếu: Nuôi chuyên canh tôm và nuôi xen ghép.
a.V
ề tổ chức sản xuất
Có s
ự khác biệt đáng kể giữa 2 mô hình nuôi. Nuôi chuyên canh tôm là cách
nuôi duy nh
ất một loài (tôm) trong ao, các đối tượng khác coi như có ảnh hưởng bất lợi
đối với kết quả nuôi trồng. Mô hình nuôi này nhằm tạo ra sản phẩm có khối lượng lớn
mang tính ch
ất hàng hoá và có thể áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Mô hình này phát
tri
ển mạnh trong giai đoạn từ 1998 – 2005 và đã mang lại hiệu quả khá cao. Tuy nhiên,
vi
ệc phát triển ồ ạt của mô hình này đã dẫn đến những rủi ro về năng suất do môi trường
nuôi b
ị ô nhiễm và diện tích nuôi theo mô hình này đang có khuynh hướng giảm xuống.
Nuôi xen canh h
ỗn hợp là mô hình nuôi nhiều loài cùng một ao và trong cùng thời gian,
nh
ằm tận dụng tiềm năng của thuỷ vực. Mô hình nuôi này cho phép tận dụng được
ngu
ồn thức ăn tự nhiên và thể tích của thuỷ vực để đạt năng suất cao với chi phí đầu tư
th

ấp. Đây là mô hình nuôi có nhiều ưu việt song phải lựa chọn các loài nuôi phù hợp.
Hi
ện nay các hình nuôi xen canh chủ yếu trên đầm phá bao gồm: (1) tôm - cua; (2) tôm
– cá; (3) tôm – cá – cua; và m
ột số nơi đang thí điểm nuôi cua – cá.
b. V
ề thời vụ nuôi
V
ụ nuôi chính của các mô hình NTTS từ khoảng tháng 3 đến tháng 7. Tuy nhiên,
đối với mô hình nuôi xen ghép, do nuôi nhiều loài nên thời vụ nuôi thay đổi và linh hoạt
h
ơn tùy thuộc vào đối tượng nuôi, giống cua được thả từ giữa tháng 1 và thu hoạch cùng
v
ới tôm. Khi nuôi xen tôm - cá, hoặc tôm – cua - cá, giống cá thường được thả trễ hơn
tôm 1 tháng và thu ho
ạch trễ hơn 1 tháng. Loại cá chủ yếu mà người dân hiện nay sử
d
ụng để nuôi xen là cá kình, cá hồng, cá dìa.
c. V
ề quy mô đầu tư và trình độ thâm canh
K
ết quả khảo sát cho thấy, so với mô hình nuôi chuyên canh tôm, tổng chi phí
nuôi theo mô hình xen ghép th
ấp hơn khoảng 1,85 triệu đồng/ha, tương ứng gần 3%. Khi
chuy
ển sang mô hình nuôi xen ghép, mặc dù chi phí giống có tăng thêm (khoảng 10%) so
v
ới nuôi tôm do phải mua thêm các loại giống cá, cua nhưng áp dụng mô hình nuôi xen,
các h
ộ NTTS có thể tiết kiệm nhiều loại chi phí khác như: chi phí phòng bệnh; nhiên liệu,

n
ăng lượng. Hơn nữa, do không phải tập trung thu hoạch vào những lúc cao điểm như
nuôi chuyên canh tôm nên mô hình nuôi xen có th
ể giảm được chi phí lao động thuê
kho
ảng 33%, nhờ vậy có thể làm tăng thêm giá trị gia tăng cho các hộ gia đình.
Xét cơ cấu chi phí, cả hai mô hình đều có mức độ thâm canh cao nên tỷ trọng
chi phí th
ức ăn công nghiệp trong tổng chi phí khá cao (28% đối với mô hình nuôi
chuyên canh tôm và 35,6%
đối với mô hình nuôi xen). Để hạn chế rủi ro do ô nhiễm
môi tr
ường, dịch bệnh có thể phát sinh các hộ NTTS cũng đã đầu tư một khoản khá lớn
cho vi
ệc cải tạo ao nuôi định kỳ và phòng trừ dịch bệnh (chiếm 14% đối với nuôi
chuyên canh tôm và 12,7%
đối với mô hình nuôi xen ghép).
Xét trên khía c
ạnh môi trường, NTTS theo mô hình nuôi chuyên canh tôm có
nguy c
ơ gây ô nhiễm môi trường nước khá nghiêm trọng do chất thải từ các loại hóa
ch
ất khi xử lý ao và thức ăn dư thừa. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi
ro trong NTTS
ở Quảng Điền. Chuyển sang mô hình nuôi ghép, do nuôi nhiều loài trong
cùng m
ột ao nuôi nên có thể tận dụng nguồn thức ăn chẳng hạn, ở mô hình nuôi tôm
xen v
ới cá kình, do đặc tính tôm thường ăn đêm trong khi cá ăn vào ban ngày nên buổi
t

