TAP CHấ KHOA HOĩC, aỷi hoỹc Huóỳ, Sọỳ 47, 2008
NHNG YU T TC NG N HOT NG XẫT X V NHU CU,
PHNG HNG NNG CAO HIU QU NC TA HIN NAY
on c Lng
Trng i hc Khoa hc, i hc Hu
TểM TT
Chc nng xột x ca To ỏn ó c quy nh trong Hin phỏp. a ra nhng phỏn
quyt ỳng phỏp lut, khi xột x Thm phỏn v Hi thm nhõn dõn c lp v ch tuõn theo phỏp
lut. Trong thc tin cũn nhiu yu t tỏc ng n hot ng xột x ca To ỏn, tỡnh trng xột
x oan sai vn cũn tn ti. Trong tin trỡnh hi nhp kinh t quc t v ci cỏch t phỏp nc
ta, To ỏn gi vai trũ trung tõm ca ci cỏch. Do vy tỏc gi ó phõn tớch cỏc yu t tớch cc v
nht l cỏc yu t nh hng khụng tớch cc n hot ng xột x lm c s xỏc nh nhng
yờu cu, phng hng cú tớnh tt yu nõng cao hiu qu ca hot ng ny trong giai on
hin nay.
1. Nhng yu t tỏc ng n hot ng xột x ca To ỏn
Xột x l chc nng ca To ỏn ó c quy nh trong Hin phỏp. Khi xột x,
Thm phỏn v Hi thm nhõn dõn c lp v ch tuõn theo phỏp lut. Tuy nhiờn, thc tin
xột x cũn cú rt nhiu cỏc yu t tỏc ng lm nh hng n cỏc phỏn quyt ca To
ỏn, bao gm nhng yu t tỏc ng tớch cc v nhng yu t tỏc ng khụng tớch cc.
Trc ht cp n nhng yu t tớch cc bao gm:
Trong nhng nm qua nhiu Ngh quyt ca ng ó c quỏn trit thnh cỏc k
hoch hnh ng th hin quyt tõm ca ng v Nh nc ta trong vic ci cỏch t
phỏp. Nhng vn bn cú tớnh cht chin lc cho phộp cỏc c quan phỏp lut xem xột
ỏnh giỏ v xõy dng k hoch chin lc ỏp ng yờu cu hi nhp hin nay.
H thng cỏc vn bn phỏp lut c ban hnh khỏ y , tng i phự hp
vi thc tin lm c s cho cỏc c quan ỏp dng phỏp lut xột x cỏc v ỏn hỡnh s, dõn
s v hụn nhõn gia ỡnh. Sau khi cỏc vn bn lut c ban hnh, c quan cú thm quyn
ó cú nhng hng dn chi tit v tp hun cho cỏc cỏn b t phỏp nm bt kp thi v ỏp
dng thng nht phỏp lut.
Nhiu chớnh quyn a phng ó nhn thc ỳng n vai trũ ca cỏc c quan t
phỏp a phng mỡnh, gn vic gi gỡn n nh trt t an ton xó hi vi vic phỏt
trin kinh t. Do vy, chớnh quyn cỏc a phng ó to nhng iu kin nht nh cho
c quan t phỏp (To ỏn, Vin kim sỏt).
Trình độ của các cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được
chuẩn hoá. Việc bổ nhiệm và các chức danh Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán ít
nhất phải có bằng cử nhân luật, có kinh nghiệm công tác và có chứng chỉ bồi dưỡng
nghiệp vụ của Học viện Tư pháp. Trong quá trình bổ nhiệm, đạo đức nghề nghiệp cũng
được quan tâm đúng mức đảm bảo những người làm công tác pháp luật vừa có chuyên
môn, vừa có phẩm chất đạo đức. Trình độ dân trí được nâng cao nên đòi hỏi các cán bộ
ngành tư pháp phải triệt để tuân thủ pháp luật, hạn chế thấp nhất tình trạng oan sai xảy ra.
Bên cạnh những yếu tố tích cực còn có những yếu tố không tích cực tác động đến
hoạt động xét xử như sau:
Trong một thời gian dài, các quy định của pháp luật tố tụng còn bị xem nhẹ theo
quan niệm chỉ là “thủ tục tố tụng” nên không được chú trọng, chủ yếu là các văn bản đơn
hành có giá trị pháp lý thấp hơn luật. Nhiều thủ tục chưa được pháp luật tố tụng điều
chỉnh hoặc các quy định của pháp luật tố tụng mang tính chung chung, chồng chéo, có
thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Khi áp dụng pháp luật quá coi trọng các văn bản
hướng dẫn, thậm chí cả công văn, ý kiến chỉ đạo của cấp trên mà thiếu quan tâm đến các
quy định trong bộ luật, luật.
