Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của cạnh tranh tới sự tồn tại và phát triển ngành dệt may Việt Nam - 5 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.99 KB, 13 trang )

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Trong kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và trong kinh doanh xuất khẩu hàng dệt
may nói riêng, việc tìm kiếm thị trường là rất quan trọng đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh diễn ra liên tục và đạt hiệu quả cao. Kinh doanh xuất nhập khẩu vượt ra khỏi
biên giới quốc gia nên thị trường càng trở nên phức tạp. Đến nay cơng ty dệt may Hà
Nội đã có quan hệ làm ăn với khoảng trên 20 nước trên thế giới và đang tìm cách mở
rộng hơn nữa thị trường quốc tế của mình .
a. Tình hình xuất khẩu theo thị trường.
Bảng 5 dưới cho biết sự biến động của công ty cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, các
nước nhập khẩu sản phẩm của công ty ngày càng tăng lên cả về số lượng và giá trị hợp
đồng, bằng chứng là năm 2002 cơng ty có thêm 5 khách hàng. Điều này khẳng định rõ
hơn nữa vị trí và uy tín của cơng ty để đi đến kí kết các hợp đồng hàng năm .
Thị phần luôn luôn là vấn đề mà công ty cần phải quan tâm hàng đầu, thật vậy
vào cuối năm 80 đầu năm 90 thì thị trường truyền thống của công ty là Nhật Bản,
Pháp, Đức, Italia và Liên Xô, nhưng bắt đầu vào những năm 90 khi Liên Xơ tan rã thì
mối quan hệ của công ty và Liên Xô cũng thay đổi cho dù công ty đã nối lại quan hệ
với Nga nhưng khối lượng và giá trị sản phẩm xuất khẩu sang Nga cịn q nhỏ và
khơng ổn định. Sau khi thị trường truyền thống chủ yếu là Liên Xơ khơng cịn nữa,
cơng ty đã chuyển hướng phát triển thị trường sang Châu á và đặc biệt là các nước
Châu á Thái Bình Dương và mục tiêu cụ thể đầu tiên là nhật Bản. Kể từ năm 1998
Nhật Bản là khách hàng tiêu thụ sản phẩm với khối lượng và giá trị lớn nhất của công
ty. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản đang giảm dần từ 11.676.581 USD
năm 1997 xuống còn 6.449.635 USD vào năm 2001 và sang năm 2002 xuống còn
3.442,21 USD, nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng ở khu vực Đông Nam á là


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Indonesia và Thái Lan gây ra và các doanh nghiệp Nhật Bản cũng đang đề nghị chính
phủ Nhật Bản áp dụng chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Nếu đề nghị


này được chấp thuận thì đây lại là thêmmột yếu tố làm giảm khả năng cạnh tranh của
hàng dệt của cơng ty dệt may Hà Nội nói riêng và của hàng dệt may của Việt Nam nói
riêng trong tương lai. Bù lại công ty đã phục hồi lại mối quan hệ kinh doanh với Hàn
Quốc vào năm 1997 và mối quan hệ này ngày càng được khẳng định: kim ngạch xuất
khẩu sang Hàn Quốc năm 2001 là 3.415.774 USD gấp 142.3 lần năm 2000. Từ khi
Việt Nam kí hiệp định thương mại với Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ năm 2001
tăng vọt lên 1.590.107 USD t và bước sang năm 2002 con số này nên mức 14.097.970
USD trong khi đó năm 2000 là 29.769 USD năm 1998 là 16.200 USD và năm 1997 là
591 USD.
b. Tình hình xuất khẩu theo sản phẩm
Từ trước năm 1990 Cơng ty dệt may Hà Nội đã tham gia vào việc xuất khẩu hàng hoá
theo hiệp định giữa Nhà Nước Việt Nam với các nước XHCN chủ yếu là Liên Xô và
các nướcĐơng Âu, sản phẩm lúc đó chỉ là các loại sợi LE 32 cotton chải thô. Công ty
được giao kế hoạch xuất khẩu với khối lượng là 2000-3000 tấn /năm. Việc giao sợi và
thu tiền là do TEXTIMEX (Liên hiệp các xí nghiệp dệt) đảm nhận. Từ năm 1991 trở
lại đây Cơng ty dệt may Hà Nội hồn tồn chủ động trong việc xuất khẩu hàng hoá ra
thị trường nước ngồi. Sản phẩm chủ yếu của cơng ty hiện nay trên thị trường nước
ngoài là các sản phẩm khăn, sản phẩm may, một phần là sợi, vải, lều.
Doanh thu sợi tăng nhanh, sợi chủ yếu bán trong nước: 99,99% doanh thu sợi
năm 1998 là thu được trong nước; 97,88% vào năm 1999; 83% vào năm 2000 và
78,74% vào năm 2001. Doanh thu khăn tăng đều, khăn tăng chủ yếu là xuất khẩu: kim


