Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Chính sách quản lý xuất, nhập khẩu giáo dục đại học việt nam trong bối cảnh giáo dục xuyên quốc gia và GATS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 130 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO và bắt đầu lộ trình thực hiện các cam kết GATS, trong đó
giáo dục là 1 trong 12 ngành dịch vụ điều chỉnh bởi GATS mà Việt Nam có cam kết.
Trên thực tế, khi đưa ra bản chào dịch vụ đa phương, mức cam kết của Việt Nam về
dịch vụ giáo dục là khá sâu và rộng đối với giáo dục đại học. Theo đó, ta mở cửa cho
phép các nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường giáo dục đại học trong các
lĩnh vực kỹ thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ, quản trị kinh doanh và khoa học
kinh doanh, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế. Sự hiện diện thương mại của
các cơ sở giáo dục nước ngoài về nguyên tắc là không hạn chế đối với các cơ sở liên
kết kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO, và cũng không hạn chế đối với các cơ sở
100% vốn nước ngoài kể từ sau ngày 1/1/2009.
Trên thực tế, các quốc gia phát triển và có nền giáo dục đại học hùng mạnh
như Mỹ, Anh, Úc, Đức, Nhật, Canada, New Zealand và các quốc gia mới phát triển
như Hàn Quốc, Singapore, Malaysia hay mới nổi như Trung Quốc đã tích cực gia
nhập thị trường xuất nhập khẩu giáo dục đại học sôi động này từ gần hai thập kỷ qua.
Mỗi quốc gia đều có những nét đặc trưng riêng từ việc đàm phán mức độ cam kết
GATS đối với dịch vụ giáo dục và những chính sách đối với hoạt động xuất nhập
khẩu giáo dục. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết về của các học giả
nước ngoài, đặc biệt là Mỹ và Úc xung quanh chủ đề này, cụ thể là vai trò của xuất
khẩu giáo dục đại học với các nước phát triển xuất khẩu giáo dục và những công cụ
chính sách các nước đưa ra nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Đối với các nước mới phát
triển hoặc đang phát triển, việc “nhập siêu” giáo dục đại học là không thể tránh khỏi
ở một giai đoạn phát triển nhất định. Và mỗi nước cũng đã đều có con đường đi của
mình trong việc điều tiết và định hướng nhập khẩu giáo dục, nhằm cân đối dần cán
cân thanh toán xuất nhập khẩu giáo dục và hướng tới xuất khẩu giáo dục ngày một
nhiều hơn.
Ở Việt Nam, mặc dù đã có nhiều cuộc hội thảo, hội nghị, tọa đàm xung quanh
vấn đề những cơ hội và thách thức đặt ra cho giáo dục đại học Việt Nam khi Việt
Nam gia nhập WTO, đã có rất nhiều diễn đàn trên các trang thông tin điện tử thảo
luận về vấn đề này, nhưng đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu nào về


chính sách quản lý xuất - nhập khẩu giáo dục đại học của các quốc gia và bài học cho
Việt Nam, vẫn vắng bóng những nghiên cứu đủ sâu để đo lường những tác động của
WTO/GATS đối với giáo dục đại học Việt Nam một cách định lượng. Nhóm nghiên
cứu nhận định rằng đây vẫn sẽ là một lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ, cần có sự nghiên
1
cứu đồng bộ và quy mô để đưa ra được những bằng chứng cụ thể về tác động của
WTO và GATS, sẽ có thể là tác động tích cực và tiêu cực. Từ đó chúng ta mới có
được các chính sách cụ thể để điều chỉnh hoạt động ngày càng quan trọng này.
Việt Nam có một thị trường giáo dục đại học khá hấp dẫn với các nước xuất
khẩu giáo dục, với trung bình 1,1 triệu học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông hàng
năm. Hệ thống giáo dục đại học trong nước khó đáp ứng được yêu cầu về số lượng
cũng như chất lượng, nhất là đối với nhóm đối tượng có khả năng chi trả. Số lượng
học sinh, sinh viên Việt Nam đi du học nước ngoài ngày càng tăng, đặc biệt là trong
5 năm trở lại đây. Bên cạnh đó, các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục đại học nước
ngoài cũng đang hướng đến xuất khẩu vào thị trường Việt Nam qua phương thức 3
và 4 trong cam kết GATS.
Hàng năm, Việt Nam chi khoảng 800 triệu đô la Mỹ để nhập khẩu dịch vụ
giáo dục đại học từ các nước Mỹ, Úc, Anh, Pháp, Canada, Đức, Nhật, Hàn Quốc,
Nga, Singapore, Malaysia, Thái Lan cho khoảng 50,000 sinh viên Việt Nam du học
nước ngoài. Số tiền này lớn hơn cả chi phí của nhà nước đầu tư cho hệ thống giáo
dục đại học trong nước cho khoảng 1,1 triệu sinh viên.
Việt Nam là quốc gia lớn trong khu vực Đông Nam Á có hiện trạng “nhập
siêu” về giáo dục đại học. Việt Nam hầu như chưa có chiến lược quốc gia về xuất
khẩu giáo dục đại học. Hiện tại, Việt Nam có xuất khẩu giáo dục đại học nhưng rất
nhỏ bé, chủ yếu cho sinh viên Lào, và một số rất ít sinh viên quốc tế theo học các
ngành lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ. Cán cân xuất khẩu giáo dục đại học của ta chỉ đạt
khoảng 1% so với nhập khẩu.
Trong khi đó, nhiều chính sách quản lý hoạt động xuất - nhập khẩu giáo dục
đại học Việt Nam vẫn xem giáo dục đại học không phải là dịch vụ. Hệ thống các định
chế pháp lý chưa đầy đủ và chưa phản ánh hết thực tiễn sinh động của hoạt động xuất

