Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Ca trù -Những vấn đề đã và cần phải đặt ra ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.47 KB, 13 trang )

Ca trù -Những vấn đề đã
và cần phải đặt ra
Với một đối tượng đã tồntại, phát triển trên hành trình lịch sử hơn sáu
thế kỷ như ca trù và, dườngnhư nó sinhthành làcho và do tầng lớp trí thức,thì
ngay ở những điều đó, tự nó, đã cần đặt ranhư những vấn đề mang tính dẫn
đạo thú vị khi đi vào nghiêncứu cái thế giới bên trong nó. Giới nghiêncứu văn
học và âm nhạc, từ trước đến nay, không ít người đã dày công nghiên cứuca
trù vàđã từngđạt được khá nhiều kết quả, nhưng nếu đặt trong tươngquan so
sánh đối với sự đòi hỏi của khối lượng công việc đã đặtvà sẽ được đặtra cho
chúng ta thì, với chừng ấy kết quả, có thể nói là, dường như chưa được bao
nhiêu.
Đó là chưa nói đến có vấn đề nằm ở chính sự quan sát tiến trình nghiên
cứu đãmột thời kỳ bị khựng lại bởilý do catrùđã bị sự tác động của các thiên
kiếnđạo đức, chính trị vào cái hệ quy chiếu giá trị trong cácđánh giá. Phản ứng
của cáimỹ học tiếp nhận đã bị điều kiệnhoá ấy có lý do sâu xatừ trong nội
dungcủa ca trù,từ chính phương thức và môi trườngphổ biến của nó,nghĩa là
phản ứng chínhnhững cái đã làmnên giátrị cho nó.
Trongđời sống tinhthầnhiện tại, nhìn trên tổng thể, ca trùdường như
chỉ là đối tượng nghiên cứuhoặclà đối tượngcủa những người thích bảo tồn
vốn cổ, nhưngtừ trong lịch sử, catrù đã từnghấp dẫn các taonhân mặc khách,
những trí thức cao cấp, tự do phóng khoángcủa nhiềuthờiđại. Ca trù cũnghấp
dẫn cácnhà nghiên cứuâm nhạc, nghiên cứu văn học, văn hóa. Sản phẩm của
sự hấp dẫn đó làđã tạo rakhông chỉ cóhàng dãy dài đơn vị thư mục trongkho
sách Hán Nôm với những Ca phả, Ca trù thể cách, Ca trù tạp lục, Đào nương ca
trù xướng loại, Đại Nam quốc âm ca khúc, mà cũng còn có cả dãy dàithư mục
nghiêncứu ca trù, bao gồm các côngtrình, các chuyên luận, các phần trong các
giáo trìnhvăn học. Từ xưa ca trùđã đi vào truyền thuyết, đến nhữngnăm 30,
40 đầu thế kỷ XX,đi vào truyện, ký của Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, ĐinhHùng,Lê
Văn Trương v.v
Tìm hiểu sâu thêm về ảnh hưởng của ca trù, chúng tađược biết, ca trù đã
để lại những dấu ấn sâu đậm vào đờisống tinhthần củangười Việt Namtừ xa


xưa, dấu vết của sự ảnhhưởngđó còn lưu lại trong điêu khắc cổ ở chính sự
hiện diện của các bức chạm đàn đáy,cỗ phách, các bứcchạm về múa, hát ca trù
trên các đình, đềnthế kỷ XVI, XVII và được phân bố hầu khắp các địa bàn Hà
Tĩnh, HàTây, Bắc Giang, Vĩnh Phúc Cũng cần lưu ýrằng sự tỏa rộng với một
khônggian suốttừ Hà Tĩnh đếncác tỉnhthuộcBắc Bộ (Nếu chỉ nói từ thế kỷ
XIX về trước, sau thế kỷ XIXtình hình đã khác) là một đặc điểm riêng của ca trù
(khác với quan họ haychèo chỉ phát triển ở vùng Bắc Bộ)và sự có mặt văn bia
về ca trù, sẽ nói rõ hơn ở phần sau,cũng vào cácthời điểmtrên, lànhững thông
tin quan trọng chothấyca trù đã xuất hiện và pháttriển sớm ở các tỉnhđó. Từ
sự phổ biến rộngkhắp đómà chúngtôi đã từng nghĩ đến như một lýdo để xem
xét ca trù có thể vượt tầmlàng, tầmvăn hóalàng, và đó là điều đưa lại nét khác
biệt khá quan trọng củaca trù so với nhiều loại dân nhạc khác như quan họ
(làngquan họ),chèo (hội chèo làng)mà chúng ta đãbiết (Nguyễn ĐứcMậu.
