Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Bài thơ "Con quạ" và "Triết lý về soạn tác" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.1 KB, 9 trang )

Bài thơ "Con quạ" và
"Triết lý về soạn tác"
Lúc này trạng thái cảm xúc của nhân vật đã lên đến đỉnh điểm, khác xa với
cảm giác tò mò thích thú lúc ban đầu. Vậy là câu chuyện đã đến lúc mở nút khi
con quạ trả lời "Nevermore" đáp lại đòi hỏi cuối cùng của chàng trai là liệu anh
ta có thể gặp người tình ở thế giới bên kia. Đến đây có thể nói bài thơ đã có
"sự kết thúc trọn vẹn ở phương diện tự sự đơn thuần". Nhưng với một thi sĩ,
công việc không thể dừng lại ở đây. Poe quan niệm: "Trong những chủ đề
được xử lý như vậy, cho dù có khéo léo đến đâu, hoặc cho dù việc sắp đặt
những tình tiết có sinh động đến đâu thì bao giờ cũng có một sự nặng nề hoặc
trần trụi nào đó làm khó chịu con mắt nghệ sĩ. Có hai điều luôn luôn được đòi
hỏi - thứ nhất, một lượng phức tạp nào đó hay nói đúng hơn một lượng ráp nối
nào đó; và thứ hai một lượng ám gợi nào đó - những ý nghĩa chạy ngầm ở dưới
mà lại mập mờ. Đặc biệt là chính mảng này truyền cho công trình nghệ thuật
không biết bao nhiêu là mầu mỡ (richness) (tôi mượn từ lời ăn tiếng nói hàng
ngày cái từ sống động này) mà chúng ta thường rất thích nhầm lẫn với lý tưởng.
Chính sự nống lên quá đáng ý nghĩa được ám gợi - thay cho sự chạy ngầm
dưới chủ đề lại làm cho nó lộ ở bên trên - chính sự quá đáng này biến cái gọi là
thơ của cái gọi là trường phái siêu nghiệm thành văn xuôi (mà lại là thứ văn
xuôi tầm thường nhất)"(20).
Có thể coi đây là tuyên ngôn của Poe về bản chất thơ. Thơ không thể
thiếu vắng sự ám gợi. Nó tạo cho thơ một sức cuốn hút ghê gớm thậm chí mê
hoặc. Nhưng nếu thiếu sự sáng suốt thậm chí vô tư thì sự ám gợi sẽ bị mất đi
hiệu quả vốn có, thơ sẽ biến dạng và tha hoá. Poe đã nỗ lực viết thêm hai khổ
thơ kết thúc sao cho sức ám gợi của chúng "lan toả khắp câu chuyện đã được
kể từ trước". Mạch ngầm của ý tưởng được hiện rõ trong những dòng thơ:
Hãy rút mỏ ra khỏi tim ta và mang hình hài ngươi biến sau khung cửa
Con quạ đáp lời, "Không bao giờ nữa"
Poe viết: "Đến đây phải thấy rằng những từ "ra khỏi tim ta" bao hàm sự
biểu đạt ẩn dụ đầu tiên trong bài thơ. Những từ này cùng với từ trả lời
"Nevermore" chuẩn bị tâm thế đi tìm bài học luân lý trong tất cả những gì đã


được kể ra trước đó. Giờ đây người đọc bắt đầu nhìn con quạ như là biểu hiệu
(emblematical) - nhưng phải đến dòng cuối cùng của khổ thơ tận cùng thì ý
định biến nó thành biểu hiệu của Hồi ức đau buồn và bất tận mới có cơ được
thấy rõ"(21).
