Liên văn bản - sự xuất hiện
của khái niệm về lịch sử và lý
thuyết của vấn đề
Trong tiểu thuyết Bãi lầy (1983) của Graham Swift một trong những “đại lịch sử” (thuật ngữ
của Lyotard) - tư tưởng về sự tiến bộ lịch sử, cũng bị bóc trần. Swift cho thấy vào thế kỷ
chiết trung toàn thể như hiện nay những siêu tự sự lớn đang tan rã và vỡ ra thành các truyện
kể-lịch sử nhỏ, người ta thích những sự kiện cục bộ hơn là những chân lý phổ quát. Câu
chuyện được xây dựng theo loạt bài giảng của một thầy giáo phổ thông, trong đó lịch sử xã
hội được thay bằng những chuyện kể về gia đình và thời thơ ấu của nhân vật xen kẽ với lịch
sử vùng đất anh ta sinh ra. Lịch sử được Swift quan tâm ở ba ý nghĩa, cụ thể là: như chuỗi
mắt xích các biến cố có ý nghĩa xã hội, như một lĩnh vực tri thức, và như một thể loại tự sự.
Ba ý nghĩa này đối với Swift có nhiều mặt gần nhau. Lịch sử được biết đến qua sách vở là
xây theo các quy luật của đầu óc con người, các quy luật đó cấp cho nó một hình thức tự sự,
biến nó thành cái kho chứa các huyền thoại và truyện cổ. Lịch sử như một khoa học là công
cụ giải thích hiện thực, nhưng đồng thời cũng là sự xuyên tạc hiện thực. Không phải ngẫu
nhiên mà tất cả các bài giảng đều bắt đầu bằng “ngày xửa ngày xưa”. Những quan điểm như
vậy gần gũi với quan niệm của nhà giải cấu luận người Mỹ F. Jamson
(4)
, người coi tự sự là
“hình thức vô nội dung”, giống như các phạm trù thời gian và không gian của Kant, được ý
thức con người chụp lên dòng chảy phi định dạng của hiện thực. Tự sự không chỉ tái hiện
mà còn tái tạo thế giới.
Điều này không dẫn nhân vật của Swift đến chỗ từ bỏ sự diễn giải thế giới nói
chung, đến sự ham thích tất cả những cái gì phân mảnh, ngẫu nhiên và phi lý, như thường
hay diễn ra trong các tác phẩm hậu cấu trúc. Nhân vật khuyên các học trò kiên trì tiếp tục
tìm kiếm chân lý, gắng tìm ra cái chung trong cái riêng, cái cục bộ, nắm bắt cho được
những giá trị vĩnh hằng trong dòng chảy của thời gian. Vùng đầm lầy Fenz trở thành biểu
tượng vật chất của kinh nghiệm con người như một không gian trống trải mà trên phần lớn
diện tích ở đó chẳng có gì xảy ra, còn việc khai khẩn mảnh đất đó, việc khơi nguồn nước ở
đó là mô hình của lịch sử loài người được thúc đẩy bởi nhu cầu biến cái hoang dại và hỗn
độn thành quy củ, tổ chức. Swift đưa ra tư tưởng về sự tuần hoàn của kinh nghiệm cá nhân
và kinh nghiệm lịch sử như sự quay trở lại tất yếu của cái đã mất để đối lập với mô hình
tiến bộ theo kiểu tuyến tính của thời Victoria. Chu kỳ tuần hoàn của Swift gồm hai giai
đoạn - hỗn độn và trật tự, và cái sau được ưa thích hơn. Ở đây bộc lộ thái độ phủ định của
nhà văn đối với lý thuyết hỗn độn, với sự tụng ca cái phi lý và điên rồ. Người anh của nhân
vật chính, một kẻ tâm thần, được ông nội và mẹ sinh ra theo ý đồ của họ như là một đấng
cứu thế mới thì đến cuối truyện bị chết đuối, bị dòng nước hung hãn cuốn đi - một biểu
trưng của hỗn độn và phá hủy.