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

ngạch xuất khẩu khăn chiếm 95,12% vào năm 1999; 91,47% năm 2000 và 93,72% vào
năm 2001. Sản phẩm may chủ yếu cho xuất khẩu nhưng tỷ lệ bán hàng trong nước
tăng mạnh từ năm 2000. Năm 1998: 81,48% doanh thu sản phẩm may là do xuất khẩu
; năm 1999 là 86,02%; năm 2000 giảm xuống còn 76,18% và năm 2001 là 76,62 %.
Công ty bắt đầu bán lều từ năm 1996 cho tới quý I năm 2000, lều được xuất khẩu chủ

yếu vào các nước EU và đối tác sản xuất lều của công ty là một công ty của Hàn Quốc.
Tuy nhiên, do nhu cầu lều rất thấp và không phải là một sản phẩm tiêu dùng phổ biến.
Doanh thu vải ít tăng trưởng. Hiện tại 90% sản lượng vải Denim của công ty được tiêu
thụ trong nước. Công ty dệt may Hà Nội bước vào thị trường mới này vì hiện tại mới
chỉ có hai cơng ty sản xuất vải Denim và thị trường vải Denim rất có tiềm năng.
Hanosimex sẽ sớm sản xuất các sản phẩm may bằng vải Denim ( toàn bộ 7 dây chuyền
may) và đang đề ra chỉ tiêu xuất khẩu 50% may bằng vải Denim vào thị trường Mỹ.
Thông qua mối quan hệ với một số khách hàng cũ , từ quý II năm 2001 công ty bắt đầu
sản xuất mũ để xuất khẩu. Chỉ trong 3 quý sản lượng mũ đã là 308.464 chiếc, đạt kim
ngạch xuất khẩu là 278.156 USD, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ tính theo số
lượng là chiếm 66% ( tương đương là 157.386 USD ) còn lại là xuất sang thị trường
Hàn Quốc đạt 120.770 USD .
2 Phân tích khả năng cạnh tranh của cơng ty
Hơn 10 năm qua nhờ thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế của Đảng
và Nhà Nước, ngành dệt may đã không ngừng phát triển cả về qui mô, năng lực sản
xuất, trình độ trang thiết bị, diện mặt hàng, chất lượng sản phẩm.Từ chổ các doanh
nghiệp dệt may chỉ lo sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nước và
thực hiện một phần theo nghị định thư thương mại với Liên Xô cũ và các nước Đông


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Âu trên cơ sở kế hoạch Nhà Nước; đến nay sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp
Việt Nam đã thoả mãn một phần nhu cầu tiêu dùng trong nước và có kim ngạch xuất
khẩu lớn sang thị trường khó tính trên thế giới như EU, Nhật Bản, Mỹ,Canada và các
thị trường khác .
Hiện nay cả nước đã có gần 500 đơn vị tham gia xuất khẩu hàng dệt may nên ở
trong nước công ty đã gặp phải sự cạnh tranh khá gay gắt. Về dệt có các đối thủ như
dệt Nam Định, dệt Vĩnh Phú, dệt 8/3, dệt Huế, dệt Đà Nẵng, dệt Nha Trang, dệt Thắng
Lợi, dệt Thành Công , dệt Thái Tuấn dệt Thăng Long và dệt Đông Xuân. Về may có