Bản thân tên của biểu hiệu này- "Hồi ức đau buồn và bất tận" - đã thể
hiện một sức ám gợi ghê gớm. Nó được nhắc đi nhắc lại trong những bài
nghiên cứu về Poe đặc biệt là những bài viết về tác phẩm Con quạ. Thậm chí
nó được đặt tên cho một cuốn sách nghiên cứu rất chi tiết về cuộc đời và sự
nghiệp cuả Poe - Edgar Allan Poe, hồi ức đau buồn và bất tận. Bằng việc đột
ngột biến con quạ trở thành "biểu hiệu của hồi ức đau buồn và bất tận" ở dòng
thơ cuối cùng Poe đã kết thúc bài thơ một cách thần tình. Một kết thúc mở, bất
ngờ và khá kinh hoàng. Một linh hồn bị lưu đầy mãi mãi trong bóng quạ đen
thẳm, điều này còn khủng khiếp hơn cái chết. Poe đã chủ trương đạt đến một
"kết thúc tự nhiên nhưng cũng có chừng mực là không vượt quá những giới
hạn của thực tại"(22). Từ đầu đến cuối bài thơ không có một tình tiết nào là
siêu nhiên, là không lý giải được. Cũng như trong những truyện ngắn rùng rợn
và kỳ quái nhất của Poe như Sự sụp đổ của ngôi nhà Usher, Vụ án đường
Mongue Poe đã thể hiện một trí tưởng tượng phi thường thế nhưng không
một tình tiết nào "vượt quá giới hạn của hiện thực". Điều ấy khiến cho độc giả
cảm thấy câu chuyện này hoàn toàn có thể xảy ra ở đâu đó, thậm chí với
những người quen biết, và rùng rợn hơn cả là có thể xảy ra với chính bản thân
họ. Bài thơ Con quạ cũng đem lại cho bạn đọc một cảm giác như vậy chính thế
nó đọng lại rất lâu trong trí nhớ, thậm chí trở thành một ám ảnh.
Hình ảnh cuối cùng của bài thơ là bóng quạ đen câm lặng dập dềnh
(floating) trên sàn. Trước đó Poe đã dùng động từ float có nghĩa là dập dềnh,
bập bềnh khá thành công ở bài Lenore trước đó.
Ah, broken is the golden bowl ! - the spirit flown forever!
Let the bell toll - a saintly soul floats on the Stygian river
(23)
;

(Ôi bát vàng vỡ rồi, hồn bay đi mãi mãi
Hãy để chuông rung - một linh hồn thánh thiện dập dềnh trên sông Mê)
Vậy là chỉ với từ dập dềnh Poe đã lỏng hoá sàn nhà. Trước đó ông cũng
miêu tả ánh sáng của ngọn đèn đổ xuống tuôn trào (streaming) như nước vậy.
Và từ dập dềnh kia đã biến đổi căn phòng chật hẹp thành không gian của mặt
nước khiến cho hình bóng của con quạ in trên sàn càng thêm chập chờn, bí
ẩn. Trong thi ca Việt Nam, có một hình ảnh cũng gợi đôi nét tương đồng với
hình ảnh cuối cùng của bài thơ này. Đó là cảnh xác trăng nằm dưới lòng giếng
lạnh trong bài Trăng tự tử của Hàn Mặc Tử. Cả bài thơ không hề mô tả bóng
trăng in đáy giếng nhưng người đọc lại hình dung ra ngay cảnh trăng soi đáy
nước và trong những giờ khắc cuồng điên tâm tư hỗn loạn, nhân vật cô độc
kia đã nảy sinh ý niệm về một vầng trăng tự vẫn. Kết thúc bài thơ nhân vật kia
"nhảy ùm xuống giếng vớt xác trăng lên". Hành động này xoá đi hình ảnh một
vầng trăng chết trong lòng giếng lạnh. Trạng thái tĩnh lặng cô tịch kia đột ngột
thay đổi. Cho dù sự thay đổi này vẫn bị bao trùm trong cô đơn, cuồng điên,
tuyệt vọng thì vẫn không đáng sợ bằng cảm giác tù đọng, lưu đầy. Có nghĩa là
xác trăng kia sẽ không bị chôn vùi mãi mãi nơi lòng giếng lạnh âm u. Như vậy
có thể thấy là Poe đã chọn một phuơng án triệt để nhất và khủng khiếp nhất
cho nhân vật si tình sầu muộn kia- linh hồn anh ta sẽ không thể nào thoát khỏi
bóng quạ - không bao giờ nữa- nevermore.