- nhập khẩu này. Cơ chế quản lý còn quá tập trung, quan liêu, xin cho và thiếu hệ
thống giám sát chất lượng một cách hiệu quả.
Vì vậy, việc nghiên cứu về chính sách quản lý “xuất, nhập khẩu” GDĐH là
một yêu cầu cấp thiết nhằm nghiên cứu tư vấn chính sách cho các cấp quản lý và nhà
ra quyết định về các chính sách quản lý “xuất, nhập khẩu” GDĐH theo hướng chất
lượng, hiệu quả, công bằng, đảm bảo quyền lợi người học, và các bên cùng có lợi.
Với mong muốn đó, tác giả cùng nhóm nghiên cứu đã thực hiện đề tài “Chính sách
quản lý xuất, nhập khẩu giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh giáo dục xuyên quốc
gia và GATS”.
2
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về xuất, nhập khẩu giáo dục đai học, về WTO,
GATS, những vấn đề xung quanh việc Việt Nam gia nhập WTO và thực hiện các
cam kết GATS trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo các văn bản pháp quy, các chính
sách của Việt Nam liên quan đến quản lý hoạt động xuất nhập khẩu giáo dục đại học.
- Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn ở trong nước và ngoài nước về xuất nhập
khẩu giáo dục đại học và lựa chọn chính sách quản lý “xuất, nhập khẩu” giáo dục đại học.
- Đề xuất một số kiến nghị về chính sách quản lý “xuất, nhập khẩu” giáo dục
đại học.
4. Cách tiếp cận
Tiếp cận mang tính hệ thống và toàn diện.
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn kinh nghiệm áp dụng chính sách
quản lý “xuất, nhập khẩu” giáo dục đại học trong và ngoài nước.
- Tổng hợp, phân tích, so sánh các chính sách quản lý “xuất, nhập khẩu” giáo
dục đại học Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Lựa chọn chính sách phù hợp trên cơ sở tình hình thực tiễn của Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn, đề tài sử dụng phương pháp tổng
hợp, phân tích, thống kê có chọn lọc kết hợp với phương pháp so sánh kết quả trên cơ
sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Trong quá trình phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như đánh giá
tính khả thi của các đề xuất, đề tài còn sử dụng các công thức toán, các bảng hình để
chứng minh trên cơ sở các số liệu, thông tin sơ cấp (khảo sát thực tế) và số liệu,
thông tin thứ cấp của các nghiên cứu trong và ngoài nước.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chủ yếu nghiên cứu thực trạng của một số nước điển hình trong xuất, nhập
khẩu giáo dục đại học (Mỹ, Úc, Anh, Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ,
Malaysia), tìm ra những nét tương đồng với điều kiện của Việt Nam, làm cơ sở cho
lựa chọn chính sách. Về nghiên cứu thực trạng xuất, nhập khẩu giáo dục đại học Việt
Nam, do điều kiện nghiên cứu khách quan, nhóm tác giả tập trung vào vào nghiên
cứu hoạt động nhập khẩu giáo dục thông qua phương thức 3, 4 (nói chung) và
phương thức 2 (với diện sử dụng ngân sách nhà nước).
7. Nội dung nghiên cứu
(i) Nghiên cứu lý luận
- Các khái niệm và nội dung liên quan đến WTO, GATS, dịch vụ giáo dục,
“xuất, nhập khẩu” dịch vụ giáo dục đai học.
3
- Các văn bản pháp luật, quy định liên quan đến quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu giáo dục đại học của Việt Nam
(ii) Nghiên cứu thực trạng
- Tình hình xuất nhập khẩu giáo dục của một số nước trên thế giới: Mỹ, Úc,
Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Singapore, Malaysia.
- Tình hình xuất nhập khẩu giáo dục của Việt Nam: chủ yếu nghiên cứu về
nhập khẩu giáo dục theo phương thức hiện diện thể nhân, hiện diện thương
mại và tiêu dùng nước ngoài (bằng ngân sách nhà nước).
- Chính sách quản lý xuất nhập khẩu giáo dục đại học của một số nước – bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam
(iii) Đề xuất một số kiến nghị về chính sách quản lý xuất nhập khẩu giáo dục đại
học.
4

Chương 1
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ XUẤT - NHẬP KHẨU GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
TRONG MÔI TRƯỜNG WTO VÀ GATS
1.1 Giáo dục đại học trong môi trường WTO và GATS
1.1.1 Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO
1.1.1.1. Lịch sử hình thành
Tháng 7/1944, khi Đại chiến Thế giới thứ II sắp kết thúc, quân đồng minh sắp
giành được thắng lợi hoàn toàn, tại Bretton Woods (Mỹ) 34 nước đã nhóm họp,
quyết định lập ra Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Lúc này,
hai nhà kinh tế học John Maynard (Anh) và Harry Dexter White (Mỹ) cùng đồng thời
đưa ra đề nghị nên thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (International Trade
Organization - ITO). Ý tưởng của hai nhà kinh tế này là hình thành một thế chân vạc
về kinh tế, tài chính và thương mại cho thế giới sau những cuộc khủng hoảng dữ dội
đã dẫn đến chủ nghĩa phát xít và chiến tranh khốc liệt. Tài chính và tiền tệ sẽ do IMF
chịu trách nhiệm, phát triển kinh tế là phần việc của WB, còn ITO sẽ chịu trách
nhiệm xúc tiến đồng bộ các vấn đề có liên quan đến mậu dịch giữa các quốc gia
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước sau chiến tranh.
Với tôn chỉ bình đẳng trong trao đổi thương mại quốc tế, ITO đã không được
thành lập. Lý do cơ bản là do Mỹ, là quốc gia duy nhất hầu như không chịu ảnh
hưởng bới sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, đã vì quyền lợi của mình phản đối
thành lập ITO mà thay vào đó chủ trương đưa ra một Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại (General Agreement of Tariff and Trade - GATT) và GATT đã được
23 nước thương lượng và ký ngày 23/10/1947, có hiệu lực từ 01/01/1948. GATT
được coi là các quy định tạm thời cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó chủ
yếu bao gồm các hiệp định về giảm thuế quan (thuế nhập khẩu) và những hạn chế
khác đối với tự do thương mại.
Từ khi ra đời GATT đã trải qua 7 vòng đàm phán là: Annecy 1949, Toquay
1951, Geneva 1956, Dilon 1960-1961, Kenedy 1964 – 1967, và Urugoay 1986-1993.
Đáng chú ý là khoảng cách giữa các vòng đàm phán ngày càng lớn và thời gian
thương lượng của mỗi vòng cũng càng dài ra, cho thấy tính phức tạp và quyết liệt của

các chương trình nghị sự ngày vàng tăng lên.
Mặc dù GATT được coi là công ước có tính chất lâm thời, nhưng trên thực tế
với hơn 45 năm tồn tại, trải qua 8 vòng đàm phan, GATT đã trở thành thoả thuận đa
phương then chốt về mậu dịch toàn cầu. GATT đã góp phần vào tự do hoá thương
mại, cắt giảm thuế quan, bãi bỏ những hạn chế về thương mại và chống phân biệt đối
xử về kinh tế trong buôn bán giữa các nước. GATT đã góp phần đáng kể thúc đẩy
5
thương mại quốc tế phát triển. Nhiều nước đã được hưởng những lợi ích to lớn của
GATT, với các mức độ khác nhau, một mặt Mỹ và các nước có nền kinh tế phát triển
rất có lợi, mặt khác các nước kém phát triển thì ít được lợi hơn, thậm chí thua thiệt.
Đầu những năm 1990, đã có nhiều bất đồng (trong khi nguyên tắc hoạt động
của GATT là đồng thuận) trong vòng đàm phán Urugoay. Một số nước phát triển
trong đó có Mỹ muốn đưa vào chương trình nghị sự nhiều vấn đề mới như: trao đổi
dịch vụ quốc tế, quyền sở hữu quốc tế, đầu tư, lao động, môi trường, … một số nước
khác lại đưa ra nhiều vấn đề mới trong quan hệ kinh tế quốc tế phát sinh (sau khi
Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ), trong bối cảnh kết thúc thời kỳ
“chiến tranh lạnh”, xu thế thế giới chuyển từ “đối đầu” sang “đối thoại” và “mở cửa”,
hội nhập quốc tế. Do các cơ chế của GATT không đủ sức giải quyết các tranh chấp,
sứ mạng của GATT đã buộc phải đưa ra thảo luận và xem xét lại.
Do vậy, chỉ mấy tháng sau khi hoàn tất vòng đàm phán Urugoay (15/12/1993),
các nước đã cùng nhau họp tại Marrakesh (Ma rốc) vào ngày 15/4/1994 để ký Định
ước cuối cùng, Định ước Marrakesh, khẳng định kết quả của vòng đàm phán thứ 8,
đồng thời cho ra đời một thiết chế mới tiếp tục GATT và thay thế cho GATT, đó là
Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization - WTO). Quốc hội Mỹ đã
nhanh chóng phê chuẩn WTO. Sự ra đời của WTO đã đánh dấu mốc quan trọng làm
thay đổi quan hệ kinh tế quốc tế, hoạt động thương mại quốc tế phổ biến khắp toàn cầu.
1.1.1.2. So sánh WTO và GATT
WTO chính thức thay thế GATT từ 01/01/1995. So với GATT, WTO có những
điểm khác căn bản như sau:
a) GATT chỉ là Hiệp định, còn WTO là một tổ chức quốc tế. Đây là điểm khác