Như vậy khi chấp nhận những quan niệm hiện đại về tính LVB của ý thức và thế giới,
nhiều nhà văn xu hướng phi hậu hiện đại vẫn giữ niềm tin vào con đường cứu vớt nó như
trước đây. Khi trình bày thế giới như tổ hợp của các văn bản và đưa việc “đọc văn bản” làm
thành đề tài chính các tác phẩm của mình, họ khẳng định là có thể đọc đúng nó một cách
duy nhất. Trong các tác phẩm nêu trên, LVB theo nghĩa quen thuộc của nó, tức như định
tính của văn bản vĩ mô bao gồm ý thức, thế giới và các cấu trúc mô tả, hiện ra như đối tượng
phản ánh và trường vấn đề, như trạng thái và cách nhìn nhận phổ quát và duy nhất có thể có
về thế giới. Chính sự khác biệt của các chủ điểm tư tưởng đã cho phép phân biệt những tác
phẩm kiểu thứ nhất (ở đây gọi ước lệ là kiểu phi hậu hiện đại) là mang tính đối thoại, và kiểu
thứ hai (hậu hiện đại) là mang tính liên văn bản.
Sự khác biệt của những định nghĩa về LVB và nguyên tắc đối thoại là do những sai
khác trong các định hướng thế giới quan chung của M. Bakhtin và J. Kristeva. Nguyên tắc
đối thoại của Bakhtin đòi hỏi “sự đối thoại của các chủ thể”, “sự đối thoại của các tâm thức
hành ngôn”, và ở mỗi phát ngôn có tác giả của mình. Theo quan niệm của Kristeva, liên văn
bản là “chỗ giao cắt của các mặt phẳng văn bản khác nhau”, là “sự đối thoại của các kiểu
viết khác nhau”, còn thay cho tác giả của mọi phát ngôn là người ghi có khả năng xáo trộn
những văn bản có sẵn với nhau. Đối thoại của Bakhtin
(5)
- đó là đối thoại của các giá trị, các
nhãn quan, nó mang tính tư tưởng; trong quan niệm của các nhà hậu cấu trúc luận, tác giả
của các phát ngôn mang theo mình không phải các tư tưởng, ấn tượng, tình cảm, mà một
cuốn từ điển khổng lồ. Đối thoại của Bakhtin có tính xã hội nhờ mối liên hệ với người nhận
và với văn cảnh có trước của việc thảo luận đối tượng. Như vậy, các quan hệ ý nghĩa nằm
trong đối thoại của Bakhtin là quan hệ ngữ nghĩa; còn với LVB nghĩa được hình thành do sự
biến cải các mã văn hóa khi chuyển từ một hệ thống ký hiệu này sang một hệ thống ký hiệu
khác, tức là sự hình thành nghĩa diễn ra nhờ semiosis. Sự thể hiện tư tưởng và ý nghĩa ở
Bakhtin được thay bằng “sự biểu thị”, “tính năng sản của sự viết” (Kristeva), với sự ly gián
tuyệt đối cái được biểu đạt và cái biểu đạt. Trật tự thứ bậc của ý nghĩa ở Bakhtin nhường chỗ
cho trò chơi hàm hồ của các ký hiệu, cho sự tương đối hóa ý nghĩa, cho trạng thái bất định
và phi trật tự. Tư tưởng về sự không cạn kiệt ý nghĩa của phát ngôn trong đối thoại ở
Bakhtin được thay bằng tư tưởng về mâu thuẫn tất yếu phải có của văn bản và về tính sai
lầm không thể tránh khỏi của việc đọc. Vậy là đối thoại chuyển thành sự bất hòa âm, sự lẫn
lộn hỗn loạn giữa “Tôi” và “Kẻ khác”, giữa văn bản và văn cảnh, của mình và của người,
giữa các kiểu diễn ngôn, nhân vật, tác giả và độc giả khác nhau. Sự phân tán (entropy) được
thể hiện không chỉ ở nội dung, mà cả ở hình thức ngay trong chính lôgic của kết cấu tác
phẩm – cái lôgic ấy trở thành một thứ “cận lôgic” (paralogic), theo định nghĩa của Lyotard.