Pháp luật quy định về tổ chức Toà án còn theo đơn vị hành chính. Hoạt động xét
xử của Toà án là nhân danh công lý và chỉ căn cứ vào pháp luật. Tuy nhiên tổ chức Toà
án ở nước ta hiện nay theo đơn vị hành chính lãnh thổ nên còn những hiện tượng can
thiệp của chính quyền địa phương, của tổ chức Đảng vào hoạt động xét xử. Trước hết cần
khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử là một nguyên tắc hiến định,
do đó, cần phải tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Toà án thực hiện
tốt chức năng xét xử. Tuy nhiên, nếu sự can thiệp không đúng của chính quyền địa
phương và tổ chức Đảng vào hoạt động xét xử các vụ án cụ thể khiến cho các bản án hay
quyết định thiếu khách quan, thiếu chính xác. Đa số các nước trên thế giới đều tổ chức
Toà án không phụ thuộc vào cấp hành chính để hạn chế sự can thiệp của cơ quan hành
pháp vào hoạt động tư pháp. Khắc phục tình trạng này quan điểm chỉ đạo trong cải cách
tư pháp là Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp về chính trị,
tổ chức và cán bộ; khắc phục tình trạng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng
vào hoạt động tư pháp [1, tr.8].
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp chưa đầy đủ,
kịp thời. Theo nghĩa hẹp, cơ quan bổ trợ tư pháp bao gồm những thiết chế phục phụ trực
tiếp cho hoạt động xét xử của Toà án. Trong thời gian dài các quy định pháp luật làm cơ
sở, nền tảng cho các cơ quan bổ trợ tư pháp hoạt động chưa được quan tâm đúng mức. Cơ
quan bổ trợ tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay do thiếu về số lượng, còn
kém về chất lượng. Đội ngũ Luật sư, Giám định viên trong một thời gian dài chưa mang
tính chất chuyên nghiệp hoá, chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn. Ngoài ra, còn
một số người suy thoái về đạo đức làm sai lệch các chứng cứ, các kết luận hoặc móc
ngoặc với cán bộ Toà án khiến cho các phán quyết của Toà án không đúng với nội dung
vụ án. Sự thiếu khách quan, thiếu chính xác của các hoạt động bổ trợ tư pháp đã làm ảnh
hưởng đến chất lượng xét xử của Toà án.
Tình trạng tham nhũng trong xã hội đã làm cho môi trường xét xử chưa được
trong sạch thực sự. Vẫn còn hiện tượng một số cán bộ tư pháp sử dụng quyền của Nhà
nước giao để làm công cụ kiếm tiền bất chính, các đương sự vẫn còn tư tưởng trực tiếp
hay thông qua người khác để nhờ vả nhằm được giải quyết nhanh, có lợi cho mình nhất.
Từ đó dẫn đến hiện tượng “chạy án” “cò mồi” vẫn còn xảy ra khi xét xử các vụ án khiến
cho cán cân công lý bị thiên lệch hoặc chỉ vì một vài những vụ tiêu cực cụ thể mà lòng tin
của các chủ thể vào công lý nói chung, vào Toà án nói riêng bị suy giảm.
Ngoài ra còn có một số yếu tố khác ảnh hưởng đến hoạt động xét xử của Toà án
như: thói quen trong xét xử, thói quen của đương sự; chính sách và chế độ đãi ngộ đối với
người làm công tác xét xử chưa hợp lý; quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán chưa phù hợp;
do quá lâu về mặt thời gian giải quyết vụ việc do ngại đưa vấn đề ra công khai; do Tòa án
không có khả năng chuyên môn để giải quyết vấn đề rõ ràng, sát đúng.