cơ bản nhất. Từ đó, WTO có một bộ máy hoạt động lớn với nhiều luật lệ của
một tổ chức quốc tế, trong khi GATT hầu như không có.
b) GATT chủ yếu là Hiệp định mang tính thoả thuận đa phương, được lựa chọn.
Còn hầu hết các Hiệp định của WTO là cam kết đa phương, đòi hỏi sự bắt
buộc thực hiện của các thành viên.
c) Các quy định của GATT hầu như chỉ áp dụng với buôn bán hàng hoá, còn của
WTO thì ngoài đối với thương mại hàng hoá còn bao quát cả lĩnh vực thương
mại dịch vụ, đầu tư quốc tế và quyền sở hữu trí tuệ.
d) Hiệu lực xử lý tranh chấp của WTO so với GATT nhanh hơn, linh động hơn
và tính thực thi cũng đảm bảo hơn.
e) Nguyên tắc hoạt động của GATT chỉ là “đồng thuận” còn đối với WTO, ngoài
nguyên tắc đó ra còn kết hợp với cả nguyên tắc bỏ phiếu, thiểu số phục tùng
đa số, mỗi thành viên 01 phiếu.
Thoả thuận của WTO quy định 04 trường hợp bỏ phiếu
6
a) Để thông qua bất kỳ một Hiệp định thương mại đa phương nào (tối thiểu ¾ số
phiếu tán thành).
b) Quyết định của Hội nghị Bộ trưởng cho phép một thành viên nào đó lùi thời
gian thi hành một hiệp định đa phương (tối thiểu 3/4 số phiếu tán thành).
c) Thông qua các điều khoản bổ sung cho các hiệp định đã có (tối thiểu 2/3 số
phiếu tán thành).
d) Quyết định kết nạp thành viên mới của Hội nghị cấp Bộ trưởng (tối thiểu 2/3
số phiếu tán thành).
1.1.1.3. Các quy tắc của WTO
a) Hiệp định:
Để bảo đảm hoạt động thương mại được công bằng, tự do như mục đích đề ra,
các nước thành viên WTO thương lượng để thống nhất ban hành các quy tắc và tuân
thủ các quy tắc đó. Các quy tắc của WTO, được ghi nhận tại các hiệp định của WTO,
là kết quả thương lượng giữa các nước thành viên và đều đã được quốc hội của tất cả
các nước thành viên phê chuẩn.

Hệ thống quy tắc hiện nay là kết quả của Vòng Đàm phán Urugoay từ 1986
đến 1994, qua đó đã điều chỉnh đáng kể Hiệp ước GATT nguyên thuỷ. Hiệp ước
GATT đã trở thành tập quy tắc cơ bản của WTO về thương mại hàng hoá. Vòng Đàm
phán Urugoay đã đặt ra những quy tắc mới điều chỉnh thương mại dịch vụ, sở hữu trí
tuệ, giải quyết tranh chấp và xem xét chính sách thương mại.
Toàn bộ hệ thống quy tắc của WTO hiện nay gồm hơn 60 hiệp định, dài
30.000 trang, chia thành 3 phần cơ bản sau đây:
- Phần 1: những hiệp định cơ bản (GATT, GATS, TRIPS).
- Phần 2: những hiệp định trong từng lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp, dệt
may, hàng không, hàng hải, hạ thấp thuế suất hay chống phá giá v.v….
- Phần 3: lịch trình hay danh sách những cam kết của các thành viên về thuế
quan hay mở cửa thị trường.
Căn cứ vào nội dung các hiệp định, có thể chia thành 5 loại thỏa ước sau đây:
 Thỏa ước về hàng hoá
Từ 1947 đến 1994, GATT là diễn đàn thương lượng về việc hạ thấp hàng rào
quan thuế và các rào cản thương mại khác về hàng hoá. Hiệp định GATT đã đề ra
những quy tắc quan trọng nhất cho việc này, nhất là về nguyên tắc không phân biệt đối xử.
Từ năm 1995, Hiệp định GATT được điều chỉnh đã trở thành hiệp định khung
cho thương mại hàng hoá với những hạng mục điều chỉnh về các lĩnh vực riêng như
nông nghiệp hay dệt và những chủ đề riêng như thương mại nhà nước, tiêu chuẩn sản
phẩm, trợ cấp hay những biện pháp chống phá giá.
7
 Thoả ước về dịch vụ
Các nguyên tắc về thương mại trước đây chỉ áp dụng cho thương mại hàng
hoá, từ 1995 cũng được áp dụng cho thương mại dịch vụ của các ngân hàng, công ty
bảo hiểm, công ty viễn thông, công ty du lịch, mạng lưới khách sạn, công ty vận tải
làm ăn ở nước ngoài. Những nguyên tắc này được ghi nhận trong bản Hiệp định về
Thương mại dịch vụ (GATS).
Các thành viên WTO cũng đã có những cam kết riêng lẻ trong khuôn khổ
Hiệp định nêu rõ những lĩnh vực dịch vụ nào họ đồng ý mở cửa và mức độ mở cửa

cho cạnh tranh của nước ngoài.
 Thỏa ước về sở hữu trí tuệ
Hiệp định về sở hữu trí tuệ của WTO là cơ sở pháp lý cho việc thương mại và
đầu tư về suy nghĩ và óc sáng tạo. Hiệp định quy định cách thức bảo vệ quyền tác
giả, thương hiệu, tên địa phương xác định xuất xứ của sản phẩm, kiểu dáng công
nghiệp và thông tin mật (như bí mật thương mại).
 Thỏa ước về giải quyết tranh chấp
Bản Thoả thuận về Giải quyết tranh chấp quy định rõ thủ tục giải quyết tranh
chấp của WTO. Đây là cơ sở pháp lý cho việc cưỡng chế thi hành các quy tắc của
WTO và do đó bảo đảm cho thương mại được diễn ra thông suốt, công bằng hơn, tự
do hơn.
Khi cho rằng quyền lợi đã quy định tại các hiệp định bị xâm phạm, các thành
viên có thẩm quyền kiện với WTO. Phán quyết sẽ được ban bố bởi các chuyên gia
được đề cử theo thể thức đặc biệt, căn cứ vào việc giải thích các hiệp định và các cam
kết riêng lẻ của các thành viên. Thủ tục hiện nay khuyến khích các thành viên giải
quyết tranh chấp thông qua thương lượng. Nếu thương lượng thất bại, họ sẽ áp dụng
một thể thức được quy định cẩn trọng, qua nhiều giai đoạn, bao gồm cả việc ban bố
phán quyết bởi một uỷ ban chuyên gia và quyền kháng cáo phán quyết về mặt pháp
lý.
 Thoả ước về giám sát chính sách
Tất cả các thành viên đều phải chịu sự giám sát định kỳ. Kết quả giám sát bao
gồm một bản báo cáo của thành viên bị giám sát và báo cáo của Đoàn Thư ký của
WTO. Cơ chế giám sát được đưa ra với mục đích nâng cao tính minh bạch, tạo ra sự
hiểu biết hơn về chính sách thương mại mà các nước đang áp dụng và tác động của
nó. Nhiều thành viên xem việc giám sát là một cách đóng góp ý kiến đối với chính
sách của họ.
b) Phụ lục
8
Có bốn phụ lục của WTO định nghĩa quyền lợi và bổn phận lâu dài của các thành
viên. Cụ thể như sau:

- Phụ lục 1 có ba phần:
o Phụ lục 1A, các Hiệp định Đa phương về Thương mại Hàng hoá, trong đó
có Hiệp định GATT 1994 (GATT 1947 được điều chỉnh bằng nhiều thỏa
thuận không chính thức và hiệp định bổ sung được đàm phán trong Vòng
Đàm phán Uruguay);
o Phụ lục 1B có Hiệp định GATS
o Phụ lục 1C có Hiệp định TRIPS.
- Phụ lục 2 có Thỏa thuận không chính thức về Quy chế và Thủ tục quy định
việc Hoà giải Tranh chấp (DSU) - cơ chế hoà giải tranh chấp thông thường của WTO.
- Phụ lục 3 có Cơ chế Thẩm định Chính sách Thương mại (TPRM), một công
cụ theo dõi chính sách của những nước thành viên.
- Phụ lục 4, Hiệp định Thương mại Đa phương, gồm bộ luật của Vòng Đàm
phán Tokyo chưa được đa phương hoá trong Vòng Đàm phán Uruguay và do đó chỉ
ràng buộc được những nước đã ký vào hiệp định.
Ngoài ra, các Phụ lục từ 1 đến 3 thể hiện những hiệp định thương mại đa phương.
Điều II của WTO nêu rõ là tất cả các Hiệp định có trong ba phụ lục này là một thành
phần của hiệp định WTO ràng buộc mọi thành viên.
1.1.2. Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ - GATS
1.1.2.1. Sự ra đời của GATS
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (General Agreement for Trade and
Services - GATS) là tập hợp đầu tiên và duy nhất những quy định đa biên điều chỉnh
thương mại dịch vụ thế giới. GATS được soạn thảo và đàm phán trong vòng
Uruguay, trong bối cảnh ngành dịch vụ đạt mức tăng trưởng nhanh chóng trong vòng
30 năm qua và đang có thêm nhiều tiềm năng phát triển nhờ cuộc cách mạng thông tin.
Trong 30 năm qua, dịch vụ là lĩnh vực tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế
thế giới; dịch vụ chiếm 60% sản xuất trên toàn thế giới, tạo ra 30% việc làm và
chiếm gần 20% thương mại. Vào đầu và giữa những năm 1980, khi bắt đầu đưa các
quy định về dịch vụ vào hệ thống thương mại đa biên, một số nước đã tỏ ra nghi
ngại, thậm chí còn phản đối. Họ cho rằng một hiệp định như vậy có thể ảnh hưởng
xấu tới khả năng các chính phủ theo đuổi những mục tiêu chính sách quốc gia và hạn

chế khả năng điều tiết của chính phủ. Tuy vậy, hiệp định đã được soạn thảo một cách
hết sức mềm dẻo, cả về mặt quy định chung lẫn những cam kết cụ thể về tiếp cận thị
trường.
9
1.1.2.2. Nội dung chính của GATS
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ bao gồm ba phần: văn bản chính của
hiệp định nêu ra những nghĩa vụ và quy định chung; phần phụ lục bao gồm các quy
định được áp dụng cho các lĩnh vực khác nhau và các cam kết cụ thể của các nước
nhằm đảm bảo mở cửa thị trường nội địa; những chỉ dẫn đối với trường hợp các nước
tạm thời từ bỏ nguyên tắc không phân biệt đối xử, nền tảng của điều khoản tối huệ quốc.
a) Các nghĩa vụ và quy định chung
GATS là Hiệp định điều chỉnh thương mại tất cả các loại dịch vụ được trao
đổi trên thế giới, như các dịch vụ ngân hàng, viễn thông, du lịch, giáo dục, các dịch
vụ chuyên nghiệp Hiệp định cũng định nghĩa 4 phương thức (Modes) trao đổi dịch vụ:
- Phương thức 1: Một nước cung ứng dịch vụ cho một nước khác (chẳng hạn
các cuộc gọi quốc tế), được gọi tên chính thức là “cung ứng dịch vụ qua biên giới” (Croos Boder).
- Phương thức 2: Người tiêu dùng hoặc doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tại một
nước khác (ví dụ như du lịch), được gọi tên chính thức là “tiêu dùng dịch vụ ở nước
ngoài” (Consumtion Abroad)
- Phương thức 3: Doanh nghiệp nước ngoài lập chi nhánh hoặc công ty con tại
một nước nhằm cung ứng dịch vụ tại nước đó (chẳng hạn các giao dịch của ngân
hàng nước ngoài tại một nước), được gọi tên chính thức là “hiện diện thương mại”
(Commercial Presence)
- Phương thức 4: Các cá nhân rời khỏi một nước để sang cung ứng dịch vụ tại
một nước khác (ví dụ như hoạt động của người mẫu thời trang hoặc nhà tư vấn),
được gọi tên chính thức là “hiện diện thể nhân” (Presence of Natural Persons).
b) Đối xử tối huệ quốc (Most Favoured Nation -
MFN)
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc ghi rõ ưu đãi nào đã được dành cho một nước
thì phải được dành cho tất cả các nước khác. Theo MFN thì tất cả các đối tác thương

mại được đối xử công bằng, theo đúng nguyên tắc không phân biệt đối xử.
Trong khuôn khổ của GATS, nếu một nước mở cửa một lĩnh vực cho cạnh
tranh nước ngoài thì nước đó sẽ phải dành cơ hội đồng đều cho các nhà cung ứng
dịch vụ của tất cả các nước thành viên WTO. Nguyên tắc này được áp dụng ngay cả
khi một nước không đưa ra cam kết cụ thể nào về mở cửa thị trường của mình cho
các công ty nước ngoài trong khuôn khổ WTO. Điều khoản tối huệ quốc được áp
dụng cho tất cả các loại dịch vụ, nhưng các nước được phép tạm thời miễn áp dụng
điều khoản này đối với một số ngành đặc biệt.
Khi GATS có hiệu lực, một số nước đã ký trước đó với các đối tác thương mại
những hiệp định ưu đãi về dịch vụ, trong khuôn khổ song phương hoặc giữa một
10
nhóm nước nhất định. Các thành viên của WTO cho rằng cần duy trì các ưu đãi này
trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, các nước tự dành quyền tiếp tục đối xử
ưu đãi hơn đối với một số nước nào đó trong một lĩnh vực dịch vụ nhất định bằng
cách liệt kê các “ngoại lệ đối với nghĩa vụ MFN” đồng thời với các cam kết ban đầu
của mình. Để bảo vệ nguyên tắc tối huệ quốc, các nước đã quyết định ngoại lệ chỉ
được chấp nhận một lần duy nhất và không được bổ sung thêm. Hiện nay các ngoại
lệ đang được xem xét lại như đã quy định và về nguyên tắc với thời hạn là 10 năm.
c) Các cam kết mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc
gia
Kết quả của các cuộc đàm phán chính là các cam kết cụ thể của các nước về
mở cửa thị trường nội địa, và một “danh mục” các ngành sẽ được mở cửa, mức độ
mở cửa đối với mỗi ngành, những hạn chế đối với sự tham gia của đối tác nước ngoài
(được nêu rõ nếu cần), và các hạn chế có thể có đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
(một số ưu đãi được dành cho các công ty trong nước nhưng không dành cho các
công ty nước ngoài). Ví dụ: nếu cho phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động trên
thị trường nội địa, chính phủ một nước nào đó đã đưa ra cam kết về mở cửa thị
trường. Nếu chính phủ đó hạn chế số lượng giấy phép được cấp thì đó chính là hạn
chế mở cửa thị trường. Mặt khác, nếu chính phủ đó tuyên bố các ngân hàng nước
ngoài chỉ có thể lập một chi nhánh duy nhất trong khi các ngân hàng trong nước lại