Vậy là đến khổ thơ cuối cùng bài thơ đã có một cái kết độc đáo cho một
cốt truyện cũng rất đặc biệt. Hơn thế nữa, Con quạ còn thể hiện sự sáng tạo
của tác giả trong việc ứng dụng thi luật. Poe viết: "Đến đây tôi xin nói đôi lời về
thi luật. Mục tiêu thứ nhất của tôi (như thường lệ) là sự độc đáo. Sự độc đáo
trong thi luật sao lại bị coi thường đến như vậy. Đó là một trong những điều
khó hiểu nhất trên đời. Cứ cho rằng có ít khả năng biến thức trong tiết tấu đơn
thuần, nhưng lại phải thấy rằng những khả năng biến thức của vận luật và khổ
thơ là vô cùng tận - ấy vậy mà trong nhiều thế kỷ, không một ai trong câu thơ,
làm được, một điều độc đáo, mà xem ra cũng chẳng nghĩ đến làm điều độc
đáo"(24).Vậy là Poe đã rắp tâm làm cái điều mà chẳng ai nghĩ tới - tận dụng

"khả năng biến thức của vận luật". Ông tự nhận định: "Đương nhiên, về tiết tấu
cũng như về âm luật trong bài thơ "Con quạ", chẳng có tý độc đáo nào cả về
phần tôi. Tiết tấu ở đây là tiết tấu trochaic(25) - âm luật ở đây là âm luật tám
cụm âm tiết acataletic(26), xen với âm luật bẩy cụm âm tiết catalectic(27) được
lặp lại ở điệp khúc câu thứ năm và kết thúc bằng âm luật bốn cụm âm tiết
catalectic(28). ít sính thuật ngữ hơn thì những cụm âm tiết được dùng trong tiết
tấu trochaic gồm có một âm tiết dài tiếp theo là một âm tiết ngắn: dòng thứ
nhất của khổ thơ gồm có tám cụm âm tiết này - dòng thứ hai gồm có bẩy và
một nửa (trên thực tế là hai phần ba cụm âm tiết này) - dòng thứ ba gồm có
tám - dòng thứ tư gồm có bẩy và một nửa - dòng thứ năm cũng như vậy - dòng
thứ sáu gồm có ba và một nửa. Đến đây có thể thấy rằng mỗi dòng trong sáu
dòng này lấy riêng ra thì đã được các nhà thơ sử dụng từ trước và sự độc đáo
của bài Con quạ là ở sự tổ hợp chúng thành khổ thơ; chưa có bài thơ nào
trước đây gần với cách tổ hợp này, thậm chí hơi hơi giống như vậy cũng
không.
Hiệu quả của tính độc đáo này (được tạo ra bằng sự tổ hợp) được hỗ trợ
bởi những hiệu quả ít thông dụng khác, có một số hoàn toàn mới, chúng nảy
sinh từ một sự mở rộng cách ứng dụng những nguyên lý tiết tấu và điệp
âm"(29).
Đây là nguyên bản tiếng Anh khổ thơ cuối cùng, một ví dụ tiêu biểu cho
nỗ lực của Poe trong việc thay đổi vần luật cũng như âm luật (đã được dịch ra
tiếng Việt ở phần trên)
And the Raven, never flitting, still is siting, still is sitting
On the pallid bust of Pallas just above my chamber door;
And his eyes have all the seeming of a demon's that is dreaming
And the lamp-light o'er him streaming throws his shadow on the floor;
And my soul from out that shadow that lies floating on the floor
Shall be lifted - nevermore!