2. Nhu cầu và phương hướng nâng cao hiệu quả xét xử trong tiến trình hội nhập
quốc tế và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
Hiện nay, hoạt động xét xử của Toà án cần được xem xét trong điều kiện khu vực
hoá và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như là một xu hướng khách quan của
nền kinh tế thế giới. Cải cách tư pháp là vấn đề tất yếu phải đặt ra, trong đó trọng tâm là
Toà án. Do vậy, hoạt động xét xử của Toà án dựa trên các nhu cầu và phương hướng sau
đây:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Cải cách
tư pháp đã được đề cập trong các văn kiện và các Nghị quyết của Đảng mà trọng tâm là
hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
dân sự, hôn nhân và gia đình có hiệu quả thì vai trò của Toà án là trung tâm. Về mặt tổ
chức, Toà án các cấp càng ít phụ thuộc vào các cơ quan hành chính thì càng đảm bảo sự
độc lập khi xét xử. Do vậy, có quan điểm cho rằng: "Chúng ta chưa tổ chức tư pháp hoàn
toàn theo nguyên lý tư pháp độc lập. Điều này thể hiện ở chỗ Toà án nước ta được tổ
chức căn cứ vào đơn vị hành chính lãnh thổ. Đã coi nguyên lý độc lập là một nguyên lý
tổ chức tư pháp thì phải thiết kế cơ quan tư pháp tách khỏi cơ quan hành chính. Nếu tổ
chức cơ quan tư pháp theo đơn vị hành chính sẽ làm hạn chế sự độc lập của cơ quan tư
pháp, dễ tạo ra khả năng cho sự can thiệp của chính quyền địa phương vào hoạt động xét
xử của Toà án" [3, tr.85].
Xây dựng cơ chế xét xử đảm bảo sự độc lập của Toà án, độc lập của Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân là một trong những yếu tố quyết định chất lượng xét xử. Bởi lẽ
"xét xử là phòng tuyến cuối cùng của việc bảo vệ pháp luật cần phải được độc lập, do đó
những người thực hiện nó cần phải được độc lập. Hơn nữa tính tự chủ của quyền tư pháp
là điều kiện quan trọng và tiền đề bảo đảm sự độc lập của xét xử và của những người
thực hiện xét xử" [5, tr.16]. Do vậy, tư tưởng chỉ đạo đã được thể hiện trong Nghị quyết
số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 24 tháng 05 năm 2005 với tinh thần là hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, đảm bảo Toà án xét xử độc lập,
đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; đồng thời phân định thẩm quyền xét xử của
Toà án sơ thẩm và Toà án phúc thẩm phù hợp với hai cấp xét xử.
Một trong những quan điểm chỉ đạo trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay là nâng cao chất lượng tranh tụng theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng. "Các bản án, quyết định
của Toà án cấp sơ thẩm phải là kết quả của quá trình tranh tụng công khai, dân chủ tại
phiên tòa. Để thực hiện tranh tụng tại phiên tòa vai trò của Toà án có ý nghĩa quyết định,
sự chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của Toà án đến đâu chính là biểu hiện của nguyên tắc
tranh tụng" [5, tr.69]. Nếu không nâng cao vai trò và trách nhiệm của Toà án, đặc biệt là
tại phiên toà thì tranh tụng khó có thể thực hiện được trên thực tế. Để tranh tụng tại phiên
toà là cả một quá trình chuẩn bị của các bị cáo, của đương sự có vai trò rất quan trọng của
Toà án (chẳng hạn tạo điều kiện cho các đương sự trao đổi chứng cứ, hỗ trợ thu thập
chứng cứ, các thủ tục tại phiên toà, ). Trong điều kiện xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, yêu cầu thủ tục tố tụng hình
sự, dân sự phải thực sự là thủ tục tranh tụng. Vì vậy, trong quá trình cải cách tư pháp, với
tinh thần của Nghị quyết số 49/NQ-TW là đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định
rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh. Đồng thời, "nâng cao
chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp" [1, tr.5].
Thứ hai, nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế và phù hợp với tình hình địa phương. Xây dựng cơ chế xét xử đảm bảo yêu cầu dân
chủ, giản tiện, hiệu quả và minh bạch. Bị cáo, các đương sự được quyền đòi hỏi các
thông tin từ các cơ quan tiến hành tố tụng trong phạm vi luật định, có quyền thực hiện bất
cứ những gì mà pháp luật không cấm để quyền năng tố tụng của các chủ thể tham gia tố
tụng. Công tác xét xử vừa đảm bảo đúng pháp luật vừa phục vụ tình hình chính trị ở địa
phương nhất là các vụ án hình sự có liên quan đến tôn giáo, các tranh chấp nhà đất liên
quan đến chùa, cơ sở tôn giáo.
