Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

“Khi chúng ta, những người chết, tỉnh giấc” - Di chúc nghệ thuật của Ibsen doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.68 KB, 6 trang )

“Khi chúng ta, những người
chết, tỉnh giấc” - Di chúc nghệ
thuật của Ibsen
Trong khi ấy thì Maya, vợ Rubek, sau một ngày đi săn với người điền chủ
Ulfheim mỗi lúc một thấy mình hạnh phúc được sống một cuộc sống hằng
mong muốn, mỗi lúc một cảm thấy quý mến người đàn ông có ngoại hình xấu
xí, ăn nói nhiều khi rất cục cằn và không hề quan tâm đến văn chương, nghệ
thuật này - một cực đối lập với ông chồng của nàng. Biết Ulfheim sống độc
thân, nàng nói bóng gió cho ông ta hiểu rằng không hề hạnh phúc với Rubek vì
hai người quá khác nhau, Rubek biết điều ấy và sẵn sàng trả lại tự do cho
nàng. Ulfheim cũng bóng gió kể cho Maya về sự phản bội của người vợ cũ đã
làm tan vỡ gia đình của ông và gợi ý Maya: hai người hãy thử khâu lại làm một
hai mảnh đời đã rách nát, nếu đường khâu bền thì sẽ sống với nhau lâu dài,
bằng không sẽ bình thản chia tay nhau. Maya lặng lẽ chấp nhận và bỏ đi tìm
Rubek, thấy ông đang mải mê tâm sự với Iréna, tựa hồ đã quên hẳn đi sự tồn
tại của nàng. Maya xin phép Rubek được tiếp tục đi săn qua đêm trắng với nhà
điền chủ. Rubek đồng ý ngay: bằng cách ấy hai người đã nhanh chóng giải
phóng cho nhau. Kịch kết thúc bằng cảnh sáng sớm hôm sau Ulfheim cẩn thận
và mãn nguyện dắt Maya xuống núi để tránh một cơn bão tuyết sắp đến, đưa
nàng về nhà mình xây tổ ấm mới, còn Rubek với Iréna thì, hân hoan vì đã tìm
lại được nhau và không để ý gì đến thời tiết cũng như dốc núi cheo leo hiểm
trở, dẫn nhau trèo lên đỉnh đón ngày mới. Họ sắp lên tới đỉnh núi thì bão tuyết
ập đến, trong sấm sét xé trời một khối tuyết lở đổ xuống và cuốn họ xuống vực
sâu. Người nữ y tá - tu sĩ từ xa theo dõi hai người cất tiếng cầu siêu cho linh
hồn họ. Từ dưới thung lũng, vọng lên tiếng reo hoan hỉ của Maya: “Tự do! Tự
do! Hết cầm tù! Hết cầm tù!”.
Vở kịch vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa tượng trưng của Ibsen để
rộng chỗ cho nhiều cách hiểu và minh giải khác nhau. Một thời, khá phổ biến ý
kiến cho rằng bằng tác phẩm cuối cùng này của mình, Ibsen cất tiếng nói bênh
vực và tôn vinh cuộc sống bình thường, giản dị của muôn triệu con người,
khẳng định giá trị ưu việt của cuộc sống trước nghệ thuật. Cuộc sống, dù nó