Chắc chắn với một bạn đọc mà tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất (first
language) thì việc cảm thụ hiệu quả nghệ thuật từ những sáng tạo trong quá

trình ứng dụng thi luật của Poe sẽ triệt để hơn những bạn đọc mà tiếng Anh là
ngôn ngữ thứ hai, thứ ba hoặc đọc qua bản dịch. Chính vì vậy mà bài thơ
Con quạ ngay từ khi ra đời đã thuyết phục được công chúng Mỹ ở mọi tầng lớp
vì nhiều lẽ. Nó thật ấn tượng từ nội dung đến hình thức. Nó khác hẳn những
sản phẩm thi ca từ trước đến nay. Ngôn ngữ đẹp và vang vọng nên bài thơ
càng thêm cuốn hút khi đọc to lên. Chính thế bài thơ Con quạ ngay sau khi
xuất hiện đã được sử dụng trong cuốn Một hệ thống xướng ngôn giản yếu (A
plain system of Elocution) (2d ed., New York 1945). Nó đã được làm ví dụ
trong phần Những cách ngâm thơ (Poetical Recitations). Thế nhưng một số
nhà phê bình cứng nhắc thời đó lại lớn tiếng chỉ trích coi sự sáng tạo thi luật
này như "một mánh khoé vần điệu" và cho rằng "những tiết tấu như một điệu
nhảy điên đảo và những điệp âm màu mè dường như là khéo léo một cách vô
dụng"(30). Sự phản ứng này là bình thường vì từ trước đến nay chưa có sự
cách tân nào được ra đời trong bình an, vô sự.
Poe là thi sĩ đầu tiên phân tích rất hay và cũng rất tỉ mỷ tác phẩm của
chính mình. Sau này cũng có những nhà thơ, nhà văn đã "bắt chước" ông làm
công việc đặc biệt này. Năm 1926 nhà thơ Maiakovski cũng có viết một bài tiểu
luận có tên Làm thơ như thế nào. Khẩu khí và nội dung của nó khá gần gũi với
Triết lý về soạn tác. Đọc bài viết của Maia có thể thấy những câu văn khẩu khí
rất gần với Poe. Khi ông viết: "99% món viết về Esenin chỉ là nước bọt và đó là
nước bọt có hại"(31) thì độc giả dễ liên tưởng ngay đến câu "những cái lông gà,
sơn màu đỏ và những vệt màu đen, tất cả những thứ này chín mươi chín phần
trăm, là vốn đạo cụ của histrio văn học (kép diễn trò văn học)" của Poe. Phần
cuối bài tiểu luận Maia cũng bỏ ra nhiều trang viết về quá trình soạn tác một
trong những bài thơ hay của ông - Gửi Esenin. Cũng giống như trường hợp
của Poe, bài tiểu luận này cũng trở nên một tác phẩm rất quan trọng trong sự
nghiệp sáng tác của Maia.
Triết lý về soạn tác đã cho ta thấy khi tác giả viết về chính sáng tác của
mình thì chắc chắn sẽ có rất nhiều lợi thế. Cho đến nay dường như chưa ai
viết về Con quạ hay hơn Edgar Allan Poe. Tuy nhiên cũng có khá nhiều ý kiến

về bài thơ nằm ngoài nội dung của Triết lý về soạn tác. Từ cách Poe gọi Con
quạ là biểu hiệu "Hồi ức đau buồn và bất tận" một số nhà phê bình như giáo sư
Kenneth Silverman (Mỹ) đã đưa ra nhận định: "Tình huống kịch tính trong bài
thơ là xung đột giữa Nhớ và Quên". Chàng trai kia cố gắng lãng quên Lenore
nhưng không thể. Quá khứ đau buồn cứ ám ảnh mãi. Poe đã tinh tế nhấn chìm
bài thơ vào một không gian cổ kính, hoài niệm. Ông cố tình tạo ta hình ảnh một
con quạ cổ lỗ đến từ những "ngày thiêng xưa cũ", những chồng sách chứa
đựng "những tri thức đã bị lãng quên". Ngoài ra ông còn sử dụng nhiều từ
tiếng Anh cổ như Quoth (đã nói), methought (đối với tôi), surcease (sự dừng).