ối nông dân cho tôm ăn, dư lượng thức ăn của tôm cá sẽ ăn vào sáng ngày hôm sau.
Điều này không chỉ có tác dụng tiết kiệm chi phí mà còn có tác dụng làm sạch môi
tr
ường ao.
d. Kh
ả năng kết hợp NTTS với các hoạt động dịch vụ du lịch
Vi
ệc kết hợp giữa NTTS với các hoạt động du lịch sinh thái trên vùng đầm phá
đã được thực hiện ở một số hộ nuôi ghép thông qua các hoạt động như vận chuyển
khách tham quan, d
ịch vụ nhà hàng cung cấp các món ăn đặc sản và đã mang lại nhiều
k
ết quả khả quan, mở ra một hướng đi mới trong phát triển NTTS theo hướng bền vững.
Tuy nhiên, nh
ững hoạt động này chưa được phát triển mạnh do nhiều nguyên nhân như:
thi
ếu sự liên kết giữa các đối tác tham gia, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, các hộ dân chưa
được trang bị các kiến thức cần thiết về dịch vụ du lịch và thiếu vốn.
2.2. So sánh kết quả và hiệu quả các mô hình NTTS
a. K
ết quả và hiệu quả sản xuất
Đối với nuôi tôm chuyên canh và nuôi tôm xen canh cho thấy năng suất tôm của
mô hình nuôi chuyên canh cao h
ơn nuôi xen canh 45%. Nguyên nhân do nuôi xen canh
m
ật độ thấp. Tuy nhiên theo kết quả PRA, nông dân cho biết cùng một thời gian nuôi,
mô hình xen canh cho t
ỷ lệ tôm kích cỡ lớn nhiều hơn và do vậy, giá bán tôm bình quân
c
ủa các hộ nuôi xen canh cao hơn hộ nuôi chuyên canh.

Ngoài s
ản phẩm tôm, mô hình nuôi xen canh còn có sản phẩm cua và cá. Hiện
nay ngu
ồn giống cua ở địa bàn khảo sát đang trong tình trạng bế tắc vì giống cua khai
thác t
ừ tự nhiên ngày càng cạn kiệt dần trong khi giống cua nhân tạo ngay tại địa
ph
ương vẫn chưa sản xuất được và người dân phải đầu tư thêm chi phí để mua giống từ
Nha Trang.
Đối với sản phẩm cá, người dân chủ yếu nuôi cá kình vì sẵn giống (khai thác từ
đầm phá), giá giống rẻ so với một số cá khác như cá dìa, cá ong. Theo đánh giá của
người nuôi thì việc nuôi xen ghép có tác dụng làm sạch môi trường ao nuôi hơn do thức
ăn thừa của tôm được tận dụng cho cá và các loại nuôi khác.
Trên giác
độ kinh tế, hiệu quả sản xuất là yếu tố quyết định đến quy mô và loại
hình
đầu tư tại các nông hộ NTTS. Bảng 1 phản ánh kết quả và hiệu quả sản xuất của
các h
ộ theo các mô hình sản xuất khác nhau.
So v
ới mô hình nuôi chuyên canh tôm, hiệu quả mô hình nuôi xen ghép cao hơn
c
ả về chỉ tiêu tuyệt đối và tương đối. Nếu tính trên 1 ha diện tích ao nuôi, tổng giá trị
s
ản xuất (GO) của mô hình nuôi xen ghép đạt được khoảng 81,6 triệu đồng, cao hơn
11% so v
ới mô hình nuôi tôm chuyên canh. Hơn nữa, khi thực hiện mô hình nuôi xen
ghép, các h
ộ NTTS có thể tiết kiệm nhiều khoản chi phí bằng tiền (chi phí trung gian
mô hình này th