Điều khẳng định của Bakhtin rằng chỉ có lời của Adam là không mang tính đối thoại cho
phép nhiều người nghĩ: dường như tính chất có mặt ở khắp nơi của nguyên tắc đối thoại của
Bakhtin làm ông xích gần với LVB. Nhưng ý chí của Bakhtin muốn giới hạn lĩnh vực hoạt
động của các quan hệ đối thoại (tính độc thoại của các tiểu thuyết của L. Tolstoi, của các tác
phẩm thơ, các diễn ngôn khoa học) và giới thuyết về các tiêu chí của tính đối thoại đã chứng
tỏ điều ngược lại.
Những tác phẩm nói ở phần trên có tính đối thoại là so với các văn bản trước đó và có
tính LVB là về hệ vấn đề, chứ không phải do bản chất tư tưởng-nghệ thuật của mình. Chúng
cũng có tính đối thoại (luận chiến) với tính LVB được hiểu như là hình ảnh thế giới. Sự khác
biệt giữa việc lý giải theo cách đối thoại và lý giải theo cách liên văn bản đối với các văn bản
có trước có thể được minh họa bằng tiểu thuyết Từ nay và vĩnh viễn (1992) của G. Swift
và Âm nhạc Anh (1992) của P. Ackroyd.
Người kể truyện của Swift bắt đầu câu chuyện sau vụ tự sát không thành, anh ta tìm
cách giải thích quá khứ của mình và lập luận về ý nghĩa của việc sống tiếp sau khi được cứu
sống ngoài ý muốn. Đó là một nhà ngữ văn làm việc của nhà sử học phục hồi tiểu sử của
một tác giả viết hồi ký sống ở nước Anh thời Victoria. Xuất hiện nhiều giả thiết và nhiều
cách lý giải vừa rất thuyết phục vừa bác bỏ nhau. Swift chơi trò chơi trí tuệ của cái có thể và
cái không thể, nhưng đề tài chính của cuốn tiểu thuyết nằm ngoài phạm vi văn bản: giá trị
của cái vĩnh viễn và cái hiện tại, vật thật (“a real thing”) và những cái thay thế nó
(“substitues”). Các nhân vật của các cốt truyện bên trong và bên ngoài bị đặt vào tình trạng
thử thách: tác giả viết hồi ký thời Victoria mất niềm tin vào Chúa, còn người kể truyện - mất
niềm tin vào người phụ nữ yêu quý. Theo cách xác định của Swift, cả hai người này đều
thuộc về kiểu nhân vật Hamlet; tức là trong một thế giới đã mất đi những định hướng phổ
quát và những giá trị tuyệt đối, trong một thế giới “liệu anh có thích được không” họ vẫn
trung thành với những Câu Hỏi Lớn (Big Questions), dù đó là danh dự, phẩm giá, đức tin
hay tình yêu. Sự mất mát giá trị cũng bằng như là mất mát cuộc sống. Hình dáng Hamlet
xuất hiện ngay ở những trang đầu cuốn tiểu thuyết: hóa ra, người kể truyện luôn luôn đồng
nhất mình với Hamlet, điều này càng được thúc đẩy hơn do sự trùng hợp của hai hoàn cảnh
sống (cái chết bí ẩn của ông bố, người dượng là tình địch của bố). Nhân vật của Swift cảm
nhận Hamlet đầy tính riêng tư (“một cách nào đó chàng đã trở thành một bộ phận của mỗi
chúng ta”) - đó không phải là một nhân vật văn học, mà là một nhân cách phức tạp mang
kinh nghiệm bi thảm. Thái độ của nhân vật đối với Văn Học như là “ngôn ngữ, tiếng nói của
trái tim”, cái thái độ mà chính ta gọi là xưa cũ rồi, cũng giúp anh ta bước vào cuộc đối thoại
cá nhân với nhân vật của Shakespeare. Hamlet có ý nghĩa quan trọng đối với nhân vật của
Swift trước hết là ở tư cách người mang những giá trị xác định, hơn thế - như hình mẫu để
noi theo. Anh ta từ chối thỏa hiệp với cuộc sống (trong hoàn cảnh của anh ta điều đó nghĩa
là thỏa hiệp với những vật “thay thế” - với bố dượng, với người phụ nữ không yêu), bởi vì
người anh hùng của anh ta không làm thế.