không biết và không muốn biết đến nghệ thuật cũng như các hoạt động tinh
thần cao siêu khác, vẫn đáng và phải được trân trọng và nâng niu. Ai đặt nghệ
thuật lên trên cuộc sống, người ấy tự kết án mình thất bại trong nghệ thuật và
cô đơn, côi cút giữa thế gian. Những kiến giải như thế không sai, nhưng đã
đầy đủ và thấu đáo chưa, đã nắm bắt được toàn bộ ý tứ trong “di chúc nghệ
thuật” của Ibsen chưa? Ngay cả Thomas Mann, một nhà văn hậu sinh học vấn
sâu rộng, có khiếu thẩm mỹ tinh tế và xa lạ vô cùng với chủ nghĩa duy vật dung
tục, cũng gọi kịch Khi chúng ta, những người chết, tỉnh giấc là “lời thú nhận
muộn mằn về tình yêu cuộc sống của một thầy đời”(9). Viết những lời hơi
chanh chua này (có lẽ vì ông không thích hơi hướng khổ hạnh ở một số tác
phẩm của Ibsen và luôn luôn yêu chuộng Strinberg(10) hơn nhà văn hào Na
Uy này), Thomas Mann hình như quên đi rằng Ibsen bao giờ cũng khẳng định
mình là một nghệ sĩ và chỉ là nghệ sĩ, và luôn luôn cương quyết chống mọi
mưu toan biến văn chương - nghệ thuật thành phương tiện dạy đời, chống mọi
tính khuynh hướng lộ liễu trong tác phẩm nghệ thuật. Khác với một thiên tài
khác, cùng tuổi với ông - Lev Tostoi (một thầy đời đích thực!) - Ibsen không
bao giờ phủ định nghệ thuật, phủ định văn hoá, kêu gọi loài người từ bỏ văn
minh đô thị giả dối và mục ruỗng, trở về với cuộc sống dân cày bình dị và
thuần phác. Cái mà ông mơ ước, cái mà ông cổ xuý là một “liên minh giữa thơ
ca (trong ngôn ngữ của Ibsen từ này đồng nghĩa với văn chương - nghệ thuật
nói chung(11)), triết học và tôn giáo” - chỉ có liên minh ấy, theo Ibsen, mới cứu
chữa nhân loại hiện đại khỏi những bệnh tinh thần trầm kha, bảo đảm cho nó
phát triển hài hoà và thăng hoa(12). Từ đó có thể thấy Ibsen coi trọng thế nào
sứ mệnh của nghệ thuật. Trong tư tưởng, ông không thể đơn thuần đặt cuộc
sống, bất cứ nó là thế nào, lên trên nghệ thuật, cầu phúc một chiều cho những
tâm hồn không biết đến và không cần đến văn chương - nghệ thuật. Nắm được
quan điểm chung ấy của Ibsen, đọc lại chăm chú hơn và kỹ lưỡng hơn vở bi
kịch của ông - bởi vì Khi chúng ta, những người chết, tỉnh giấc là một tác phẩm
bi kịch thực thụ(13), với cấu trúc nhiều cấp độ liên thông - ta có thể phát hiện ra
nhiều vỉa tầng ý nghĩa tiềm ẩn dưới văn bản. Thí dụ, ta dễ nhận ra rằng cả

Rubek lẫn Iréna - hai nhân vật trung tâm của tác phẩm - đều là những nhân vật
bi kịch điển hình, họ đều là những con người vừa có lỗi vừa không có lỗi, vừa
không có lỗi lại vừa có lỗi. Rubek rất chính đáng và trong sạch khi nghe theo
tiếng gọi của tài năng mình, dốc hết tâm lực thực hiện ý đồ sáng tạo của mình,
nhưng chàng đã tỏ ra thiếu trách nhiệm trước Iréna, một thiếu nữ non trẻ lại
không có phương tiện sống, mà chàng đã thuyết phục trở thành cộng sự của
mình, không ý thức được hết giá trị con người của nàng (mặc dù có quá đủ
thời gian), thiếu nhạy cảm trước những nhu cầu tình cảm nơi nàng mà chàng
không thể không nhận thấy. Và chàng đã phải trả một giá rất đắt cho cái lỗi bi
kịch ấy. Còn Iréna - nàng không chỉ là nạn nhân của cái lỗi của Rubek, nàng
cũng có lỗi - cái lỗi bi kịch của sự không hiểu biết(14). Nàng đã rất nhiệt tình
cộng tác với Rubek, giúp chàng làm nên tác phẩm lớn nhất của chàng, nhưng
còn non trẻ và sinh thành trong một môi trường xa nghệ thuật, nàng đã không
thấu hiểu cấu trúc tâm hồn phức tạp, khó cân bằng của một nhân tài như
Rubek. Nàng đòi hỏi ở nhà nghệ sĩ Rubek tối đa những biểu hiện của một con
người đời thường trong khi nhà nghệ sĩ ấy đang toàn bộ bị cuốn hút bởi công
trình sáng tạo của mình(15) và, không nhận được những biểu hiện mong ước
ấy, nàng giận dữ không lời từ bỏ chàng. Trong nỗi đau khổ vô bờ bến của
nàng có sự vị kỷ, và nàng một phần tự làm nên những nỗi gian truân của đời
mình. Rubek và Iréna, “người quốc sắc, kẻ thiên tài”, đã chia tay nhau quá sớm
và gặp lại nhau quá muộn. Bi kịch cuộc đời của họ là bi kịch của cái tuyệt đẹp
và tuyệt hảo không chuyển hoá được từ khả năng thành hiện thực. Trong tác
phẩm của Ibsen nó vừa mang tính hiện thực - cụ thể vừa mang tính tượng
trưng - khái quát. Qua số phận đầy lỗi lầm, đau khổ và thất bại của hai nhân
vật nói trên, nhà văn Na Uy bằng những phương tiện nghệ thuật tiết kiệm
nhưng có sức gợi mở, khải thị lớn đã nói lên cái bi kịch trường cửu của cả văn
hoá loài người: bi kịch phân ly cuộc sống xã hội thành khu vực đời thường và
rất nhiều khu vực hoạt động chuyên môn theo đuổi những mục đích riêng biệt
và nhiều khi trở nên tự thân, không liên thông được với nhau và không thể
thẩm thấu nhau, không có một trung tâm tích hợp chung bảo đảm tính thống