các cơng ty như may Thăng Long, may 10, may 20, may 19/5, may Sơng Hồng....Nhìn
chung các cơng ty này cạnh tranh về mẫu mã, màu sắc, giá cả đồng thời cạnh tranh
trong cả cung cách bán và phục vụ khách hàng. Trong 3 năm trở lại đây trong số Top
10 của hàng Việt Nam chất lượng cao đều có tên sản phẩm của cơng ty dệt may Hà
Nội. Tuy nhiên sản phẩm của công ty vẫn chưa khẳng định được vị trí Top 3. Chính vì
thế mà hơn bao giờ hết công ty vẫn phải thu thập thơng tin về thị trường bằng mọi
phương tiện. Có thể từ thông sơ cấp như qua các hội chợ, từ nhân viên bán hàng tại các
đại lý, từ phỏng vấn hoặc từ thông tin thứ cấp như đài, báo, tivi cũng như trên phương
tiện cơng nghệ thơng tin .
Có thể đánh giá sức cạnh tranh của công ty với các đối thủ trong ngành thông
qua rất nhiều thông số và nhiều tỉ lệ, nhưng các đánh giá phổ biến nhất là tỉ suất lợi
nhuận trên doanh thu (ROS) hoặc tỷ xuất lợi nhuận trên tài sản (ROA). Bảng sau sẽ
phân tích khả năng cạnh tranh giữa một số cơng ty dệt may thuộc tổng công ty dệt may
Việt Nam.
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Tổng công ty dệt may Việt Nam 2002)


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Như vậy nếu so sánh sức cạnh tranh hàng hố của cơng ty với các đối thủ cạnh tranh
khác trong cùng ngành theo thông số tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thì sản phẩm của
cơng ty có sức cạnh tranh hơn sản phẩm của công ty may Chiến Thắng và công ty may
Mười, tuy nhiên sản phẩm của công ty phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt đối với
sản phẩm của công ty may Việt Tiến, Công ty may Nhà Bè và công ty may Đức Giang
mặc dù các cơng ty này có quy mơ nhỏ hơn cơng ty dệt may Hà Nội. Vì vậy cơng ty
phải khơng ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình nhằm nâng cao tỷ xuất lợi
nhuận. Các thông số trên nhằm phản ánh tính hiệu quả của cơng ty trong các sử dụng
và điều tiết vốn, chi phí tài sản cố định: khi một đồng vốn (chi phí, hao mịn tài sản cố
định) bỏ ra thu về nhiều lợi nhuận thì tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu sẽ cao hơn,
chứng tỏ tính hiệu quả trong việc sử dụng đồng vốn đó. Hiệu quả của việc sử dụng

đồng vốn và điều tiết các yếu tố đầu vào phụ thuộc vào nhiều nhân tố và được quyết
định bằng khả năng sắp xếp, quản lý, điều hành cơng việc một cách logíc và hợp lý,
nói cách khác là phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của mỗi công ty.
Theo kết quả thống kê ở bảng 5, lợi thế cạnh tranh của các công ty là tương đối khác
nhau. Chẳng hạn công ty dệt may Hà Nội là cơng ty có doanh thu lớn nhất nhưng lại
chưa thực sự có hiệu quả trong sử dụng vốn và tiết kiệm chi phí; trong khi cơng ty may
Nhà Bè lại có lợi thế hơn hẳn trong tiết kiệm chi phí, cơng ty may Đức Giang lại có lợi
thế trong khả năng điều tiết và sử dụng vốn đầu tư. Từ bảng số liệu ta thấy công ty
may Việt tiến là một trong những cơng ty có tỷ suất lợi nhuận trên tài sản và trên
nguồn vốn là cao chứng tỏ tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty và khả năng tổ chức sắp xếp các yếu tố đầu vào, nguồn nhân lực, khai thác tốt
nhất cơng xuất hoạt động của máy móc thiết bị và đây là yếu tố có thể giảm chi phí giá