Trong tiểu thuyết Âm nhạc Anh của P. Ackroyd sự giải thích các văn bản có trước lại
hoàn toàn khác. Tác phẩm chứa đựng một khối lượng lớn các văn bản của văn học Anh mà
theo ý kiến tác giả chúng là tiêu biểu nhất cho tinh thần dân tộc, hay theo định nghĩa của
Ackroyd, cho “âm nhạc Anh”. Cách đưa các văn bản này vào tiểu thuyết được thực hiện
bằng một thủ pháp cốt truyện khá đơn giản: những giấc mơ và một kiểu hoạt động của nhân
vật, người có những năng lực nhập đồng khác thường và có khả năng khi đã nửa mê nửa
tình thì biến được thành nhân vật của các tiểu thuyết nổi tiếng, học được âm nhạc ở các nhạc
sĩ vĩ đại Anh và đi dạo được giữa phong cảnh các bức tranh Anh. So với những giấc mơ thú
vị thì cuộc sống của anh ta hiện ra nghèo nàn, trống rỗng. Như vậy, tính chủ quan của nhân
vật đã bị chìm vào tính LVB, anh ta không được tác giả đặt ra như một cá nhân, mà được
dùng như một khoảng trống để nhào trộn các văn bản vào. Các ranh giới giữa văn bản của
chính Ackroyd, tức là cốt truyện bên ngoài, và những văn bản của truyền thống (những giấc
mơ) được định rõ, song mối dây ý nghĩa giữa chúng không mang tính chất bắt buộc. Ngược
lại, bản thân các văn bản truyền thống được cố ý xáo trộn và “khám phá lại”, ranh giới của
chúng để ngỏ, và chúng tạo nên một văn bản vĩ mô thống nhất. Ngay trong giấc mơ đầu
nhân vật của Ackroyd đã trở thành nhân vật của hai tác phẩm gộp lại - Alice ở xứ thần
tiên của Carroll và Con đường hành hương của Bunyan: một tín đồ Kitô giáo chết chìm
trong hồ nước mắt của mình (đổi chác tình huống với Alice) và khi được cứu thoát thì sung
sướng là đã minh họa thành công dòng Kinh Thánh viết “Những người khóc là người hạnh
phúc”. Thời gian ở đây được tính bằng trang, phong cảnh xứ lạ được ghép bằng những nơi
chốn được mô tả trong các tiểu thuyết khác nhau, còn việc nhân vật tìm kiếm ý nghĩa của
điều xảy ra thì không kết thúc bằng thành công. Từ đó tạo nên hiệu ứng nghịch lý giữa sự
độc thoại của tác giả và những tạp âm thông tin. Tất cả các văn bản của người khác được xử
lý lại theo các khuôn mẫu hậu hiện đại - “sự tự do của nhân vật đối với tác giả”, “hòn đảo-
sách”, “nhân vật được tạo nên từ ngôn từ”, “sáng tạo như là sự hỗn hợp các văn bản có sẵn”,
và mặc dù sự cách điệu khéo léo nhưng các giọng nói của văn hóa vẫn bị giọng của tác giả
tiểu thuyết nuốt mất. LVB xóa bỏ các điều kiện cho tính đối thoại.
Cuốn tiểu thuyết của Ackroyd mang tính luận chiến với một tác phẩm có chung ý
đồ - tiểu thuyết Orlando (1928) của Virginia Woolf. Bản palimpsest, tức văn bản bậc hai
được viết lên trên các văn bản cũ, do Ackroyd tạo ra trái ngược với quan niệm mang tính
lịch sử về truyền thống trong tiểu thuyết của V. Woolf. Cuộc sống của nhân vật
trong Orlandođược xem xét như là sự tồn tại, biến đổi và thể hiện của truyền thống văn
học với những chuẩn mực của nó, với sự đòi hỏi bắt buộc phù hợp với một thời đại nhất
định và một lý tưởng không phụ thuộc vào thời gian và thị hiếu. Bản trường ca
do Orlando tạo nên được viết hàng thế kỷ - từ thời nữ hoàng Elizabeth đến đầu thế kỷ XX.