nhất nội tại và ý nghĩa nhân văn của mọi hoạt động con người, bảo đảm trách
nhiệm của khoa học, của công nghệ, của nghệ thuật… trước đời sống và trách
nhiệm ngược lại của đời sống đối với các lĩnh vực hoạt động chuyên môn ấy,
bảo đảm sự thống nhất và toàn vẹn của nhân cách con người hoạt động
chuyên nghiệp, sự không lưỡng phân nó thành con người của khoa học, của
nghệ thuật, v.v… và con người của đời thường (sự lưỡng phân ấy chính là một
hình thức của quá trình tha hoá con người đang diễn ra một cách gia tốc trong
các xã hội hiện đại). Cái thiếu khuyết chung tối quan trọng ấy, cái cần thiết
chung cho văn hoá loài người ấy có ý nghĩa sinh tử đặc biệt đối với nghệ thuật
do muôn vàn sợi dây vô hình gắn bó nó với cuộc sống con người, xã hội và
thiên nhiên mà nó không thể cắt đứt nếu không muốn tự sát. Về vấn đề này
nhiều văn nghệ sĩ và nhiều nhà tư tưởng đã để lại những suy ngẫm tâm huyết.
Bắt đầu cuộc đời của một triết gia và nhà khoa học nhân văn trong một thế kỷ
đầy những biến cố xã hội long trời lở đất, khi mà mọi giá trị tinh thần đều bị đảo
lộn, Mikhail Bakhtin viết trong bài Nghệ thuật và trách nhiệm (1919): “Khi con
người ở trong nghệ thuật, anh ta vắng mặt trong đời sống, và ngược lại. Giữa
nghệ thuật và đời sống không có sự thống nhất và sự thâm nhập lẫn nhau
trong nội tại một nhân cách thống nhất (…) Cuộc sống và nghệ thuật không chỉ
cần phải chịu trách nhiệm về nhau, mà còn cần phải chịu tội cho nhau. Nhà thơ
nên nhớ rằng nếu cuộc đời này tầm thường và tẻ ngắt, thì đó chính là tội của
thơ anh, còn con người của đời thường thì hãy biết rằng sở dĩ nghệ thuật
không đơm hoa kết trái được cho đời sống là bởi vì anh không đòi hỏi điều đó
ở nó, bởi vì những câu hỏi của anh về cuộc sống thiếu nghiêm túc, đấy cũng là
tội”(16). Cái trách nhiệm và tội lỗi liên đới ấy giữa nghệ thuật và đời sống được
thể hiện thật sáng rõ và thuyết phục trong kịch phẩm - di chúc của Henrik Ibsen.
Nhưng trong tấn kịch ảm đạm này có một điểm sáng thể hiện quan niệm và hy
vọng của tác giả về quan hệ chuẩn mực giữa nghệ thuật và đời sống - đó là
đoạn Iréna, thấm nhuần ý đồ sáng tạo của Rubek, hết lòng hợp tác với chàng
làm nên kiệt tác, mà cả hai người đều gọi là “đứa con chung” của họ. Và chính
ký ức không phai về đứa con chung yêu quý ấy đã giúp họ tìm đến lại với nhau