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

thành của sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Chính vì vậy mà doanh
thu của cơng may Việt tiến thấp hơn doanh thu của công ty dệt may Hà Nội tuy nhiên
mức tỷ xuất lợi nhuận trên doanh thu của công ty may Việt tiến lại cao hơn công ty dệt
may Hà Nội. Ta tiếp tục so sánh sức cạnh tranh của công ty dệt may Hà nội với công
ty may Chiến Thắng và công ty may Mười nhận thấy rằng tỷ xuất lợi nhuận trên doanh
thu và chi phí của cơng ty là cao hơn chứng tỏ cơng ty đã có những ưu thế hơn hẳn
trong việc điều tiết các yếu tố chi phí, giảm chi phí trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm
tạo ra mức lợi nhuận cao và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên khi
xem xét bảng số liệu ta nhận thấy việc sử dụng đồng vốn chủ sở hữu và sử dụng tài sản
cố định của doanh nghiệp là chưa hiệu quả, mặc dù cơng ty may Chiến Thắng có
nguồn vốn chủ sở hữu và tài sản cố định thấp hơn công ty dệt may Hà Nội nhưng hiệu
quả sử dụng lại cao hơn. Điều này chứng tỏ công ty dệt may Hà Nội chứa dụng tối đa
những lợi thế cạnh tranh sẵn có của mình nhiều khi gây thất thốt, láng phí và đây
cũng là ngun nhân dẫn tới việc tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và chi phí của cơng

ty thấp.
Như vậy, khơng hẳn một doanh nghiệp có doanh thu lớn, hay có lợi nhuận lớn thì đã
có nghĩa doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác cùng ngành.
Điều quan trọng là khả năng kết hợp các nguồn lực sẵn có và các nguồn lực mới trong
doanh nghiệp. Nhưng để có được những lợi thế nhất định, công ty dệt may Hà Nội cần
phải nỗ lực nhiều hơn trong khâu quản lý, khai thác và kết hợp nguồn lực để sức cạnh
tranh của sản phẩm – thể hiện qua tính hiệu quả trong sản xuất được cao hơn.
Ngồi ra cơng ty cũng vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía các công ty xuất khẩu
dệt may của các nước khác trên thế giới trong đó phải kể đến những sản phẩm dệt may


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

được xuất đi từ Trung Quốc, Malaysia, Băngladesh, mà mạnh nhất là Trung Quốc. Các
sản phẩm cạnh tranh từ Trung Quốc đã tác động tới giá bán của cơng ty điển hình năm
2000 và 2001 công ty đã mất 2 khách hàng lớn mua khăn và sản phẩm may đã chuyển
sang Trung Quốc vì có giá cạnh tranh hơn. . Do vậy cơng ty cần có chiến lược tiếp thị
có hiệu quả để duy trì các khách hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới .
Nếu xét về mặt chất lượng, hàng dệt may của cơng ty có bất lợi đó là máy móc
thiết bị ngành dệt may của cơng ty chủ yếu nhập khẩu từ các đối thủ cạnh tranh của
mình như: ý, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kơng, Trung Quốc..., cịn các ngun liệu
chính là các loại sợi, vải.. cũng được nhập khẩu từ các đối thủ cạnh tranh khác như:
Thái Lan, Indonesia, Malasia, Trung Quốc...Thêm vào đó , các nước này lại phát triển
trước Việt Nam từ 15 – 20 năm, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất hơn, cho nên
hàng dệt may của các nước này có chất lượng cao hơn hàng dệt may công ty là một
điều chắc chắn.
Nếu xét về mặt giá cả, trước đây chúng ta thường tự hào rằng hàng dệt may của
công ty nói riêng và của tồn ngành dệt may nói chung có khả năng cạnh tranh về giá
cả do giá nhân công của ta thấp nhưng gần đây điều này khơng cịn đúng nữa vì giá
nhân cơng của Trung Quốc còn thấp hơn của ta, hơn nữa ta còn phải chịu chi phí cao

vì phải nhập ngun liệu và máy móc. Như vậy, giá của ta chỉ có thể cạnh tranh được
với giá của Thái Lan, Indonesia, Malasia, Hàn Quốc, Hồng Kông. Tuy nhiên, sức cạnh
tranh này cũng đang giảm dần vì sự sụt giá của đồng tiền của các nước này so với
đồng đoola Mỹ trong khi đồng Việt Nam lại giảm rất ít. Cịn so với Trung Quốc giá
hàng dệt may của ta không thể cạnh tranh được. Giá hàng của Trung Quốc chỉ bằng
khoảng 80% so với giá hàng tương ứng của Việt Nam. Ưu thế này do: giá nhân công