1998)
Chúng tacũng được biết có hàngloạt vănbia(1) thế kỷ XVII, XVIII,XIXđã
lập“khế ước” về muabán quyềnhát cửa đình dưới các tên bianhư Lập khoán
xướngbi ký, Đìnhmôn các lệ bi ký, Đoạn mãi đình bi, Mại đình môn bi ký, phân
bố trên các địa bàn Phú Thọ, Vĩnh Yên, BắcNinh, Bắc Giang, Hải Dương,Hà Nội,
Hà Tây.Chỉ vài thông tin đó đủ thấy ca trù, về mặt thời gian là xuyên suốt nhiều
thế kỷ, về khônggian làphổ biến hầu khắp địa bàn châu thổ Bắc Bộ. Và với khối
lượng văn bia về mua bán quyền hát cửa đìnhnhư thế đủ cho thấy đã thực sự
tồn tại một nhu cầu rộngrãi của côngchúng thời xưatạo áplực phảiđưara
những quyướctài chính của cộngđồng đối với lối hát này(2). Đưamộtvài quy
ước của sinh hoạt ca trù vào văn bialà mộtviệc làm đã mang trong nó mong
ước vĩnhviễnhoá các quy ước, khế ước, và như vậy, từ trongsâu xatâm thức
của nhữngngườithực hiện công việc này, đã mặc nhiên thừa nhận catrù sẽ
hiện diện như một nhu cầu dài lâu trong đời sống của cộng đồng làng xã.
Nếu nhìn vào số lượngkhá nhiều của các văn bia haysự phổ biến rộng
rãi của nó hầu khắp các tỉnh,chỉ thấy trongnội dungcác quy ước, khế ước đó
mang tính địaphương, tự phát. Nhưng nếu tìm vào các bộ luật của Triều đình

nhà Lênhư Lê triều chiếu lệnh thiện chính, Khám tụng điều lệ hay Lê triều hội
điển, thì cho thấy đã thực sự tồn tạitrong lịch sử những quy địnhnghĩa vụ,
quyền lợi, trách nhiệm của luật phápnhà nước đối với các tổ chức hát catrù.
Thuế, một trong những yếu mục hàng đầu của luật pháp nhà nướcquânchủ
Nho giáo, đã có quy địnhvề thuế cửa đình hay thuế đinhliên quanđến giáo
phường:“Thuế cửa đình theo ngạch cũ đã có các mức đóng góp thu nộp khác
nhau, tiền lễ thuộc giáo phường thu, tiền trù thuộc về quan đương cai thu”
(Chương Lễ thuộc, sách Lê triều chiếu lệnh thiện chính), và “ Đối với ngụ lộc
giáo phường thì chính đinh nộp 1 quan 2, hoàng đinh lão hạng được giảm một
nửa, tiền điệu được giảm hết” (chương Hộ thuộc, sách Lê triều chiếu lệnh thiện
chính). Công việcthu cácthứ thuế đó đã được luật nhà nước quy định phân cấp
rõ ràng,cụ thể và rất chi tiết. Triềuđình còn phân côngtráchnhiệmcho Bộ hộ
thu thuế và cấpphát lươngcho các Tri giáo phường Nghệ An, Thanh Hoa, Sơn
Tây, KinhBắc, Hải Dương,Sơn Nam(Lê triều hội điển)(3). Câu chuyện được
quan tâm đã không ở phạmvi giáo phường haylàngxã mà đã ở tầm mứcnhà
nước và vì vậy,tầm quan trọng củaca trù, một thời, xét ở biểu hiện quacác
thông tin trên, cho thấy, đã mang ýnghĩa quốc gia. Các quy định về thuế hát
cửa đình và việc cấp phát lương cho các Tri giáo phường của luật pháp
nhà nước có phải là trường hợp duynhất đốivới ca trù hay cũngphổ biến đối
với các loại dânnhạc khác. Trướckhi hội đủ các tư liệu cần thiết để trả lời
chínhxác câu hỏi đó thì cũngcó thể thấy, với nhữngtư liệu mới được phát
hiện mấy năm gần đây về các quy định về thuế, về lương của nhà nướcđối với
ca trù cùng vớicác khế ước vănbia của cáclàngvề muabán quyềnhát cửa đình
đã gợi mở cho chúng ta một cái nhìn rõ hơn, trước hếtlà về sinh hoạtca trù, về
vai tròcủa nó trong đời sống cộngđồng người Việt trongthời trungđại.