Cứ mỗi khi do các hoàn cảnh khác nhau mà việc viết bản trường ca bị gián đoạn rồi sang
thời đại văn học khác mới được viết tiếp thì Orlando lại phải có hiểu biết về hoàn cảnh văn
hóa mới. Vậy là “tập bản thảo vĩnh hằng” của Orlando do nó giữ lại được các đặc điểm
riêng của mỗi thời đại văn hóa, chỉ rất gắng gượng mới có thể được gọi là palimpsest.
Một điểm khác nữa giữa tiểu thuyết của V. Woolf và văn bản của Ackroyd là ở chỗ
các thủ pháp LVB được chuyển từ ngoài vào trong, phục vụ cho việc thể hiện thế giới bên
trong của Orlando, gắn với khái niệm tính tinh thần. Nói chung, LVB hiện đại chủ nghĩa
luôn phục vụ cho sự tự thể hiện. Trong bài tiểu luận Văn học hiện đại V. Woolf đã công
kíchGalsworthy Wells và Bennet, gọi họ là các nhà duy vật vì họ chỉ chú ý đến con người
thể xác, trong khi theo ý bà đã đến lúc mô tả tâm hồn con người. Cuốn tiểu thuyết của bà trở
thành bản tiểu sử lý tưởng, tuy hơi huyền ảo của Orlando và là sự khai triển ý thức nhân vật
theo niên đại, trong đó các thời đại khác nhau được phơi bày đồng thời. Tính lịch sử không
chỉ được truyền cho bản thảo, mà cho cả thế giới bên trong của Orlando, điều này bộc lộ
qua các biến cố và các chi tiết đời thường. “Phương pháp” trò chơi của V. Woolf đồng vọng
với phép thông diễn cổ điển của Diltey; để làm sống lại cuộc sống đã mất cần thiết phải
“sống lại nó”, “nhập vào các trạng thái tinh thần của người khác”. Điều này diễn ra được là
chỉ nhờ vào ký hiệu, dấu vết được đưa đến cho cảm giác, tức là nhờ vào đối tượng của đời
sống văn hóa. Cách tiếp cận này mâu thuẫn với những nguyên tắc đồng hiện của LVB.
Bước ra ngoài phạm vi văn học Anh, chúng ta dừng lại ở hai tác giả mà tên tuổi họ rất
có ý nghĩa đối với văn học thế kỷ XX. Sự tiếp nhận mối tương tác của các văn bản trong
truyện ngắn Pière Ménare, tác giả Don Quichotte (1944) của J.L. Borges là có tính lịch sử.
Văn bản trùng sát từng lời một với văn bản của Cervantes, nhưng được viết ra bởi một tác
giả ở một thời khác, tức là được đưa vào một khung cảnh văn hóa khác, do đó có thêm
những nghĩa mới. LVB ở Borges gắn với chủ thể của sáng tạo; văn bản của Cervantes được
đọc khác đi không chỉ nhờ khung cảnh văn hóa mới, mà còn nhờ khung cảnh của sự sáng
tạo riêng, nhờ nhãn quan và những đặc điểm cá nhân của Ménare. Nếu chỉ lặp lại, trích dẫn
những văn bản của người khác thì không thể đạt được sự lặp lại ý nghĩa. Borges cũng chỉ ra
trong truyện ngắn này một phương diện rất quan trọng của LVB, cụ thể là vai trò tích cực
của quá trình đọc, của độc giả, người được quyền đặt văn bản vào một khung cảnh mới,
nghĩa là được quyền đặt ra cho nó những quan hệ văn học khác, và rốt cuộc là đem lại cho
nó một ý nghĩa khác. Tình huống đọc là tình huống sinh ra nghĩa, nhưng đối với Borges điều
quan trọng còn là sự cầm giữ nghĩa, sự nối kết cái của mình và cái của người, điều cho phép
ông tin rằng người đọc Shakespeare trở thành Shakespeare.