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

thấp, giá nguyên liệu đầu vào thấp (hầu hết sản xuất tại Trung Quốc), thiết bị sản xuất
được lựa chọn tối ưu, các doanh nghiệp có kinh nghiệm quản lý kỹ thuật và sản xuất..
Điểm hạn chế của cơng ty chính là ở chỗ cơng ty chưa khẳng định đuợc mình
qua nhãn hiệu hàng hố danh tiếng hay nghệ thuật marketing. Khơng đựoc như các
công ty may mặc khác trên thế giới, nhãn hiệu của dệt may Hà Nội chưa bao giờ đuợc
gắn trên sản phẩm mà mình sản xuất. Các khách hàng thuê công ty gia công là lực
lượng tiêu thụ chính và cũng là người có quyền gắn nhãn hiệu nên sản phẩm, đối với
các sản phẩm bán theo giá FOB cũng chưa có ngoại lệ. Đây là một bất lợi rất lớn của
cơng ty vì cơng ty khơng thể tự quảng cáo mình trên thị trường thế giới. Như vậy, so
với các đối thủ cạnh tranh trên các thị truờng có khả năng thanh tốn cao thì cơng ty có
sức cạnh tranh yếu, vì trên thị trường này yếu tố chất lượng và nhãn mác sản phẩm
đước chú ý hơn là giá cả.
Ngoài ra hàng dệt may của Việt Nam còn chưa cạnh tranh được với hàng dệt
may của Trung Quốc, Hàn Quốc Hơng Kơng, Thái Lan...cịn do hoạt động Marketing
của ta còn chưa hiệu quả, chẳng hạn như ở Trung Quốc do truyền thống của một dân
tộc giỏi buôn bán nên đã đưa hàng dệt may của Trung Quốc đi khắp thế giới. Ta cịn
chưa hình thành được các trung tâm thiết và sản xuất hàng thời trang nổi tiếng, trong
khi đó Trung Quốc có rất nhiều trung tâm nổi tiếng (Quảng Châu, Thượng Hải, Hàng
Châu,...) có sức thu hút khách hanngf trên toàn thế giới.
Bên cạnh những khó khăn cịn có những thuận lợi nhất định trên thị trường thế

giới :
-

Là một công ty xuất khẩu hàng dệt may có uy tín với thời gian tham gia vào

xuất khẩu 20 năm nay .


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Công ty đã được nhận chứng chỉ ISO 9002. Đây là một bước tiến của cơng ty,

-

nó nâng cao uy tín, khả năng xuất khẩu của công ty trên thị trường quốc tế.
Thuế nhập khẩu hàng may mặc của Việt Nam là 50% nên khi giảm thuế nhập

-

khẩu thì áp lực cạnh tranh tuy tăng song có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của công
ty.
Trên phương diện xem xét về cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may trong thương mại
quốc tế, thì ATC (Hiệp định về hàng dệt may) cũng đang bộc lộ những ảnh hưởng của
nó đến cục diện cạnh tranh giữa các nước và các khối nước. Trong đó lợi thế cạnh
tranh thương mại hàng dệt may thế giới khơng hồn tồn thuộc về một nước hay nhóm
nước nào.
Cơ hội xuất khẩu sẽ gia tăng cho tất cả các nước. Trong khi Bắc Mỹ và EU vẫn là thị
trường nhập khẩu lớn của thế giới thì chính các nước xuất khẩu khác cũng sẽ là một thị
nhập khẩu rộng lớn. Đồng nghĩa với điều đó cạnh tranh xuất khẩu giữa các nước ngày
càng mở rộng, quyết liệt hơn và sẽ đi đến khai thác triệt để hơn các lợi thế tạo thành

sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Nói cách khác, sức cạnh tranh của sản phẩm
dệt may xuất khẩu sẽ có xu hướng trở lại gần hơn với sức cạnh tranh thực của nó.
Các nước phát triển sẽ bị giảm sức cạnh tranh đối với các sản phẩm sử dụng nhiều lao
động, giá trị gia tăng thấp do giá lao động trong nước ngày càng tăng. Tuy nhiên các
nước này sẽ khai thác khả năng cạnh tranh dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động tạo
ra sản phẩm chất lượng cao nhờ lợi thế phát triển đi trước của cơng nghệ sản xuất,
trình độ am hiểu, khám phá thị trường và thiết kế mẫu.
Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước xuất khẩu mới (ở Nam á, ASEAN và
Trung Quốc) sẽ tiếp tục khai thác khả năng cạnh tranh dựa trên lợi thế về nguồn nhân