ấp hơn 6% so với nuôi chuyên canh tôm) nên sự khác biệt về giá trị gia
t
ăng (VA) giữa hai mô hình này khá lớn (VA/ha mô hình nuôi xen ghép cao hơn so với
nuôi chuyên canh tôm kho
ảng 36%).
B ng 1. Hi u qu s n xu t theo các mô hình nuôi (tính cho 1ha)
TT

Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Chuyên
canh tôm
Nuôi xen
ghép
So sánh
nuôi
xen/tôm
(lần)
1 Tổng giá trị sản xuất - GO (1000đ) 73.265,3 81.620,8 1,11
2 Chi phí trung gian –IC (1000đ) 43.556,0 41.115,5 0,94
3 Giá trị gia tăng –VA (1000đ) 29.709,3 40.505,3 1,36
4 VA/GO (lần) 0,41 0,50 1,22
5 VA/IC (lần) 0,68 0,99 1,44
(Ngu n: K t qu i u tra h n m 2008)
Các chỉ tiêu hiệu quả tương đối (VA/GO; VA/IC) có sự khác biệt đáng kể giữa 2
mô hình nuôi. Giá tr
ị gia tăng tạo ra trên một đồng chi phí trung gian của mô hình nuôi
xen ghép là 0,99
đồng, cao hơn 44% so với mô hình nuôi chuyên canh tôm (0,68 đồng).

Bên c
ạnh nguyên nhân do sự khác biệt về chi phí thì yếu tố về thị trường tiêu thụ (do đa
d
ạng đối tượng nuôi nên thị trường tiêu thụ sản phẩm của mô hình nuôi xen ghép ổn
định, ít bị ép giá) và rủi ro thấp là những nguyên nhân quan trọng tạo ra sự khác biệt về
hi
ệu quả sản xuất giữa 2 mô hình.
Tóm l
ại, từ thực tế điều tra đã cho thấy, mô hình nuôi xen ghép đang là mô hình
có kh
ả năng mang lại hiệu quả cao so với các mô hình khác. Vì vậy, chính quyền địa
ph
ương, Sở Thuỷ sản và các Trung tâm Khuyến ngư cần có những giải pháp tích cực
h
ơn nữa để hỗ trợ các hộ nông dân ở đây cả về vốn, kỹ thuật nhằm chuyển đổi mô hình
nuôi
để mang lại hiệu quả cao hơn.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản xuất
Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đối với năng suất tôm
c
ủa các hộ điều tra, chúng tôi đã sử dụng phương pháp phân tích hồi quy. Hàm sản xuất
Cobb – Douglas
được sử dụng để ước lượng các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị gia tăng
c
ủa hộ NTTS ở vùng nghiên cứu. Kết quả ước lượng được thể hiện ở bảng 2.
H
ệ số xác định ở mô hình là 0,652 cho thấy khoảng 65,2% sự biến động giá trị
gia t
ăng của các hộ nuôi tôm là do ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đã được đưa vào
mô hình. Ngo