Không những điệp khúc "nevermore" mà cách lặp lại âm, nhịp thậm chí láy từ
toàn phần như "rapping, rapping” (vỗ cánh, vỗ cánh), "tell me - tell me" (kể với
ta - kể với ta) hay "still is sitting, still si sitting" (vẫn ngồi - vẫn ngồi) cũng kịch
hoá sự ám ảnh quá khứ của chàng trai. Không những thế những thủ pháp thi
học này còn khiến độc giả cũng như bị chìm trong nỗi ám ảnh đó. Chính vì vậy
Nathaniel Parker Willis cho rằng bài thơ đã "xuyên thẳng vào ký ức của những
người đọc nó". Từ hành động chàng trai gặng hỏi con quạ nhiều lần để được
nghe câu trả lời "Nevermore", từ đó cảm nhận "nỗi u buồn ngọt ngào nhất vì
chưng khó chịu đựng nhất" - "một thứ khoái cảm tự hành hạ", giáo sư
Silverman cho rằng chi tiết này có thể phản ánh một quan niệm khác của Poe:
Người chết chỉ được yên nghỉ khi họ vẫn còn trong trí nhớ của những người
đang sống. Nếu quên lãng, họ sẽ trở về cõi trần trong sự giận dữ. Quên đi
những người đã khuất là mang tội bất trung và phải chịu sự trả thù của họ. Từ
điểm nhìn này bạn đọc sẽ thấy chàng trai si tình kia không những bất lực khi cố
gắng ngừng nhớ thương bạn gái mà còn mang một nỗi sợ, sợ quên đi người
đã khuất.
Trong bài tiểu luận của mình Poe đã không nói gì đến những tác phẩm
đã khơi gợi cảm hứng khi soạn tác bài thơ Con quạ. Năm 1826 William Henry
Leonad đã công bố một bài thơ với điệp khúc: "I'll ne'er forget - no - never" (Tôi
sẽ không bao giờ quên - không - không bao giờ). Có người còn cho rằng cái
tên Leonor rất có thể liên quan đến Leonad và điệp khúc "nevermore" được

nảy sinh từ câu thơ điệp khúc trên. Trước khi bài thơ Con quạ ra đời năm năm,
một tạp chí của Anh cho đăng một bài ballad có tên The Raven; or The Power
of Conscience (Con quạ; hay sức mạnh của lương tâm). Con quạ ở đây không
kêu "Nevermore" như trong bài thơ của Poe mà kêu lên tên của người đã chết:
"He croaks of my dead brother still" (Nó vẫn kêu tên người anh trai quá cố của
tôi)(32).
Trong quá trình sáng tạo, ảnh hưởng từ những tác phẩm khác là đương
nhiên, vấn đề là ở chỗ tác phẩm đó đạt đến mức độ thành công nào. Con
quạ đã trở nên nổi tiếng ngoài sức tưởng tượng của tác giả, bài thơ này đã làm
lu mờ những tác phẩm cung cấp chất liệu cho Poe khi sáng tác nó. Bài tiểu
luận Triết lý về soạn tác đi đôi với Con quạ cũng được đánh giá rất cao. Tuy
nhiên cũng không ít người hoài nghi rằng liệu tất cả những gì Poe viết ra
trong Triết lý về soạn tác là hoàn toàn trung thực? Thậm chí Jorges Luis
Borges đã đưa ra nhận xét khá cực đoan: "Edgar Poe muốn chúng ta tin rằng
ông đã viết một bài thơ lý trí. Nhưng chỉ cần nghiên cứu chủ đề của bài thơ kỹ
hơn một chút, chúng ta sẽ nhận thấy điều đó là giả. Edgar Poe hoàn toàn có
thể thực hiện được ý tưởng sáng tác một cách duy lý của mình nếu chọn một
gã dở hơi hay một người say rượu thay cho con quạ. Khi đó chúng ta sẽ có
một bài thơ khác hẳn và khó giải thích hơn"(33). Sự thực đến đâu chắc chỉ có
Poe biết rõ. Theo cách suy luận thông thường thì thời gian viết bài tiểu luận
này phải khá lâu và Poe có điều kiện suy ngẫm nhiều trước khi đặt bút. ở đây
trí nhớ đóng vai trò quan trọng. Còn bài thơ Con quạ trước đó được sáng tác
nhanh hơn rất nhiều. Khi ấy ý thức và vô thức cũng như trí tuệ và cảm xúc
cùng hoà quyện và bùng nổ mạnh mẽ và khó mà tách bạch được như những
gì Poe đã bầy ra cho chúng ta. Cho dù Poe đã "biên tập" lại rất kỹ phần ký ức
liên quan đến quá trình soạn tác bài thơ thì những kinh nghiệm sáng tác của
ông vẫn vô cùng quý giá. Triết lý về soạn tác giảm bớt rất nhiều gánh nặng cho
những ai nghiên cứu sâu những tác phẩm của Poe. Ông ra đi đột ngột ở tuổi
bốn mươi nhưng đã kịp giải đáp khá nhiều câu hỏi cho bạn đọc thời đó cũng
như bây giờ.