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

công rẻ, dồi dào. Các sản phẩm dệt may xuất khẩu có sức cạnh tranh cao của các nước
này là: sản phẩm dệt chất lượng thấp và trung bình, sợi tự nhiên đặc biệt là sợi bông;
trang phục thông thường, đặc biệt là bảo hộ lao động; các sản phẩm sử dụng chất liệu
tự nhiên ...
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển để có thể cạnh tranh được với
các nước đang phát triển thì bên cạnh lợi thế về nguồn nhân công rẻ dồi dào các công
ty dệt may Việt Nam nói chung và cơng ty dệt may Hà Nội nói riêng cần áp dụng
những cơng nghệ tiên tiến trong sản xuất học hỏi kinh nghiệm các doanh nghiệp thành
công trên thế giới , nâng cao công tác tiếp thị....nhằm tạo ra các sản phẩm chất lượng
cao và đưa chúng thâm nhập vào thị trường các nước phát triển.

Như vậy cục diện

cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may trong xu thế tự do hoá thương mại phát triển theo
cả chiều rộng (cạnh tranh giữa các quốc gia) và theo chiều sâu (cạnh tranh theo mặt
hàng, nhóm hàng....) . Cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may không chỉ cạnh tranh giữa
các nước xuất khẩu với nhau trên thị trường nhập khẩu, mà nước xuất khẩu này phải

đối mặt với sự cạnh tranh của các nước xuất khẩu khác ở ngay chính thị trường nội
địa.
3. Sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu ở công ty dệt may Hà Nội.
Chất lượng sản phẩm.
Công ty dệt may Hà Nội xác định: đảm bảo chất lưọng sản phẩm và những điều đã
cam kết với khách hàng là nền tảng cho sự phát triển lâu dài cho công ty. Nhận thức
được điều này, công ty dệt may Hà Nội đã thực hiện qua hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9002 mà công ty đã được cấp chứng chỉ vào năm 2000. Việc được
cấp chứng chỉ ISO 9002 và cố gắng phấn đấu để có thể đáp ứng được các yêu cầu về


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

tiêu chuẩn kỹ thuật của mỗi thị truờng nơi doanh nghiệp xuất khẩu hàng hố vào sẽ là
vũ khí cạnh tranh hữu hiệu của cơng ty để có thể chiến thắng đối thủ cạnh tranh.
*Những biện pháp thực hiện chính sách chất lượng.
-

Đầu tư nguồn lực cần thiết để xây dựng, áp dụng và duy trì hệ thống đảm bảo

chất lượng theo tiêu chuẩn ISO-9002.
-

Khách hàng là nhân tố quan trọng của cơng ty. Đáp ứng u cầu và những địi

hỏi của khách hàng là nhiệm vụ của mọi thành viên để đem lại lợi nhuận cho công ty.
-

Thường xuyên nghiên cứu thị trường, thị hiếu thời trang của khách hàng để đưa


ra những sản phẩm độc đáo có chất lượng đáp ứng yêu câù đa dạng phong phú của thị
trường .
-

Có kế hoạch đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ để đảm bảo yêu cầu chất lượng,

đủ sức cạnh tranh trên thị trường
-

Công tác đào tạo huấn luyện là công việc thường xuyên lâu dài nhằm duy trì

được đội ngũ cán bộ cơng nhân viên có năng lực và trình độ. Có chính sách đãi ngộ
hợp lý để họ gắn bó lâu dài với cơng ty
-

Từng kỳ đề ra và thực hiện những mục tiêu cụ thể thích hợp với chính sách chất

lượng sản phẩm của cơng ty
-

Có kế hoạch đánh giá xem xét nội bộ, kịp thời rút ra những điểm tồn tại trong

hệ thống quản lý chất lượng để có biện pháp khắc phục, phịng ngừa nhằm bảo đảm
công tác quản lý chất lượng luôn được cải tiến và có hiệu quả.
*Đối với sản phẩm sợi:
Sản phẩm sợi được xem là có chất lượng cao so với tồn ngành với hầu hết là sản
phẩm cấp I tức là sản phẩm đạt loại chất lượng tốt. Chất lượng sản phẩm sợi thể hiện