Trong tiểu thuyết Quả lắc Foucault (1988) của Umberto Eco, tác giả để cho các nhân
vật được tự do vô hạn trong việc giải thích các văn bản thuộc các truyền thống huyền bí và
bí truyền. Ba nhà biên tập ngẫu nhiên có được một văn bản do các templier soạn trước khi
dòng tu bị chính thức hủy diệt, đó là một sơ đồ mã hóa việc truyền tri thức bí mật vào tương
lai. Các nhân vật của Eco đặt mục đích là lập lại Sơ Đồ, nhưng việc lập lại của họ ngay từ
đầu đã mang tính chất trò chơi, dựa trên nguyên tắc kết hợp tự do các ý nghĩa chứ không
nhằm dựng lại lịch sử. Để tránh những suy luận cá nhân, họ giao việc thiết lập quan hệ giữa
các văn bản cho máy tính, và cũng đưa thêm vào những văn bản ngẫu nhiên như “Mini
Maus - cô dâu của Mikki”, cái đã dẫn tới “phát hiện” thần học về việc Kitô cưới Marie
Magdaline. Vậy là theo logic phi thứ bậc lạ lùng của LVB, các văn bản được viết theo
truyền thống tìm kiếm một tri thức tuyệt đối và thống nhất lại được giải thích đủ kiểu và có
thêm đủ ý nghĩa tùy thuộc vào sự đối chiếu chúng với nhau. Cuốn tiểu thuyết của Eco lại
thành một “thư viện Babylon” gồm những hợp tuyển các văn bản bí truyền, lịch sử các dòng
tu, tuyên ngôn của các hiệp sĩ thuộc dòng tu Rosenkreuzer (Hoa hồng và Khổ ác), phục vụ
cả cho độc giả ngây thơ, theo định nghĩa của tác giả, cũng như cho độc giả sành sỏi có khả
năng thiết lập được các quan hệ mới.
“Thiết lập quan hệ” - đó là khái niệm chủ chốt trong tiểu thuyết của Eco; nhưng quan
hệ cần tìm không phải mang tính logic, mà là tính phức điệu. “Trong hoàn cảnh thiếu niềm
tin thì sự va chạm của hai tư tưởng đều sai lầm như nhau có thể tạo nên một quãng âm thanh
dễ chịu” - người kể truyện nghĩ. Phép siêu hình của quy luật tương ứng trong tri thức truyền
thống, đòi hỏi sự giống nhau của các cấp độ khác nhau của tiểu vũ trụ và đại vũ trụ, được
các nhân vật của cuốn tiểu thuyết biến thành cơ chế giản đơn của sự tương ứng vạn vật với
nhau. Ba chương cuối tiểu thuyết nêu lên ba quy tắc cơ bản của việc lập lại Sơ Đồ: các quan
niệm gắn với nhau theo phép loại suy (khoai tây và táo là theo hình dạng và nguồn gốc cây
trồng, táo và rắn là theo liên tưởng với Kinh Thánh, con rắn và cái bánh rán là theo hình
dạng, bánh rán và phao an toàn, phao an toàn và bộ đồ tắm, bộ đồ tắm và biển, cứ thế cho
đến khi quay lại khoai tây); mọi quan hệ đều vận hành, nghĩa là, tất cả gắn với tất cả. Các
nguyên tắc của “cơ chế tương ứng” vốn mang tính liên văn bản từ gốc giúp xác định các cấp
độ cấu trúc khác nhau của cuốn tiểu thuyết - cơ chế tạo nghĩa, sự xây dựng kết cấu.
Mẫu hình của cấu trúc nghệ thuật đối với Eco là cấu trúc chứa được khả năng chơi trò
ý nghĩa trên nhiều cấp độ. Niềm vui sáng tạo là ở việc tạo ra các cấp độ này và để độc giả tự
do tìm kiếm các quan hệ mới. Các liên văn bản hiển lộ và ẩn ngầm (chẳng hạn, ít ai có thể
biết cuốn tiểu thuyết của Benito Mussolini được đưa vào tác phẩm của Eco) ông gọi là các
“file”, chúng đưa ra sơ đồ công nghệ hoạt động của các liên văn bản và khơi gợi độc giả noi
theo các nhân vật tiếp súc tự do với các văn bản.