có thể lập nhiều chi nhánh thì đó được coi là một ngoại lệ của nguyên tắc đãi ngộ
quốc gia.
Những cam kết này được qui định rõ ràng và được “ràng buộc” cũng giống
như các mức thuế quan “trần” trong thương mại hàng hoá, các cam kết trong thương
mại dịch vụ chỉ có thể được thay đổi sau khi đã thương lượng với các nước liên quan.
Do rất khó bị phá vỡ, các cam kết này chính là sự đảm bảo đối với điều kiện hoạt
động của các nhà xuất khẩu nước ngoài, các nhà nhập khẩu trong nước cũng như các
nhà đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ này.
Một điểm đáng lưu ý là các dịch vụ công được loại khỏi hiệp định và không
có qui định nào của GATS buộc các cơ quan công quyền phải tư nhân hoá các ngành
dịch vụ. Trên thực tế, thuật ngữ “tư nhân hoá” thậm chí cũng không tồn tại trong văn
bản của GATS. GATS cũng không cấm độc quyền của nhà nước và độc quyền của tư
nhân về lĩnh vực dịch vụ. Ngoại lệ này tạo thành một cam kết rõ ràng từ phía các
chính phủ thành viên WTO cho phép dùng quỹ công tài trợ cho các dịnh vụ trong
những lĩnh vực cơ bản thuộc trách nhiệm của các chính phủ. Trong hiệp định, các
dịch vụ công được định nghĩa là các dịch vụ được cung ứng không mang tính thương
mại hay cạnh tranh với các nhà cung ứng dịch vụ khác. Các dịch vụ này không chịu
11
sự điều chỉnh của GATS, chúng không được đưa ra đàm phán, và các cam kết về mở
cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia (tức đối xử như nhau đối với các công ty trong và
ngoài nước) không được áp dụng cho các loại dịch vụ này.
Một lưu ý khác là theo cách tiếp cận của GATS đối với các cam kết, các nước
thành viên không bị buộc phải đưa ra cam kết về tất cả các ngành dịch vụ. Một chính
phủ có thể không muốn cam kết về mức độ cạnh tranh nước ngoài trong một ngành
nhất định, bởi họ cho rằng đó là một chức năng cơ bản của chính phủ hoặc vì bất cứ
lý do gì khác. Trong trường hợp này, các chính phủ chỉ tuân thủ những nghĩa vụ tối
thiểu như đảm bảo sự minh bạch trong cách thức điều tiết ngành dịch vụ này và
không được phân biệt đối xử giữa các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài với nhau.
d) Tính minh bạch
Theo GATS, để đảm bảo minh bạch trong cạnh tranh, các chính phủ phải công

bố tất cả các luật, quy định xác đáng và thiết lập các điểm thông tin trong các cơ quan
hành chính của mình. Từ các điểm thông tin này, các công ty và chính phủ nước
ngoài có thể lấy thông tin liên quan đến các qui định điều chỉnh ngành dịch vụ này
hay ngành dịch vụ khác. Các nước thành viên cũng phải thông báo cho WTO tất cả
những thay đổi về qui định điều chỉnh các ngành dịch vụ là đối tượng của các cam
kết để mọi thành viên khác có đủ lượng thông tin cần thiết như nhau.
e) Các qui định
- Khách quan và hợp lý: Do qui định trong nước chính là công cụ tác động và
kiểm soát đối với thương mại dịch vụ, hiệp định quy định chính phủ các nước phải
điều tiết các ngành dịch vụ một cách hợp lý, khách quan và công bằng. Khi đưa ra
một quyết định hành chính tác động đến dịch vụ thì chính phủ cũng phải lập cơ chế
công minh cho phép xem xét lại quyết định này (như thông qua toà án chẳng hạn).
GATS không buộc các nước phải dỡ bỏ mọi quy định trong bất cứ ngành dịch vụ
nào. Các cam kết tự do hoá không làm phương hại đến quyền của các nước được ấn
định những chuẩn mực về chất lượng, độ an toàn hay giá cả cũng như quyền được
đưa ra các qui định nhằm theo đuổi bất cứ mục tiêu chung nào mà họ cho là phù hợp.
Chẳng hạn một cam kết về đối xử quốc gia chỉ có nghĩa là các quy định được áp
dụng như nhau cho các nhà cung ứng trong nước và nước ngoài. Đương nhiên các
nước vẫn có quyền đưa ra các quy định về trình độ chuyên môn của các bác sỹ hay
luật sư và ấn định các chuẩn mực nhằm đảm bảo sức khoẻ và sự an toàn cho người
tiêu dùng.
- Công nhận: Khi hai (hay nhiều) chính phủ ký các hiệp định công nhận hệ
thống chất lượng của nhau (chẳng hạn trong việc cấp giấy phép hoặc chứng nhận cho
các nhà cung ứng dịch vụ), thì GATS quy định rằng họ phải tạo điều kiện cho các
12
thành viên khác được đàm phán với họ về các thoả thuận tương tự. Việc công nhận
hệ thống chất lượng của các nước không được mang tính phân biệt đối xử cũng như
mang tính bảo hộ trá hình. Các hiệp định phải được thông báo cho WTO.
- Thanh toán và chuyển tiền quốc tế: Một khi đã cam kết mở cửa một ngành
dịch vụ cho cạnh tranh nước ngoài thì về nguyên tắc chính phủ không được hạn chế

việc chuyển tiền ra nước ngoài dưới danh nghĩa chi trả cho các dịch vụ đã tiêu dùng
(“giao dịch vãng lai”) trong ngành này. Chỉ có một trường hợp ngoại lệ duy nhất
được quy định trong hiệp định đó là một nước có thể áp dụng các hạn chế khi gặp
khó khăn về cán cân thanh toán, nhưng ngay cả trong trường hợp này thì các hạn chế
chỉ có thể được áp dụng tạm thời và phải tuân thủ những hạn chế và điều kiện khác.
- Tự do hoá từng bước: Vòng đàm phán Uruguay chỉ là bước khởi đầu. GATS
quy định rằng các nước sẽ tiến hành các vòng đàm phán mới. Các vòng đàm phán
này đã được khởi động từ đầu năm 2000 và sẽ tiếp tục nằm trong chương trình đàm
phán phát triển Doha. Mục tiêu chính là thúc đẩy hơn nữa tự do hoá bằng cách tăng
mức độ cam kết ghi trong các danh mục.
f) Các phụ lục
Phụ lục cho các ngành dịch vụ không giống nhau
- Thương mại hàng hoá quốc tế là một khái niệm khá đơn giản: đó là một sản
phẩm được vận chuyển từ nước này sang nước khác. Thương mại dịch vụ thì đa dạng
hơn. Các công ty điện thoại, ngân hàng, các công ty hàng không và các văn phòng kế
toán cung ứng dịch vụ của họ theo các cách rất khác nhau. Các phụ lục của GATS sẽ
giúp chúng ta hiểu được sự đa dạng này.
- Các quy định về di trú đối với tự nhiên nhân: Phụ lục này liên quan đến kết
quả đàm phán về quyền của các cá nhân được tạm thời lưu lại một nước để cung ứng
một dịch vụ. Phụ lục nêu rõ hiệp định không áp dụng cho những người đang tìm
kiếm một việc làm thường xuyên cũng như không được sử dụng như một điều kiện
đã được đáp ứng để xin quy chế công dân, lưu trú hoặc một công việc thường xuyên.
- Dịch vụ tài chính: Sự bất ổn của hệ thống ngân hàng có thể làm phương hại
tới toàn bộ nền kinh tế. Theo phụ lục về dịch vụ tài chính thì các chính phủ có toàn
quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa, chẳng hạn để bảo vệ các nhà đầu tư, người
gửi tiền và người mua bảo hiểm, để đảm bảo tính thống nhất và ổn định của hệ thống
tài chính. Phụ lục cũng quy định rõ hiệp định không áp dụng đối với các dịch vụ
được cung cấp nhằm thực thi quyền lực của chính phủ đối với hệ thống tài chính, ví
dụ như các dịch vụ do các ngân hàng trung ương cung cấp.
- Viễn thông: Ngành viễn thông đóng một vai trò kép, nó vừa là một ngành hoạt