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


qua khả năng tiêu thụ mặt hàng này của công ty trong mấy năm qua. Sản phẩm đã
chứng tỏ được thế mạnh bởi sự đa dạng về chủng loại, phù hợp với thị hiếu người tiêu
dùng.
Sản phẩm loại I chiếm hơn 98% cho thấy việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về mặt
hàng sợi để sản xuất hàng dệt kim là hồn tồn có thể điều đó chứng tổ cơng ty luôn
giữ mức chất lượng ổn định tạo được niềm tin cho khách hàng.
*Sản phẩm dệt kim.
Hầu hết các sản phẩm dệt kim là xuất khẩu theo đơn đặt hàng, do đó chất lượng vải,
mẫu mã, kiểu dáng, mầu sắc...đã được ghi rõ trong đơn đặt hàng và nhiệm vụ của công
ty là phải sản xuát theo đúng tiêu chuẩn của đơn đặt hàng. Tại các nhà máy may, công
nhân trực tiếp sản xuất may thêu và kiểm tra chất lượng sản phẩm để làm lại những
sản phẩm không đạt yêu cầu, sau đó những sản phẩm này lại được kiểm tra trước khi
bao gói theo phương pháp lấy mẫu.
Quy trình kiểm tra chất lượng sản phẩm của công ty đặc biệt được coi trọng vì đây là
vũ khí cạnh tranh của cơng ty từ đó tạo được niềm tin đối với khách hàng truyền thống
và khách hàng tiềm năng.
Nhờ làm tốt các khâu này mà chất lượng sản phẩm dệt may của công ty ngày
càng được nâng cao và được chấp nhận tại các thị trường khó tính như thị trường EU,
thị trường Nhật Bản, thị trường Mỹ.Tuy nhiên công ty mới sản xuất những chủng loại
mặt hàng đơn giản có giá trị thấp mà chưa sản xuất được các mặt hàng cao cấp nên
mặc dù xuất được khối lượng lớn nhưng kim ngạch thu được không cao
Giá thành và giá cả.


Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Do đặc điểm là ở Việt Nam việc sản xuất ra các nguyên phụ liệu cho ngành dệt may
vẫn còn rất hạn chế. Đa số nguyên phụ liệu là do các công ty tiến hành nhập khẩu từ
nước ngoài căn cứ vào hợp đồng mà công ty đã ký với khách hàng. Cơng ty dệt may

Hà Nội cũng làm trong tình trạng này. Trên thực tế công ty luôn cố gắng tận dụng tối
đa nguồn nguyên vật liệu mà trong nước có thể sản xuất được với chi phí thấp hơn, kết
hợp với các nguyên vật liệu nhập khác mà trong nước không sản xuất ra được để tiến
hành sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu nhằm giảm tối đa chi phí tăng sức cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Các nguyên liệu sản xuất các mặt hàng chính của cơng ty xơ sản xuất sợi, sợi
cho dệt, vải sản phẩm may chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài chiếm 95%, mua ở trong
nước là không đáng kể chỉ chiếm khoảng 5%. Những con số này cho thấy công ty dệt
may Hà Nội chưa chủ động về mặt nguyên liệu, bị phụ thuộc vào nước ngồi; cho nên
tính chủ động trong sản xuất chưa cao và hiệu quả sản xuất sẽ bị hạn chế. Đặc biệt sản
phẩm sợi hiện vẫn là mặt hàng chủ đạo của cơng ty, là nguồn thu nhập chính của cơng
ty thế nhưng ngun liệu chính của nó là xơ PE chiếm phần lớn là mua từ thị trường
nước ngoài.
Nguyên liệu bông xơ được sử dụng chủ yếu từ các nguồn sau:
Nguyên vật liệu bông:
-

Bông Viêt Nam chiếm 13,5% lượng bông sử dụng.

-

Bơng Nga chiếm khoảng 69,5%

-

Ngồi ra bơng cịn được nhập từ các nước như : Mỹ, úc, Tây Phi.

Toàn bộ nguyên liệu bông của công ty đều được đặt mua tại tổng công ty dệt may Việt
Nam.




×