sau mấy chục năm xa cách băng giá. Và nếu theo quan niệm tôn giáo hời hợt
của ai đó, cái chết của họ là hình phạt của Thượng Đế, thì ngược lại, cũng có
thể xem nó là một ân sủng của Ngài: nếu họ không có hạnh phúc làm bạn đời
của nhau, thì họ được hưởng đặc ân chết cùng một lúc bên nhau(17). Thế còn
thái độ của nhà văn đối với đời sống không biết và không cần đến nghệ thuật,
mà đại diện trong vở kịch đang được phân tích là nàng Maya thờ ơ với sự
nghiệp của chồng mình với ông điền chủ chỉ mê săn thú rừng Ulfheim, là ra
sao? Rõ ràng nhà văn cũng rất tôn trọng họ, nhưng không yêu mến. Trái tim
của ông dành cho Rubek với Iréna.
Trong nửa thế kỷ sáng tác văn học (không kể hội họa), Henrik Ibsen đã
hơn một lần, dưới những giác độ và với những điệu thức khác nhau, đề cập
đến những vấn đề như sứ mệnh của nghệ thuật, quan hệ giữa nghệ thuật và
đời sống, quan hệ giữa sáng tác với nhân cách người nghệ sĩ, v.v… - trong
khuôn khổ bài viết này chúng tôi không có điều kiện nói đến những tác phẩm
ấy. Khi chúng ta, những người chết, tỉnh giấc là trước tác chín muồi nhất, thành
công nhất trong chúng, nó đúc kết tất cả những suy nghiệm và tìm tòi sáng tạo
của Ibsen về đề tài nói trên. Như đã nói, đề tài này do tầm quan trọng thường
hằng của nó, trong mọi thời đại thu hút tâm trí không chỉ của các nhà triết học
và lý luận - phê bình, mà còn của chính các văn nghệ sĩ và những tác phẩm ưu
tú mà họ để lại về đề tài này thường có sức hấp dẫn, sức sống trường cửu
hơn những khảo luận, triết luận của giới học giả và phẩm bình nghệ thuật. Nếu
chỉ tính từ thế kỷ XIX, thì trong danh sách những tác phẩm xuất sắc của văn
học thế giới về đề tài nói trên, ta thấy, bên cạnh “di chúc nghệ thuật” của Ibsen,
có bi kịch Mozart và Salieri và truyện vừa Bức chân dung của hai văn hào Nga
Pushkin và Gogol, tiểu thuyết giả tưởng Những nhận xét về sự đời của con
mèo Murr của nhà văn lãng mạn Đức Hoffmann, tiểu thuyết kỳ ảo Chân dung
Dorian Gray của nhà văn Anh gốc Irlande Oscar Wilde, tiểu thuyết trường
thiên Jean - Christophe của nhà văn Pháp Romain Rolland, tiểu thuyết Vừng
trăng và đồng xu của nhà văn Anh Somerset Maugham, Truyện tự bạch Cuộc
đời của một gã khờ của nhà văn Nhật Akutagawa, tiểu thuyết - Bi kịch Bác sĩ

Faustus của nhà văn Đức Thomas Mann, tiểu thuyếtNhững vết tích đã mất của
nhà văn Cuba Alejo Carpentier… Và tất nhiên, không thể loại bỏ khỏi danh
sách này bi kịch Vũ Như Tô của nhà văn Việt Nam Nguyễn Huy Tưởng. Giống
như bi kịch Mozart và Salieri của Pushkin và bi kịch Khi chúng ta, những người
chết, tỉnh giấc của Ibsen, nó hàm chứa những giải đáp cho những câu hỏi về
sứ mệnh của nghệ thuật, quan hệ giữa nghệ thuật với đời sống, nghệ thuật với
nhân cách của người nghệ sĩ… đầy đủ hơn, đúng đắn hơn và minh triết hơn
những quan niệm và luận điểm được đưa ra trong cuộc tranh luận hơi ồn ào
giữa phái “nghệ thuật vị nhân sinh” và “nghệ thuật vị nghệ thuật” ở nước ta
những năm 30 thế kỷ trước.
Tưởng nhớ nhà văn hào Na Uy đã qua đời trước đây 100 năm, chúng ta
biết ơn ông vì những kiệt tác bất hủ mà ông để lại cho chúng ta, vì những vấn
đề hệ trọng mà ông, với tầm nhìn xa thấy rộng của một thiên tài và với mối bận
tâm tha thiết với tương lai của nhân loại, đã đặt ra trước nó - những vấn đề ấy
vẫn giữ vị trí trung tâm trong chương trình nghị sự của thời đại ngày nay./.

×