Đượcđưa vào các điều luật củabộ luật nhà nước, thế nhưng ca trù dường
như vẫn không bị đưa vàocái quy phạm quanđịnh như thơ, văn, phúlục và đã
đứng ngoài xã hội quanphương,nghĩa là nó vẫn đượctự do phát triển. Theo
giáo sư Trần ĐìnhHượu thì thời trung đại “nhạc phát triển tự do hơn thơ, văn,
khôngcó sự ràngbuộc củakinh điển, của chế độ khoa cử, của những quy phạm

quan định”(4) từ cách giải thích đó về âm nhạc nói chung cũng có thể nghĩ đến
một cách giải thích tươngtự về sự phát triển tự do củaca trù. Cũng cần lưu ý
rằng sự phi chính thốngtạo nhiều khả năng chopháttriển tự do nhưngmặt
khác,ở môi trườngxã hội chuyênchế, sự tự do đó cũng bị nhiều hạn chế trên
con đường dẫn phát triểnđến độ điển phạm.
Một hiện tượngkhá thú vị nhưng chưa từng được chú ýở mức độ trở
thành một nhu cầu được nghiên cứu,giải thích, là tạilàng Ngọc Trung,xã Xuân
Minh, huyện Thọ Xuân, tỉnhThanh Hoácó những cồnđất được đặt các tên của
các nhạc cụ ca trù: Cồn Sênh, Cồn Phách, CồnĐáy. Cáccồn đất đó nằm quanh
miếu thờ tổ ca trù. ÔngLê Huy Trâm trongbài Thử tìm nguồn gốc hátca côngở
ThanhHoá chobiết: ở làng Bái Thuỷ, xãĐịnh Liên, huyện Yên Định, tỉnh Thanh
Hoá cóhọ Nguyễnhát ca công được dân lànggọi là “họ ca công”, họ này có cái
giếngđược gọi là “giếng cacông”(5). Như vậy việc đặt tên những cồn đất, tên
giếngnước, tên họ gắn với một lối hát để lối hát lưu danh và việcnhững tên đó
được tồn tại truyền đời, đã tàng chứa trong nó những thông tin quan trọngvề
sức hấp dẫn của ca trù đối với nhândân ở đây hay ca trù, trong quá khứ, một
thời gian dài đã trở thành nhucầu tinh thần của họ.ở thời điểmhiện tại này,
những thông tintư liệu chỉ mới cho chúng ta biết chỉ cóThanh Hoá có việc đặt
tên như vậy và nếu đó thực sự là một thựctế của lịch sử thì thực tế đó cho thấy
đã có dấuấn riêng, đặc trưng của công chúng ở các địaphươngXứ Thanh trong
ý thức lưu truyền ca trùvới hậu thế. ThanhHoá từ xa xưa đã có hàngloạt địa
phươngnhư Văn Trinh(xã QuãngNgọc, huyện Quãng Xương),Ngọc Trung, Bái
Thuỷ, và vào khoảng đầu thế kỷ XX thêm hàngloạt địa điểm hát nổi tiếng ở thị
xã ThanhHóanhư Cầu Sâng,CầuChanh, Cửa Hậu, Quán Giò.Tản Đà trong bài
thơ Thú ănchơi, khi liệt kê một cách thích thú và tỏ ra sành điệu các loại đặc
sản của đất nước mà ông đã thưởngthức đã nói đến “con ca xứ Huế cô đầu
tỉnh Thanh”. Vào những năm20 của thế kỷ XX,PhạmQuỳnh và Tùng Vân
Nguyễn Đôn Phục nói rằng“tục truyền”(6), “tương truyền”(7) tổ quê ca trù ở
ThanhHoá.