động kinh tế riêng biệt vừa là một thành tố của hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho
13
các hoạt động kinh tế khác (chẳng hạn như việc chuyển tiền điện tử). Theo phụ lục
này, chính phủ các nước phải đảm bảo cho các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài
được sử dụng các mạng viễn thông công cộng mà không phải chịu bất cứ sự phân biệt đối xử nào.
- Các dịch vụ vận tải hàng không: Theo như phụ lục này quy định, các quyền
không lưu và các hoạt động đi kèm với chúng không thuộc phạm vi điều chỉnh của
GATS. Chúng được điều chỉnh bởi các hiệp định song phương. Tuy nhiên phụ lục
cũng nêu rõ GATS sẽ được áp dụng cho các dịch vụ sửa chữa và bảo trì máy bay,
cho việc thương mại hoá các dịch vụ vận tải hàng không và cho các dịch vụ của hệ
thống đặt vé qua mạng. Hiện nay các nước thành viên đang xem xét lại phụ lục này.
1.1.3. Dịch vụ GDĐH trong danh mục các hàng hóa, dịch vụ của WTO
1.1.3.1 Khái quát về dịch vụ
a) Khái niệm
Các hoạt động dịch vụ đang phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Cùng với điều đó,
dịch vụ và những vấn đề liên quan đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Tuy
nhiên cho đến nay, mặc dù khái niệm dịch vụ đã trở nên gần gũi song việc đưa ra một
định nghĩa thống nhất về dịch vụ vẫn còn gặp nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, trong phạm
vi của nghiên cứu này, khái niệm dịch vụ được sử dụng là những thứ tương tự như
hàng hóa nhưng là phi vật chất. Có những sản phẩm thiên về sản phẩm hữu hình và
những sản phẩm thiên hẳn về sản phẩm dịch vụ, tuy nhiên đa số là những sản phẩm
nằm trong khoảng giữa sản phẩm hàng hóa-dịch vụ.
Như vậy, dịch vụ là các sản phẩm do lao động của con người tạo ra, đáp ứng
các nhu cầu khác biệt và ngày càng tăng lên của con người. Khác với các sản phẩm
hàng hóa hữu hình thông thường, dịch vụ có các đặc tính riêng như: (i) Vô hình
(Intangibility); (ii) Tính đồng thời (Simultaneity); (iii) Tính chất không đồng nhất
(Variability); (iv) Không lưu trữ được (Perishability).
Trong nghiên cứu của mình, GS. Châu đã nêu lên khái niệm “Dịch vụ là sản
phẩm của lao động, không tồn tại dưới hình thái vật thể, được tiêu dùng đồng thời

với quá trình cung cấp, nhằm thỏa mãn nhu cầu của sản xuất, của tiêu dùng và sức
khỏe của con người
1
”.
Theo khái niệm trên, trong thực tiễn sinh động của đời sống kinh tế, xã hội có
nhiều ngành dịch vụ như sau:
- Cung cấp điện, nước
- Xây dựng (không kể sản xuất vật liệu xây dựng)
- Thương mại
1
Hoàng Văn Châu (2008), Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ của thành phố Hà Nội đến 2020, Đề tài
NCKH cấp Bộ giáo dục và đào tạo, trang 2
14
- Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng khoán,
- Y tế, chăm sóc sức khỏe, chăm sóc trẻ em
- Giáo dục, thư viện, bảo tàng
- Du lịch, khách sạn, cho thuê nhà
- Thông tin, bưu chính, internet
- Giao thông, vận tải
- Cung cấp năng lượng (không kể khai thác và sản xuất)
- Giải trí, thể thao, đánh bạc, dịch vụ tình dục
- Ăn uống
- Các dịch vụ chuyên môn (tư vấn, pháp lý, thẩm mỹ, v.v )
- Quân sự
- Cảnh sát
- Các công việc quản lý nhà nước
Cũng như trong khu vực sản xuất hàng hóa sản phẩm, nhà cung ứng dịch vụ
cũng áp dụng chiến lược 7P's để Marketing cho sản phẩm dịch vụ, cụ thể là:
- Product: dịch vụ mang đến cho khách hàng là gì?
- Price: giá cả như thế nào?

- Place: hệ thống phân phối, điểm bán dịch vụ như thế nào?
- Promotion: sử dụng các công cụ tiếp thị như thế nào?
- People: con người trong quá trình cung ứng dịch vụ như thế nào?
- Physical evidence: những dẫn chứng xác thực là gì?
- Process: quy trình như thế nào?
b) Đặc tính của dịch vụ
Chúng ta có thể hiểu rõ hơn về khái niệm dịch vụ thông qua các đặc tính của dịch vụ.
- Tính chất vô hình (Intangibility): Không có hình hài rõ rệt, không thể thấy
trước khi mua (tiêu dùng). Tức là dịch vụ có tính không hiện hữu hay còn gọi là tính
vô hình, tính phi vật chất. Sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật thể nên không
thể nhìn thấy, cầm nắm, do vậy người ta không thể biết được chất lượng của dịch vụ
trước khi mua nó và tiêu dùng nó (khác về chất so với việc mua, bán và tiêu dùng hàng
hóa sản phẩm khác). Một bà mẹ không thể biết được chất lượng của dịch vụ trông trẻ
của một nhà trẻ nếu không gửi con tại đó, hay một học viên không thể đánh giá được
chất lượng giảng dạy nếu không trực tiếp tham dự khóa học, Để tìm đến những dịch
vụ có chất lượng thỏa mãn nhu cầu của mình, người tiêu dùng chỉ có thể tìm kiếm các
dấu hiệu chứng tỏ chất lượng dịch vụ cung ứng đó, như thương hiệu, danh tiếng người
cung ứng, biểu tượng, giá cả hay qua sự mô tả về dịch vụ đó của các khách hàng khác
đã tiêu dùng dịch vụ hoặc qua thông tin quảng cáo. Có thể nói, do tính chất “mờ” nên
15
đối với sản phẩm dịch vụ nói chung và dịch vụ giáo dục nói riêng, người tiêu dùng
(bên mua) dễ bị người cung ứng (bên bán) lừa hơn. Hay nói một cách khác, khi tham
gia thị trường dịch vụ, đòi hỏi các bên tham gia phải có tính trung thực hơn, phải có
đạo đức kinh doanh hơn.
- Tính đồng thời (Simultaneity) hay là tính không thể tách rời (Inseparability):
tức là việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời, sản xuất và tiêu dùng dịch
vụ không thể tách rời. Thiếu mặt này thì sẽ không có mặt kia hay tức là việc tiêu dùng
sản phẩm dịch vụ trùng với việc cung ứng dịch vụ. Một dịch vụ được tiêu dùng khi nó
đang được tạo ra và khi ngừng quá trình cung ứng có nghĩa là việc tiêu dùng dịch vụ
ấy cũng ngừng lại. Khi trả tiền (nộp học phí) để theo một khóa học, các học viên phải