ại trừ yếu tố chi phí phòng trừ dịch bệnh có ảnh hưởng không rõ ràng, các
y
ếu tố đầu tư còn lại trong mô hình đều có ảnh hưởng tích cực đến giá trị gia tăng của
các h
ộ NTTS với mức ý nghĩa thống kê khá cao.
Đầu tư nâng cao chất lượng con giống có ảnh hưởng tích cực đến kết quả sản
xu
ất của các hộ. Kết quả khảo sát đã cho thấy, những hộ đầu tư mua giống đảm bảo chất
l
ượng thường cho năng suất cao hơn do tỷ lệ sống cao và nguy cơ dịch bệnh thấp. Bên
c
ạnh đó, việc bổ sung các loại thức ăn tổng hợp có khả năng cải thiện đáng kể năng suất
các
đối tượng nuôi và hạn chế được rủi ro do ô nhiễm môi trường so với việc sử dụng
th
ức ăn tươi do các hộ tự sản xuất.
Vi
ệc xử lý ao hồ trước khi nuôi là một yếu tố hết sức quan trọng có ảnh hưởng
đến năng suất và sản lượng thủy sản nuôi trồng của các nông hộ. Kết quả ước lượng
hàm h
ồi quy đã cho thấy mối quan hệ thuận chiều giữa mức độ đầu tư xử lý ao hồ và VA
c
ủa các nông hộ. Thực tế cho thấy, xử lý ao nuôi chưa kỹ là một trong những nguyên
nhân quan tr
ọng dẫn đến rủi ro trong NTTS ở Quảng Điền trong thời gian qua. Như vậy,
để đảm bảo nâng cao hiệu quả NTTS hiện nay thì việc trang bị các kiến thức, quy trình
k
ỹ thuật về xử lý ao hồ trước và trong khi nuôi cũng như diễn biến quá trình sinh trưởng
và phát tri
ển của các đối tượng nuôi là rất cần thiết.

B ng 2. K t qu c l ng hàm s n xu t c a các h NTTS
Biến Hệ số ảnh hưởng (α
αα
α
j
) Sai số chuẩn (se)
- hệ số tự do (β
0
) -2,088
ns


- lnx
1
(giống) 0,218
***

0,164
- lnx
2
(ta - cn) 0,291
***

0,250
- lnx
3
(dịch bệnh) 0,294
ns

0,069

- lnx
4
(cải tạo ao) 0,490
***

0,510
- lnx
5
(công lao động) 0,300
***

0,226
- d (mô hình nuôi) 0,394
***

0,627
- r
2

0,652
- r
2
điều chỉnh 0,633
- số quan sát 117
- f 34,293
***


Chú thích: *; **; *** m c ý ngh a c a h s h i quy t ng ng v i 90%;95%;99%
Đầu tư về công lao động cũng có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả NTTS. Trong

điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu tăng thêm 1% ngày công lao động so với mức
trung bình s
ẽ làm VA trung bình của các hộ NTTS tăng thêm 0,3%. Khác với các loại
hình s
ản xuất khác, các đối tượng trong NTTS có độ nhạy cảm cao đối với sự thay đổi
c
ủa môi trường như nhiệt độ, độ pH, độ mặn của nước Vì vậy, ngoài việc đầu tư về
v
ật chất thì yếu tố hết sức quan trọng đối với các hộ NTTS là phải đầu tư nhiều thời
gian ch
ăm sóc, theo dõi diễn biến sự thay đổi của các yếu tố có ảnh hưởng đến quá trình
sinh tr
ưởng của đối tượng nuôi để có biện pháp xử lý kịp thời sẽ hạn chế được những
t
ổn thất khi có dịch bệnh xảy ra.
S
ự khác biệt về giá trị gia tăng trung bình giữa hai mô hình nuôi có ý nghĩa
th
ống kê cao (1%). Điều này đã cho thấy, việc lựa chọn mô hình nuôi có ảnh hưởng
quan tr
ọng đến kết quả sản xuất.
2.3. Một số đề xuất nhằm phát triển NTTS theo hướng bền vững
T
ừ kết quả nghiên cứu, phân tích và đánh giá các mô hình sản xuất, để phát triển
NTTS theo h
ướng bền vững cần thực hiện một số giải pháp như: (a) Khuyến khích các
h
ộ gia đình nuôi tôm kém hiệu quả chuyển đổi sang mô hình NTTS hỗn hợp với nhiều
đối tượng nuôi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường. (b)
T