Quatư liệu lịchsử chúngta đã được biết có điệu háttừng tồn tại trong

đời sốngtinh thần rồi mất đi do sự can thiệp của quyền lực nhà nước như điệu
lý liên ở ThanhHoá vàođời Lê và cũngcó điệu mấtđi hay bị đào thải trong quá
trìnhlịch sử. Các thế kỷ XVI - XVII, với các chứng tích còn lưu lại trên văn bia,
trên các bức điêu khắc ở đìnhđền ở trên nhiều địa bàn các tỉnh phía Bắc, đã hé
mở cho chúng ta biết đã có một thời thịnh hành của ca trù. Ngoài các biểuhiện
rõ nétcủa sự thịnh hànhđó chúng ta khôngbiếtgì thêm về quy mô,đặc điểm,
nội dung và số điệu hát cũngnhư ngôn bản của điệu hát đó.Lịch sử ca trù giai
đoạn này vẫn còn mù mờ nhưng dường như đã hé mở một hy vọng, ít nhất đã
thấyở biên độ,và ở chiều sâu của sự ảnh hưởng.
Sự hiện diện của ca trù trên văn bia,trên điêu khắc, trong cácsưu tập, các
tuyển tập và những thôngtin nộidung trongđó đã và sẽ là đối tượng củanhận
thức vànghiên cứu củachúng ta vànó đòi hỏi khôngchỉ đượcnhìn như một
đối tượngđộc lập mà còn được nhìntrongmôi trườngvăn hóa, trong tâm lý
tiếp nhận hay chínhtừ trong cácphươngtiện lưuhành.
Trongdân nhạcViệt Namchỉ có ca trù mới sản sinhra một thể loại văn
học là hát nói,và đó là điều thực sự khác và mới đối với các loại dân nhạc khác
như quan họ, chèo, lý, Và trong vănhọc ViệtNam,dường như cũngchỉ có thể
loại hát nói được sinh thành từ dân nhạc, từ văn nghệ, và cũng được sinh thành
khá muộn màng, khiở đây đã hình thànhmột nền văn học viết vững vàng, điều
này cũngkhác với các nướccó nềnvăn họccó truyền thốnglâu đời, văn học
được hìnhthành từ văn nghệ. Đó là điều khácvà mới đốivớihệ thốngthể loại
trong văn học cổ cận đại. Nhưng những đặc điểmhấpdẫn mang tính khoahọc
đó cũng chưa phải là điều mấy lâunay khiến cho nhiều người nghiên cứu ca
trù, vì thực sự nó chưa từngđượcý thức sâu sắc như là mộtvấn đề cần suy
nghĩ. Catrù đượcnhiều nhà nghiên cứu âm nhạc, nghiên cứu văn học quan tâm
nhưng trong đó điệu hátnói hay thể loại văn học hátnói, đượcnghiên cứu
nhiều nhất so vớicác điệu khác. Sự hấp dẫn củahát nóimột phần có thể lý giải
từ tính chất cá nhân, tínhđô thị, tính phi quan phương, phichính thốngcủa nó
trong một nềnvăn học, văn nghệ tải đạo,bị ràng buộcbởi những quy phạm
quan định, quánhiều “niêm luật”, ít tính cá nhân. Mặtkhác, hátnói là hát thơ

trong một đất nướcmàthơ có một vị trívào loại cao nhất trong đời sống văn
học nghệ thuật,có phần cái tâm lýyêu thơ đó đã dành sẵn chonó mộtthái độ
trân trọng. Hát nói là điệu hát quantrọng nhất của ca trù, và ca trù, như chúng
ta đã biết, không chỉ có hát nói.
Ca trù là tên gọi chung của rất nhiều điệu hát (theo Đỗ BằngĐoàn và Đỗ
TrọngHuề trongViệt Nam ca trù biên khảolà 46 điệu) và chínhkhái niệm ca
trù cũng có thể đượcthaythế bằngcác khái niệm khácnhư hát ả đào, hát cô
đầu, hátnhà trò, hát nhà tơ, mà cách hiểu về nội dung của nó được chấpnhận
và cũng không sợ có sự sai lệch, ít nhất là trongnhậnthức củachúng ta mấy lâu
nay và ở thời điểm hiện nay.Mộttên gọi khác của ca trù lưu hành ở ThanhHoá,
hát ca công, cóthể khôngphổ biến ở các nơi khác trên đất nướchoặc đã từng
phổ biến trong một phạm vi địa lý rộng lớn hơn Xứ Thanh nhưng đã được thay
thế vào một thời kỳ nào đó trongquá khứ. Trên hànhtrình của ca trù,sự xuất
hiện cáctên gọi khác nhau đó có những lýdo lịchsử, văn hóacủa nó (mà cho
đến nay giới nghiên cứu dường như chưa đặt thành một vấn đề để tìm hiểu).