Một trong những đề tài của cuốn tiểu thuyết tác giả xác định là “bệnh hoang tưởng
của sự diễn giải”, ngụ ý nhu cầu tìm kiếm sự giải thích duy nhất đúng là bản chất vốn có của
con người. Các nhân vật làm việc lập lại Sơ Đồ đã bị tạo phẩm của mình chi phối đến mức
không còn phân biệt được thực, giả. Không phản ánh lịch sử, Sơ Đồ sản xuất lịch sử: lịch sử
cá nhân của các nhân vật (hai người đến cuối tiểu thuyết là chết, còn người thứ ba đang chờ
chết) cũng như lịch sử của các tổ chức thần bí nắm giữ việc lập lại Sơ Đồ và tưởng mình là
những người tham gia vào đấy. Niềm tin của họ đem lại tính hiện thực cho Sơ Đồ và tái hiện,
theo quan niệm của Eco, cơ chế của mọi niềm tin bắt nguồn từ nhu cầu sâu xa của con người
muốn tìm kiếm một Ý Nghĩa duy nhất biện minh cho tất cả và từ việc con người không có
khả năng nhận lỗi cá nhân về sự chưa hoàn thiện của mình và của thế giới. Bí mật không có
nội dung nên không thể khám phá được, đó là bí mật lý tưởng. Điều bí ẩn được lập ra trong
Sơ Đồ của các nhân vật không có mắt xích cuối cùng, điều này khiến việc tìm kiếm trở
thành bất tận. Theo thường lệ của mình, không có tham vọng độc đáo, Eco đưa ra những ẩn
dụ liên văn bản về tồn tại: thí dụ, nhiều mặt phẳng chồng lên nhau, hay củ hành. “Vũ trụ
được bóc ra như một củ hành khổng lồ vô tận, những củ hành lại gồm toàn những lớp vỏ.
Vũ trụ là củ hành mà tâm ở khắp nơi còn chu vi thì không ở đâu cả” - bằng ẩn dụ này Eco
dẫn độc giả đến “Lĩnh vực của Pascal” của Borges và nhờ sự giúp sức của Borges đưa một
ngữ điệu mới vào lịch sử thế giới.
Trong khi đó, đối với các nhân vật việc lập lại Sơ Đồ, một cách không thấy được, đã
không còn là một trò chơi nữa, và việc tìm kiếm sự thật - hay nói theo cách trong tiểu thuyết,
“hòn đá triết học” - đã cuốn hút họ. Logic liên văn bản được thể hiện hoàn toàn qua miệng
Belbo: “Hãy sống như là Sơ Đồ đang có. Hãy tạo ra hy vọng lớn không thể đánh bật gốc
được, bởi vì nó không có gốc Tôn giáo mà có thể tin được bằng cách không ngừng phản
bội nó Năm lối đi đến một mục đích. Sự nghèo nàn của trí tưởng tượng. Tốt hơn là mê lộ
dẫn đến đâu cũng được mà không dẫn đến đâu cũng được”. Nhưng hắn còn thấy ra một sự
thật khác - Sự Thật viết hoa của việc nhận thức thế giới bằng cách thần hiệp, hòa vào nó.
Việc nhận thức thế giới đòi hỏi phải hoà đồng tuyệt đối với nó, chứ không phải “đọc” nó
theo các biểu tượng và ký hiệu. Khoảng khắc của Sự Thật trong tiểu thuyết được gọi là
“Khả năng biện minh cho cuộc sống và cái chết”.
Theo ý kiến của người kể truyện trong tiểu thuyết, Cazabon, tiểu vũ trụ và đại vũ trụ
là giống nhau, bởi vì cái sau được trí tưởng tượng con người dựng theo mẫu cái trước, vì thế
tri thức thần bí là sai lầm và luôn đưa ta trở lại với thân thể con người (chẳng hạn, phép thần
bí của các con số là dựa trên tương quan số lượng các bộ phận và cơ quan của thân thể).