theo các lịch biểu do bên cung ứng quy định để có được (ở đây là sự tiêu dùng hay
được dự học) sản phẩm mà mình muốn mua (muốn học). Bên cung ứng dịch vụ
(trường học) lên kế hoạch sản xuất và cung ứng dịch vụ (kế hoạch giảng dạy) và tiến
hành quá trình sản xuất và cung ứng dịch vụ theo các lịch biểu đã thông báo cho người
mua (người học), đảm bảo để bên mua (người học) có mặt để trực tiếp tiêu dùng sản
phẩm dịch vụ mà mình muốn mua. Kết thúc quá trình dạy cũng đồng thời kết thúc quá
trình học. Thiếu một trong hai bên (dạy hoặc học), dịch vụ giáo dục coi như không
được tiến hành.
- Tính không đồng nhất và khó xác định chất lượng (Inconsistency). Chất lượng
các dịch vụ thường khó xác định bởi vì các dịch vụ phụ thuộc vào người cung cấp.
Chất lượng dịch vụ không đồng nhất, nó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ như
người cung ứng, thời gian, địa điểm cung ứng. Ví dụ, chất lượng đào tạo ngoại ngữ của
một trung tâm có thể khác nhau khi nó được giảng dạy bởi những giáo viên có trình độ
khác nhau. Ngay cả khi cùng một người giáo viên giảng dạy, bài giảng có thể thành
công với lớp học này nhưng lại không thành công với lớp học khác do mức độ thành
công của nó không chỉ phụ thuộc vào trình độ của giáo viên mà còn phụ thuộc vào các
phương tiện kỹ thuật trợ giúp và tâm lý của người giáo viên đó ở những thời điểm khác
nhau, trong thực tế, các tranh chấp (khi có sự không hiểu nhau giữa hai bên bán và
bên mua) về giá cả, chất lượng, số lượng, … trong mua bán sản phẩm hàng hóa vật
chất dễ được giải quyết một cách tường minh hơn so với sự việc xảy ra đối với mua
bán sản phẩm dịch vụ, trong đó có giáo dục.
- Tính không lưu trữ được (Inventory). Dịch vụ không thể lưu giữ được, tức là
sản phẩm dịch vụ không thể sản xuất sẵn rồi lưu vào kho chờ tiêu thụ. Dịch vụ không
thể tách rời nguồn gốc, trong khi hàng hoá vật chất tồn tại không phụ thuộc vào sự
vắng mặt hay có mặt nguồn gốc của nó. Tuy nhiên đặc tính này chỉ mang tính tương
đối do một số sản phẩm dịch vụ có thể mang hình thái vật chất như đối với dịch vụ
16
thiết kế thì các bản vẽ là hữu hình và có thể lưu trữ được. Chỉ có kỹ năng cung ứng
dịch vụ là còn lưu lại và không mất đi sau khi đã cung ứng. Sau khi thực hiện một ca
phẫu thuật thành công, bác sỹ không mất đi khả năng phẫu thuật. Sau một bài giảng

thành công, giảng viên không mất đi khả năng giảng bài cũng như kỹ năng sư phạm
của mình Sự thành công của bác sỹ trong phẫu thuật, sự thành công trong bài giảng
của giảng viên tồn tại và hướng tới sự hoàn thiện hơn trong việc lặp đi lặp lại hoạt
động của mình.
c) Phân loại dịch vụ
Trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều cách phân loại dịch vụ khác nhau tùy thuộc
vào các căn cứ để phân loại dịch vụ hay hệ thống thống kê dịch vụ của từng quốc gia
và từng tổ chức kinh tế quốc tế khác nhau.
 Căn cứ vào mục đích cung cấp dịch vụ, có thể phân loại dịch vụ thành:
- Dịch vụ mang tính thương mại: là dịch vụ được cung cấp trên cơ sở cạnh tranh
giữa các nhà cung cấp khác nhau, nhằm vào mục đích thương mại và kinh doanh.
- Dịch vụ công hay dịch vụ của chính phủ: là những dịch vụ được cung cấp trên
cơ sở độc quyền, có tính chất phục vụ của chính phủ, không dựa trên cơ sở cạnh tranh
và không nhằm vào mục đích thương mại và kinh doanh.
 Căn cứ theo cách phân loại theo phương thức thống kê, có thể thấy hiện hay có
nhiều cách phân loại thống kê khác nhau.
- Theo Ủy ban Thống kê của Liên Hiệp Quốc thì dịch vụ được phân loại theo 2
cách: Hệ thống phân loại theo ngành tiêu chuẩn quốc tế (International Standard
Industrial Classification - ISIC) và phân loại các sản phẩm chủ yếu (Central Products
Classification - CPC). Hai cách phân loại này được các quốc gia và các tổ chức kinh tế
quốc tế trên thế giới thừa nhận và sử dụng. Trong đó, cách phân loại theo CPC là hệ
thống phân loại cả hàng hóa và dịch vụ dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế và là hệ
thống phân loại đầy đủ nhất về hàng hóa và dịch vụ. Riêng đối với dịch vụ, CPC chia
các sản phẩm dịch vụ thành 5 nhóm theo loại sản phẩm cuối cùng:
o Tài sản vô hình; Đất đai; Công trình xây dựng; dịch vụ xây dựng;
o Dịch vụ thương mại; dịch vụ chỗ ở; dịch vụ phục vụ ăn uống; dịch vụ vận
tải; dịch vụ phân phối điện, nước, khí đốt;
o Dịch vụ tài chính; dịch vụ bất động sản; dịch vụ thuê và cho thuê;
o Dịch vụ liên quan đến sản xuất và kinh doanh;
o Dịch vụ cá nhân, cộng đồng và xã hội.

17
- Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) phân loại dịch vụ theo Hiệp định chung
về thương mại dịch vụ (GATS). Cách phân loại này khá đơn giản, dễ theo. Trong hệ
thống phân loại dịch vụ theo GATS, toàn bộ lĩnh vực dịch vụ được chia ra 12 ngành
(trong đó gồm 11 ngành đã được xác định, ngành còn lại gồm những phân ngành
không thuộc 11 ngành trên). Mỗi ngành dịch vụ được chia thành các phân ngành và
bao gồm 155 phân ngành. Hệ thống phân loại này cũng chủ yếu dựa trên CPC. Trong
đó, dịch vụ giáo dục được xếp thứ 5 trong bảng phân loại dịch vụ.
- Hiện nay, hệ thống phân loại dịch vụ của Việt Nam dựa trên qui định trong
Nghị định 75/CP của Chính phủ ngày 27/10/1993 gồm có từ phân ngành thứ 7 đến
phân ngành thứ 20 trong tổng số 20 phân ngành cấp 1.
Tuy nhiên, sự phân loại này đã không tính đến các ngành tiện ích và ngành xây
dựng vốn được xếp vào nhóm dịch vụ thương mại theo tiêu chí GATS.
1.1.3.2. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ giáo dục
Theo Từ điển Giáo dục học thuật ngữ giáo dục được định nghĩa là “hoạt động
hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thị
những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và
đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất,
nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động
sản xuất và đời sống xã hội. Đây là một hoạt động đặc trưng và tất yếu của xã hội
loài người, là điều kiện không thể thiếu được để duy trì và phát triển con người và xã
hội. Giáo dục là một bộ phận của quá trình tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội,
mà con người được giáo dục là nhân tố quan trọng nhất, vừa là động cơ, vừa là mục
đích của phát triển xã hội”.
2
Tại điều 2 trong Luật giáo dục
3
có quy định về mục tiêu của giáo dục “Mục
tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, có
thể hiểu, giáo dục là sự tác động có ý thức từ bên ngoài nhằm góp phần hoàn thiện
nhân cách và nâng cao kiến thức cho người học.
Giáo dục đại học là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt
Nam, bao gồm đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ
tiến sĩ (Hình 1.1).
2
Từ điển Giáo dục học, NXB Bách khoa toàn thư, Hà Nội, 2001
3
Luật số 38/2005/QH11 do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 14/06/2005
18
Hình 1.1. Hệ thống giáo dục của Việt Nam
Nguồn: Bộ giáo dục và đào tạo
Trong hệ thống ngành kinh tế Việt Nam, giáo dục đại học được coi là một
ngành kinh tế cấp 4:
Bảng 1.1. GDĐH trong hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3 Cấp 4 Cấp 5 Tên ngành
P Giáo dục và đào tạo
85 Giáo dục và đào tạo
851 Giáo dục mầm non
852 Giáo dục tiểu học
853 Giáo dục trung học
854 Đào tạo cao đẳng, đại học và sau
đại học
8541 85410 Đào tạo cao đẳng
8542 85420 Đào tạo đại học và sau đại học
855 Giáo dục khác
Nguồn: Quyết định số 10/2007/QĐ-Ttg ngày 23/1/2007
Trong hệ thống phân loại dịch vụ của WTO, GDĐH được coi là một phân