Chúng tôi lựa chọn và sử dụng khái niệm ca trù làm tên đề tài, trước hết,so với
các khái niệm khác, nó là một khái niệm được dùng nhiều xưa nay, lại quen
dùngtrong giới nghiên cứu mấy lâu nay và cũng đượcsử dụngnhiều trongcác
phươngtiện thông tin đại chúnghiện nay.
Các công trình riêng về ca trù dưới dạng mộtcuốn sách hay mộtbài
nghiêncứu, khối lượng nhiều nhưngmỗi đơnvị nghiêncứu chỉ đi theomột
mục đích đặt ravà chỉ đáp ứng độcgiả phầnnào trên phương diện riêng biệt
đó. Ca trù vẫn làmột đối tượng mùmờ đối với đôngđảo độc giả hiện nay, kể cả
với khôngít nhà văn hóa, nhà nghiên cứu khoahọc xã hội, lý do khôngchỉ do
sự vắng bóng khálâu dài của nó trong đờisống tinhthần củaxã hội. Các tư liệu
nghiêncứu tuy nhiều nhưnghiện nay khôngít trongsố đó đã thànhhiếm hoi.
Đã đến lúccầncó những nghiên cứu tổng thể và những nghiêncứu
chuyên sâu nhằmđưa lạicho giới nghiên cứunói riêng và đông đảo độcgiả nói
chung, về các cách hình dung ca trù từ các phươngdiệnâm nhạc, văn học, ngôn
ngữ học, vănhóa, truyền thuyết,từ các vùng quê nổi tiếng về ca trù trong lịch

sử như Cổ Đạm, Lỗ Khê, KinhBắc, và ở các địa phương của Nghệ An,Thanh
Hóa, và cả ca trù trong đời sống,trong tâm thức văn nghệ sỹ. Các cuộchội
thảo haysách viết về ca trù từ các địa phươngnhư Lỗ Khê(Hát cửa đìnhLỗ
Khê, Hà Nội, 1980),hội thảo ca trùCổ Đạm (Kỷ yếu hội thảoCa trù Cổ Đạm, Hà
Tĩnh, 1998), và hội thảo ca trù Thanh Hoá hiện nay (2004) là sự tự ýthức, là
những nỗ lực tự phát của cácvùng quê ca trù.
Đối tượng được nhậnthứcở đây đượcquanniệm khôngphảinhư một
đối tượngkhôngthay đổi, cô lập,tự thân nó khôngcó sự vận động và nó tồntại
khôngchịu sự quy địnhcủa những điềukiện lịch sử,mà cầnphải nhìn nó trong
các quá trình, trong sự vận động của lịch sử, văn hóa, âmnhạc,văn họcvà cả sự
đổi thaytừ phía công chúng tiếp nhận. Trên từng vấnđề của các kết quả nghiên
cứu, có thể nhậnthấy chỉ mới đápứng một phần rất nhỏ, thậm chí nhiều khi chỉ
mớitồn tại ở dạng mục đích đề ra ở tên đề tài haydừng lại ở một vài gợi ý. Với
các vấn đề đặt ra như thế cũng dễ dàng nhận thấy đây là công việc của nhiều
ngành, làsự góp sức của nhiềuthế hệ, và tất nhiênđây khôngphải là công việc
của một người vàcàng không phải chỉ cần mộtcuốn sách, mộtvài cuộc hội thảo
là sẽ đápứng tấtcả mọi hiểu biết về ca trù. Các bài viết, các công trình của một
lịch trình thời giandài, nếu nhìn cả tổngthể, cả chi tiết, cũng sẽ cung cấp cho
chúng ta các quátrình hiểu và tiếpnhận, cả sự tác động mộtcách trực tiếp hay
gián tiếp của lịch sử, của bối cảnh xã hội, vănhóa, chínhtrị, vào quá trìnhnhận
thức này.