“Hòn đá triết học” của Cazabon là đứa con trai. Nhưng chính Cazabon biết được khoảnh
khắc Sự Thật Belbo trải qua và mô tả trong nhật ký của hắn; cách giải thích truyền thống về
chân lý như là sự thống nhất thần bí với thế giới là thuộc về người kể truyện.
Nhân vật thứ ba chết vì bệnh ung thư, hắn thấy căn bệnh của mình là sự trừng phạt
cho thái độ coi thường ngôn ngữ và các văn bản. Trước khi chết hắn thấy mưu toan lập lại
Sơ Đồ là sự phỉ báng Quy Luật đã thấm vào toàn bộ tồn tại: sự phá vỡ quy luật ở cấp độ này
kéo theo những xuyên tạc ở cấp độ khác. Cứ thế các tế bào thân thể của Diotavelli mất đi
khả năng phát triển bình thường.
Như vậy, kết thúc của cuốn tiểu thuyết có thể được xem như sự khôi phục các giá trị
truyền thống và lời răn dạy về sự trừng phạt cho thái độ hậu cấu trúc luận đối với ngôn từ,
nhưng cũng là sự so sánh diễu cợt các nhân vật với những nhân vật khác - những nạn nhân
của bệnh hoang tưởng diễn giải. Trường ý nghĩa tự sự thu nạp các quan niệm truyền thống
và liên văn bản về sự thật và đức tin, thế giới và lịch sử, không nghiêng về cái nào. Hệ thống
tư tưởng và giá trị trong tiểu thuyết được xác định bằng tuyên ngôn trò chơi đức tin của
người kể truyện: “tôi tin vào điều đó, nhưng đó không phải là sự thật”, và “đó là sự thật,
nhưng tôi không tin”.
LVB làm cho văn học thế kỷ XX gần gũi với các nền văn hóa kiểu quy phạm vốn không nhằm
đến tác giả cá nhân, mà đến hình mẫu, đến văn bản đã có, hút thu ý chí chủ quan của tác giả.
Văn học cho đến trước chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực vốn là ngôn ngữ từ chương,
tính từ chương của ngôn ngữ đã mang trong nó hình ảnh thế giới và làm khó cái nhìn trực tiếp
về hiện thực, gây khó cho việc nhận thức và tái tạo nghệ thuật đối với hiện thực. “Cái chết của
tác giả”, sự biến tác giả thành một chức năng của văn bản được xây dựng ở điểm giao cắt và
biến đổi của các ngôn ngữ văn hóa, sự văn bản hóa thế giới, tức là khả năng tiếp nhận nó chỉ
thông qua văn bản, đã tạo cơ sở cho việc xích gần văn học đương đại với các nền văn học duy
truyền thống. Nhưng sự khác biệt và sự hiện đại có tính nguyên tắc của quan niệm và hiện
tượng đứng sau nó là ở sự phi thứ bậc hóa các quan hệ văn bản, ở sự phủ nhận các hình mẫu và
quy phạm, ở sự xóa bỏ ranh giới giữa các văn bản (ranh giới niên đại và ranh giới hình thức) và
ở sự tiếp nhận mọi văn bản như là bộ phận của một văn bản vĩ mô to lớn, độc lập với việc tác
giả có ý thức làm theo hình mẫu hay không. Việc đưa vào văn bản vĩ mô các diễn ngôn phi văn
học, và cùng với chúng là các lĩnh vực đời sống được chúng mô tả, tức là sự trùng khít sát sạt
của thế giới và văn bản là đặc trưng cho thế giới quan của thế kỷ XX. Vì thế nên dùng thuật
ngữ “LVB” theo nghĩa đầu tiên của nó - như sự biểu thị hiện tượng văn hóa thế kỷ XX và áp
dụng cho các tác phẩm hiện đại có thể bao gộp các phương diện liên văn bản khác nhau trong
nghĩa gốc của từ ở các cấp độ cấu trúc khác nhau. Việc hiểu hạn hẹp thuật ngữ chỉ như là mối
tương quan cấu trúc của hai hoặc một số văn bản có tác giả hoặc việc chuyển dịch tư tưởng
LVB như là hình ảnh thế giới sang các thời đại khác sẽ gây khó khăn cho việc sử dụng và tiếp
nhận khái niệm này