Đối với các vụ án dân sự, hôn nhân- gia đình phải xuất phát từ đặc trưng của tranh
chấp và các chủ thể tham gia, Toà án thực hiện xét xử nhân danh Nhà nước để nhằm mục
đích điều hoà các mâu thuẫn giữa các bên bằng pháp luật, chứ không phải sự thể hiện
hình thức, thủ tục như tại phiên tòa là thể hiện tính chất quyền lực. Tổ chức phiên tòa
giản tiện như phiên họp sẽ phù hợp hơn để có sự trao đổi, trình bày, tranh luận phù hợp
với việc giải quyết các vụ án dân sự, giảm bớt sự nặng nề và mang lại hiệu quả cao.
Thứ ba, xuất phát từ nhu cầu giải quyết nhanh gọn các vụ án hình sự hoặc dân sự,
đảm bảo hiệu quả về thời gian, ít tốn kém và đúng pháp luật nên nghiên cứu xây dựng thủ
tục rút gọn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và dân sự. Thủ tục này đã được pháp
luật tố tụng một số nước quy định và được xới lên trong dự thảo các bộ luật tố tụng
nhưng về lý luận còn bị ràng buộc bởi nguyên tắc xét xử tập thể nên chưa được quy định
trong pháp luật tố tụng. Ở nhiều nước, nguyên tắc xét xử tập thể hoàn toàn không ảnh
hưởng đến việc một Thẩm phán giải quyết vụ dân sự theo thủ tục rút gọn. Ở nước ta, có
thể sửa đổi quy định của Hiến pháp cho phép không áp dụng nguyên tắc xét xử tập thể,
quyết định theo đa số khi thoả mãn những điều kiện nhất định để làm cơ sở cho việc ban
hành quy định này.
Thứ tư, nhu cầu hoàn thiện pháp luật về tổ chức của Toà án có thẩm quyền xét xử
các vụ án. Hệ thống Toà án ở nước ta, trong đó có các toà chuyên trách được tổ chức theo
đơn vị hành chính cũng làm ảnh hưởng đến sự “độc lập” trong xét xử của Toà án. Do đó
có ý kiến cho rằng: "Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử phải đảm bảo cấp xét xử sơ
thẩm và cấp phúc thẩm độc lập với nhau chứ không phải là cấp trên và cấp dưới. Cách tổ
chức hệ thống Toà án như hiện hành đã biến Toà án thành hệ thống khép kín" [4, tr.6].
Khắc phục hạn chế của pháp luật về tổ chức Toà án có thẩm quyền xét xử còn nhiều ý
kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng thẩm quyền xét xử sơ thẩm về cơ bản vẫn tổ chức
theo hành chính lãnh thổ như như hiện nay, nhưng có sự đổi mới là thành lập Toà án khu
vực bằng việc gộp một số Toà án cấp huyện lại. Theo mô hình này, sẽ cho phép hình
thành đội ngũ Thẩm phán ở quy mô lớn hơn trong một Toà án, chất lượng xét xử cao
hơn, giảm sức ép cho Toà án cấp trên; đồng thời cũng hạn chế được sự dư thừa, sử dụng
không hiệu quả nguồn nhân lực của Toà án huyện hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng CS Việt Nam (2005),
Nghị quyết số 49/NQ-
TW về Đề án Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
2.
Bộ Chính trị - Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết 08/NQTW
về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
.
3.
Võ Trí Hảo, Dân chủ và sự độc lập của Tòa án,
Nghề luật, số 7,
2004.
4.
Đặng Quang Phương,
Cải cách tổ chức hệ thống toà án nhân dân Việt Nam trong
chiến lược cải cách tư pháp
, Hội thảo cải cách tư pháp và phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam, Hà Nội, 2005.
5.
Viện Nhà nước và Pháp luật,
Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam
,
Nxb KH Xã hội, Hà Nội, 2004.
SOME FACTORS AFFECTING THE TRIAL ACTIVITIES OF
THE COURTS AND THE NEEDS AND DIRECTIONS
FOR IMPROVEMENT IN VIETNAM
Doan Duc Luong
College of Sciences, Hue University
SUMMARY
Trial function of the court is provided in the Constitution. In order to have due
judgments, the judges and Juror must be independent and follow only the law when judging. In
practice, there are still some factors that affect the trial activities of the courts and unjust
punishment still exists. In the process of international economic integration and judicial reform
in Vietnam, the court is playing a center role. Therefore, the author analyzed the positive factors
and specially the negative factors affecting the trial activities of the courts which may create a
foundation for determining the needs, and directions for the improvement of trial activities
nowadays in Vietnam.