Hiện nay chưa có tổng điều tra đầy đủ về ca trù trên khắp đất nước, cả về
thời gian xuất hiện và tồn tại cũngnhư không giantồn tại của nó, nhưng, từ
xưa, về mặt địa lý, theo các tài liệu mà chúngta được biết,thì ca trù trải dài từ
Đèo Ngang(Hà Tĩnh) ra nhiều tỉnh thuộc Bắc Bộ như Nghệ An, ThanhHóa,
Ninh Bình,Hà Nam,Hà Nội, BắcNinh, Hưng Yên, Đến thời Pháp thuộc,thành
thị phát triển,sinh hoạtca trùmở rộng ranhiều nơi, nhiều thành phố trong cả
nước. Về mặt thời gian,ca trù, theo các tư liệu đáng tin cậy (cụ thể là dấu vết
của nóđược lưu giữ trong các bài văn thưởng đào Đại nghĩ bát giáp thưởng đào
giải văn của Lê Đức Mao (1462-1529), qua các khái niệm được dùng trongvăn

bản này như ca trù, đào nương,sênh, giáo phường) làcó từ trước thế kỷ XV đến
nay haynói cụ thể hơn là đến những năm 40,khithế hệ TảnĐà hết tiếng nói
trên vănđàn(8).(Đặc biệt đáng lưu ý là từ sau năm 1945 trở đi ở miền Bắc,
trong các tuyển tập thơ văn đương đại dườngnhư vắng bóng hát nói, ca quán
chỉ tồn tại trong ký ức và mấy năm gần đây các nhóm hát ca trù xuất hiện tự
phát).Một vài bộ sử như Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử nói rằng tên
gọi hát ả đào, quản giáp có từ thời Lý nhưng chỉ nêu một câu chuyện xuất xứ từ
tên gọi ả đào, tổ chức quảngiáp mà không đưa ra mộtchứng tích nào haydẫn
nguồngốc tư liệu, nguồngốc của câu chuyện đó, đủ khiến chochúng tathực sự
yên tâm tin tưởng.Dù sao nhữngthông tin quan trọngđó thực sự cần thiết phải
được phân tích nhiều mặtvà cũng lànhững điều đáng cho chúngta lưu ý, ít
nhất như là một gợi ý, trong quátrình tìmhiểu nguồn gốc ca trù. Chúngta sẽ
trở lại các vấn đề này ở phần sau.
Một loạt vấn đề đã và sẽ tiếp tục đặt ra trước giới nghiên cứu:ca trù xuất
hiện từ bao giờ, tổ quê của nó ở đâu, câu chuyện nội sinh hay ngoại nhập và cả
cái tâm lý khi chọn điểm nhìn"nội, ngoại" trong giới nghiên cứu; có tấtcả bao
nhiêu điệu hát,thứ tự hátcác điệu trong mộtđêm hát và lý do nghệ thuật hay
lý do từ tâm thức tiếp nhận của công chúng đối với sự sắp xếp các thứ tự đó; cơ
cấu và tổ chức giáo phường, lịch sử cũng như vị trí xã hội, văn hóacủa nó; các
khái niệm như ca trù, ả đào, cửa đình, thì khái niệm nào có trước, lý do lịch sử,
văn hóacũng như thời điểm đổi thay các khái niệm.Mỗi lần thay đổi khái niệm
có hay không việckéo theo sự thay đổiít nhiều trongsố lượng, trật tự các điệu
hát haymột sự phân công, phân vùng (đình- một trung tâmvăn hóalàng, ca
quán - một trong nhữngđịa điểm haytrung tâm văn hóa mangtính đô thị), sự
thayđổi đối tượngcôngchúng (từ loại công chúngthích cái không khí trang
nghiêm,linh thiêng nơicửa đình, đến loại công chúngthích thanh sắc, thích văn
nghệ mang tínhgiải trí, hưởng lạc nơi ca quán). Phải chăng có bước chuyển từ
hát cửađình trang nghiêm đến hát ca trù, ca quán tìnhcảm mà một trong
những biểu hiện của sự thay đổi đó là tiếng trống chầu “cắc thòm mạnhmẽ” trở
thành tiếng trốngchầu “cháttom tình tứ, duyên dáng”(9). Vai trò, vị trí của tín

ngưỡng, của hát thờ hay của người đào nương (ả đào) trongtừng thờikỳ lịch
sử tác động nhiều hay ít,đậm haynhạt đếnsự vận động, chiều hướng vận động
của hát ca trù.Nếu có bướcchuyển từ hátcửa đình đến ca trù (hayngược lại)
thì có thể đấy là sự phái sinhcủa một hướng phát triển mới và sauđó cùng tồn
tại và phát triểnvới điệu khúc ban đầu.
Chúng tacũng cần tìmhiểu sâu hơnvề nhữngnét khác nhau giữa ca trù
Thanh,Nghệ và ca trù các tỉnh phía Bắc (như gợi ý từ một vàitư liệu)và lý do,
nguyênnhân, đặcđiểm của sự tương tác giữa ca trù và các loại dân ca khác.