ổ chức tập huấn về kỹ thuật sản xuất mới cho các hộ NTTS; (c) Có cơ chế tín dụng ưu
đãi cho các hộ chuyển đổi sang mô hình xen ghép (d) Tăng cường liên kết để mở rộng
các ho
ạt động dịch vụ nhằm khai thác lợi thế dịch vụ du lịch sinh thái ở vùng đầm phá,
(d)
Đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng tại địa phương. (e) Quy hoạch lại vùng nuôi hợp lý.
3. Kết luận
NTTS có m
ột vị trí quan trọng đối với sự phát triển KT – XH vùng đầm phá ở
huy
ện Quảng Điền. Việc khai thác và NTTS thiếu bền vững trong những năm gần đây
đã gây ra những tác động tiêu cực về môi trường sinh thái vùng đầm phá. Các kết quả
nghiên c
ứu cho thấy việc chuyển đổi sang mô hình nuôi xen ghép với việc đa dạng hóa
các
đối tượng nuôi đã mang lại hiệu quả cao, bền vững hơn so với mô hình nuôi chuyên
canh tôm. So v
ới mô hình nuôi chuyên canh tôm, thu nhập từ mô hình nuôi xen ghép
cao h
ơn khoảng 36%, các chỉ tiêu hiệu quả tương đối như VA/GO; VA/IC đều có sự
khác bi
ệt khá lớn. Kết quả phân tích hồi quy đã chỉ ra rằng hầu hết các yếu tố đầu tư chủ
y
ếu có ảnh hưởng đến kết quả sản xuất của hộ và có sự khác biệt đáng kể về kết quả sản
xu
ất theo các mô hình nuôi khác nhau. Để phát triển NTTS theo hướng bền vững trong
th
ời gian tới, ngoài việc đầu tư cơ sở hạ tầng và các yếu tố đầu vào cho NTTS, các hộ
gia
đình cần liên kết để lồng ghép, phát triển các hoạt động dịch vụ du lịch nhằm nâng

cao hi
ệu quả, tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. D án phát tri n nông thôn Qu ng i n (VIE/023), Báo cáo ánh giá tình hình kinh t
xã h
i huy n Qu ng i n.
2. Nguy
n V n H p & c ng s , Ch t l ng n c m phá TGCH, hi n tr ng, lo l ng và
gi
i pháp ki m soát, tr ng H Khoa h c Hu , 2005.
3. Nguy
n Phi Nam & c ng s , Tác ng c a nuôi ghép m t s loài th y s n trong ao
nuôi tôm sú
n ch t l ng môi tr ng n c t i khu v c m Sam – Chu n thu c th
tr
n Thu n An – huy n Phú Vang, 2007.
4. Nguy
n Th Xuân Thu, Tr ng Th Liên, Xây d ng mô hình NTTS b n v ng cho các
vùng
m phá ven bi n mi n Trung. Báo cáo h i th o qu c gia v m phá Th a Thiên
Hu
, 2005.
5. Nguy
n Tài Phúc, Nghiên c u phát tri n nuôi tr ng thu s n vùng m phá ven bi n
Th
a Thiên Hu , Lu n án ti n s , 2005.
6. Phòng Nông nghi
p huy n Qu ng i n, Báo ho t ánh giá ng nuôi tr ng thu s n
huy
n Qu ng i n n m 2000 và 2004.

7. UBND t
nh Th a Thiên Hu , Ch ng trình phát tri n du l ch bi n và m phá n n m
2012, t
m nhìn n 2020, 2008.

STUDYING AND COMPARING THE ECONOMIC EFFICIENCY
OF AQUACULTURE MODELS IN THE LAGOON AREA OF QUANG
ĐIEN
DISTRICT, THUA THIEN HUE PROVINCE
Nguyen Tai Phuc, Pham Xuan Hung
College of Economics, Hue University
SUMMARY
Aquaculture plays an important role in increasing income of thousands of local
households and directly affects the sustainability of ecosystem in lagoon area of Quang Dien
district. Based on the data from the survey carried out in 117 aquaculture households applying
different models of aquaculture: shrimp farming and mixed farming (shrimp, fish and crab)
model at the research site, the study results show that mixed farming models not only bring in
higher gross output and value add but also give better protection to the ecosystem than the
shrimp farmings do. Besides, the findings also prove that the income of the aquaculture
households is affected by several input factors such as the cost of processed foods and diseases
prevention, number of workday and type of farming. In order to develop sustainable aquaculture,
aquatic products, raising areas need to be well-planned and mixed farming models should be
encouraged to apply. In addition, the cooperation among aquaculture households to develop
ecotourism activities also need to be reinforced and expanded.

×