Một lần nữa trở lại với thơ Hàn Mặc Tử, cũng là một thiên tài bạc mệnh đã để lại
những bài thơ vô song trác tuyệt. Khi bài Đây thôn Vĩ dạ của ông được đưa ra
giảng dạy có khá nhiều sinh viên thắc mắc nhân vật trong câu thơ "Lá trúc che
ngang mặt chữ điền" là ai? Người đó là đàn ông hay đàn bà? Đại đa số ý kiến cho
rằng người ấy phải là phụ nữ nhưng nếu là phụ nữ thì tại sao lại "mặt chữ điền"?
Và người đó có phải là một trong những người tình cũ của nhà thơ? Cho đến giờ
vẫn chưa có câu trả lời nào thật thoả đáng. Rất có thể nếu Hàn Mặc Tử sống lâu
hơn hay trước khi qua đời ông dành thời gian viết một bài tiểu luận về quá trình
sáng tác Đây thôn Vĩ dạ thì câu hỏi này sẽ được sáng tỏ. Biết đâu đó chỉ là một
hình ảnh mập mờ nhằm tăng thêm sức ám gợi cho khổ thơ. Hai từ "chữ điền" lạ
lẫm kia được sử dụng vì thứ nhất đứng về mặt thi luật nó rất phù hợp về thanh
âm cũng như vần điệu. Thứ hai một gương mặt chữ điền ẩn sau lá trúc sẽ khơi
gợi cho bạn đọc không biết bao nhiêu liên tưởng (Đàn ông hay đàn bà? Xa lạ hay
thân quen? Đẹp đẽ hay tầm thường? ). Nó là một điểm nhấn đậm nét trong cái
không gian "nắng hàng cau" và khu vườn mướt "xanh như ngọc". Nó thật ấn
tượng, thật độc đáo vì chưa một ai trong thơ lại mạnh dạn đặt gương mặt "chữ
điền" ẩn sau lá trúc vào một khung cảnh đẹp đẽ nên thơ đến thế. Những lời bình
tán như thế này sẽ còn tiếp tục mãi vì Hàn MặcTử đã qua đời lâu rồi. Chẳng một
bút tích nào hé lộ manh mối về khuôn mặt chữ điền ẩn lận và xa lạ. Người chịu
thiệt thòi nhất chính là độc giả, nhưng cũng không hẳn vậy, đôi khi một câu đố lơ
lửng trong tác phẩm nghệ thuật cũng góp phần thổi bùng lên "niềm lạc thú tức thì
mạnh mẽ nhất, cao hứng nhất, và thuần khiết nhất" khi chúng ta thả hồn chiêm
ngưỡng cái Đẹp. Và khi ai đó còn tự hỏi có bao nhiêu phần là sự thật trong tiểu
luận Triết lý về soạn tác cũng có nghĩa là ngưòi đó đã "bị" hoặc là "được" nhấn
chìm vào một trong muôn vàn góc khuất mờ tối của văn bản và ngôn từ./.

×