Nhìn từ một điểm khác,từ cách tổ chức khihát thi chỉ chọn người giỏi cầm
chầu mà không chọn người "tuổi cao, chức lớn", phải chăngcó thể thấy ở đấy
đã biểu hiện"tánh cách dân chủ" (Xem bài Hát ả đào của Trần Văn Khê).
Đi sâu hơn vàocác điệuhát, chúngta sẽ thấy vẫn còn nguyên vẹn một
loạt vấn đề đặt ra trước giới nghiên cứu, như tại saocùng mộtca từ mà tồn tại
ba têngọi khácnhau là hát lót,hát hà nam,hát nói. Có thể tạm giảithích sự
khác nhau đó docác cách hát khác nhaunhư chúngta đã từng thấy ở các hiện
tượng tươngtự đối với một bài lục bát mà cóthể hát theo các điệu dânca và tất
nhiên,như vậy, tên gọi của điệuhát sẽ khácnhau. Vànếu chỉ vì lý do cách hát
khác nhau dẫn đến tên gọikhác nhau thì dĩ nhiên khó có thể nói điệu hátnày
sinh ra điệu hátkia như Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ TrọngHuề khi cho rằng điệu hát
nói sinh ratừ điệu Hà Nam(10). Nhưng lạinữa, tại saocùngmột ca từ mà đào
hát thì gọi là hát nói, hát gái haynữ xướng, kép hát thìgọi làhà nam, làhát trai,
là namxướng -vậy là ở đây,trên bề mặt hiện tượngđã cho thấy,sự thay đổi
giới tínhcủa ngườihátcũng đồngthời thay đổi tên gọi cho điệu hát, hay
còn một lý do nào khác sâu xa hơn. Trước nay chưa thấy cósự băn khoănvề
điều đó như là một vấnđề cần tìm hiểu. Rồi nữa, phải chăng trongsự vận động
của ca trù đã từng nẩysinh một bước chuyển từ điệu đọc thơ đến đọc thổngđã
dẫn đến sáng tạo rathể hát nói màdấuvết lịch sử của bướcchuyển đó, của quá
trìnhđó lưu lại trên haibài hátnói Vịnh tiền Xích Bích, Vịnh hậu Xích Bích của
Nguyễn Công Trứ(11).
Trở lại vấn đề thời điểm sinh thànhca trù,hay nói đúng hơnlà tìm một

biểuhiện sớm nhất cho thấy đã từng tồntại ca trù.Như trên đã nói, một số
cuốn sử đã nói ả đào ra đời từ thời Lý nhưng không dẫn sử liệu hay tư liệu tin
cậy. Cũngcó người nóirằng nhữngthànhquả của khảo cổ học lịch sử hiện nay
chưa chỉ ra dấuhiệu cho thấy đình rađời trước thế kỷ XV, vìvậy khó nói hát
cửa đình có trướcthế kỷ XV. Điềuđó là một căn cứ đúngđốivới đòihỏi sự xuất
hiện khái niệm hát cửa đình mà cũng chưa hẳn đúng với điệu hát mang tên nó vì
tên gọi điệu hát rất có thể được định danhsau khiđiệu hát đó hình thànhhay
sự ổn địnhmột tên gọi thườngcho phép muộn hơn sự xuất hiện và định hình
điệu hát. Vấn đề lại đặt ra cho chúng ta ở đây là vaitròcái đìnhcó còn quan
trọng nữa hay không đốivới việcđi tìm một thời điểmsớm của lối hát này, khi
chưa biết khái niệm hát ả đào vàhát cửa đình kháiniệm nào có trước. Nếu khái
niệmhát ả đào có trước thì cái đìnhxuất hiện sớm hay muộncũngkhông ảnh
hưởngđến sự ra đời lối hát này (nếu như hátả đào vàhát cửa đình còn được
xem như, hay còn đúng là, để chỉ cùngmột lốihát như đã được nhận thức mấy
lâu nay).Cách căn cứ vào cái đình đã trở nên mongmanhtrước cái rắc rối của
lối hát có nhiều tên gọi. Sự thay đổi nhiều têngọi hay chính việcgọi tên nào
cũng được đã dung chứa trong nónhiều điều cần suy nghĩ. Như vậy, câu
chuyện phải trở lại từ việc xác định khái niệm nàora đời trước và mối quan hệ
giữacác khái niệm này.
Trongmột bài viết trướcđây(12) chúng tôi có thốngkê mộtdanh sách
dài 17 loại đàn, sáo, trống của thế kỷ XV được ghi trong bộ sử quan trọng Đại
Việt sử ký toàn thư,không thấy có đàn đáy,cỗ phách- nhữngnhạc cụ đặctrưng,
đặc dụngcủa ca trù. Chưa được đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư cũng không có
nghĩa là chưa tồn tại các loại đàn này trongđời sống thực tế. Có thể các loại đàn
đó đã từng được lưu hành(phổ biến hoặcchưa phổ biến) nhưng chưa được
quan tâm và chưa có tên gọi hay chúng đang mang mộttên kháctrong quá
trìnhđịnh danh. Vàcó nhất thiết phải nhìnnhận sự hoàn thiện ca trùđòi hỏi
hoàn thiện đồngbộ, đồng thời tấtcả các nhạc cụ của nó. Đấy là chưa nói đến các
loại nhạc cụ cần thời gian, cần mộtquátrình để hoàn thiệnvà thích hợp với các
điệu hát. Cũngtrong chính thời điểm viết bài đó chính chúng tôicũng đã sơ ý

bỏ qua sênh(13)- tên gọi của một nhạc cụ ca trù, đang hiện diện ở hai câu
thơ “Ngón đàncấp túcdịp sênhthăng bình”(Đoạn3), “Mùi hương nức kính,
tiếng sênh đưa thành” (Đoạn 5), trong bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn
mà chúng tôi bấy giờ đang sử dụng để nghiên cứu.Ngay ở chính cáithông tin, đã
được khẳng định,là ca trù có từ thế kỷ XV về trước, cũng đủ nói lên ca trù khi
đã thực sự thành mộtnhu cầu của côngchúng đương thờithì cũng chưa được
sử sách ghi lại. Tư liệu chochúng ta biếtđược ca trù có từ thế kỷ XV về trước là
nhờ vào bài văn thưởng đào của Lê Đức Mao (1462-1529)và, muộn hơn một ít,
bài thơ Dạ duphỏng đàonương bất ngộ của Hoàng Nghĩa Phú (1480-?). Thay
cho sự võ đoán hoặc dựavào truyền thuyết thì kết quả khoahọclâu naytrong
việc tìm một thời điểm sớmnhấtcủa sự ra đời của ca trù chỉ dừng lại như vậy.
Đối với các truyền thuyếtca trù màchúng ta đã biết, cần thiết phải xem
đấy là nhữngchỉ dẫn có ý nghĩa trong quá trìnhtìm kiếm nguồngốc ca trù và
như vậy đòi hỏiphải xemxét nguồn gốc, thời gian hình thành và phương cách
lưu hành truyềnthuyết, tâm lý, thái độ, lýdo văn hoá của việc sáng tạo ravăn
bản truyền thuyết đó. Nhiều nhànghiên cứu đã lưu ý về sự liên quantổ quê
giữaca trù Cổ Đạm với ca trùLỗ Khê qua truyền thuyết với hai nhân vật, đồng
thời cũng là hai bố con, là Đinh Lễ, Đinh Dự và có thể có sự liên quan nào đó về
dònghọ Đinh với lối hátnày khi tìm thấy trong một truyền thuyết về tổ quê ca
trù có nhân vậtĐinhTriết. ở hướng nghiên cứu ca trù trongvà qua truyền
thuyết, chưa thấy có sự chú ý xemxét sâuvề việc tồn tại một dòng họ Đinh và
sự thật về Đinh Lễ, ĐinhDự ở Cổ Đạm.(Có chăng đã có một sự gán ghép bắt
nguồntừ cái lý do uy danh, phươngdanhcủa dònghọ Đinh đương thời với
điệu hát này). Trong tươnglai chúng ta cần thấy ở hướng nghiên cứu này
những sosánh cụ thể về đặc trưng,đặc điểm,quá trình,cũngnhư mối quan hệ
có thể giữa truyền thuyết ca trù với các truyền thuyết của các loại dân nhạc
khác như chèo,quan họ,
Nghiêncứu ca trù thựcsự đã có khá nhiều thành tựu ở nhiều phương
diện, nóđã hiện hình dầnlên trong nhận thứccủa chúngta, nhưng như đã phân
tích,vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cho giới nghiên cứuâm nhạc, văn học, văn

hóa./.

×