ngành dịch vụ, nằm trong ngành dịch vụ giáo dục (là 1 trong 12 ngành dịch vụ).
Bảng 1.2. GDĐH trong hệ thống phân loại dịch vụ của WTO
Ngành Phân ngành Tên gọi
19
5 Dịch vụ giáo dục
A Giáo dục tiểu học
B Giáo dục trung học
C Giáo dục đại học
D Giáo dục người lớn
E Dịch vụ giáo dục khác
Nguồn: WTO,1991, Services Sectoral Classification List
Như vậy có thể thấy, trong tất cả các hệ thống phân loại, GDĐH luôn được coi
là một cấp giáo dục tiếp theo của giáo dục phổ thông.
Bên cạnh những đặc điểm của dịch vụ, dịch vụ giáo dục còn có một số đặc trưng
cơ bản như sau
4
:
- Tính không đồng nhất: Chất lượng dịch vụ thường khó xác định bởi vì dịch vụ
phụ thuộc vào người cung cấp. Ví dụ, chất lượng đào tạo của một trường học có thể
khác nhau khi nó được giảng dạy bởi những giáo viên có trình độ và khả năng sư
phạm khác nhau. Ngay cả khi cùng một giáo viên giảng dạy, bài giảng có thể thành
công với lớp học này nhưng lại không thành công với lớp học khác do mức độ thành
công còn phụ thuộc vào các phương tiện kỹ thuật trợ giúp và tâm lý người dạy và
người học tại những thời điểm khác nhau.
- Tính xã hội: Giáo dục ngoài việc cung cấp cho cá nhân khả năng suy luận và
kỹ năng cơ bản để đáp ứng với đòi hỏi của thị trường lao động có tính cá nhân, nó
cũng đòi hỏi xã hội cung cấp cho từng cá nhân những giá trị chung về đạo đức cá
nhân, gia đình và xã hội, về nhiệm vụ và quyền công dân, về mức văn hoá tối thiểu
(biết đọc và biết viết). Vì thuộc tính xã hội này mà nhiều nhà nước đòi hỏi mọi công
dân phải được giáo dục ở cấp tối thiểu (tiểu học). Tuy nhiên, càng ở các cấp độ cao

thì thuộc tính xã hội của giáo dục lại càng giảm đi.
- Khả năng tích lũy: Giáo dục là dịch vụ tác động thẳng từ người thầy đến trò,
nhưng người học có thể lưu giữ kiến thức, coi đó là hình thức tích lũy và là phương
tiện có khả năng tạo ra sức lao động có tri thức và hiệu quả cao hơn so với trường
hợp không có nó. Khả năng cao hơn này thể hiện qua thu nhập cao hơn. Như vậy
giáo dục là phương tiện nâng cao năng suất của người lao động trong tương lai. Tri
thức được bồi đắp trong nhiều năm tháng, tức là thông qua quá trình tích lũy, cho
phép con người phát triển thêm khả năng cá nhân cho đến ngày có thể sử dụng để tạo
ra lao động cao cấp hơn. Do đó, có thể nói giáo dục có khả năng tích lũy. Tuy nhiên,
4
Vũ Quang Việt, 2005, Giáo dục tư hay công nhìn từ góc độ lý thuyết kinh tế,

20
càng lên cao thì các kiến thức được trang bị càng có tính ứng dụng cao nên khả năng
tích lũy sẽ bị giảm sút.
- Ngoại ứng tích cực: Giáo dục nhằm đào tạo những người công dân có ích với
cá nhân, gia đình và xã hội. Những người không có học thức, thiếu hiểu biết có nhiều
khả năng sẽ thực hiện các hành vi như trộm cắp, giết người cướp của,… Nhưng một
người có trình độ sẽ đóng góp nhiều cho xã hội, sẽ có những sáng kiến, cải tiến nâng
cao năng suất lao động xã hội. Sản phẩm giáo dục như vậy không chỉ mang lợi cho
cá nhân mà cho cả xã hội, tức là lợi ích xã hội do giáo dục tạo ra luôn luôn lớn hơn
lợi ích cá nhân. Cho nên, nếu để cho thuận mua vừa bán trên thị trường, tức là người
mua phải trả chi phí bằng với chi phí xã hội, mà lợi ích cá nhân lại ít hơn thì có nhiều
người sẽ không mua chúng, sẵn sàng để con em họ vô học, hoặc họ mua ít hơn mức
cần thiết đối với xã hội. Nói theo ngôn ngữ kinh tế, hàng hoá giáo dục có ngoại ứng
tích cực.
- Khó tăng năng suất lao động: Giáo dục có những đặc tính chung với hoạt
động nghệ thuật cao cấp là khó tăng năng suất lao động (bao gồm cả lượng và chất)
của người thày giáo nhanh như tăng năng suất của một cái máy và càng không thể
mở rộng thị trường theo nghĩa tăng số học sinh trên đầu một thầy giáo nếu không

muốn giảm chất lượng giáo dục. Ngược lại, muốn tăng chất lượng giảng dậy mà sự
phát triển kinh tế và khoa học ngày càng đòi hỏi ở mức cao hơn thì phải giảm số học
sinh trên một thầy giáo, tăng số lượng thày giáo với chuyên ngành khác nhau vì thời
đại ngày nay không thể có được một thầy giáo bác học biết đủ mọi thứ.
1.1.3.3 Các yếu tố cấu thành dịch vụ giáo dục
Cũng giống như các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ giáo dục cũng được cấu
thành từ 3 phần chính là con người (human-ware), cơ sở vật chất - phần cứng (hard-
ware) và nội dung chương trình - phần mềm (soft-ware).
- Con người: bao gồm cả giáo viên và cán bộ quản lý. Giáo viên là những
người trực tiếp truyền đạt kiến thức cho sinh viên. Có thể coi, đây là bộ phận quyết
định đến chất lượng dịch vụ giáo dục. Xét về khả năng chuyển dịch thì đây cũng là
bộ phận có khả năng di chuyển dễ dàng giữa các quốc gia. Trước đây, giáo viên có
thể di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác để giảng bài. Hiện nay, nhờ có sự
phát triển của khoa học kỹ thuật mà việc cung cấp bộ phận này có thể được thực hiện
qua mạng. Đây là hình thức cung cấp bài giảng qua mạng, thảo luận trực tuyến hay
video-conference… Bên cạnh đó, một bộ phận không thể thiếu là đội ngũ cán bộ
quản lý. Đây là những người hỗ trợ cho việc truyền đạt kiến thức của giáo viên cho
sinh viên.
21
- Cơ sở vật chất: bao gồm phòng học, các trang thiết bị và điều kiện học tập
khác. Đây là bộ phận không thể thiếu được khi cung cấp dịch vụ giáo dục. Việc
truyền đạt kiến thức của giáo viên chỉ có thể thực hiện được khi có sự hỗ trợ của
phần cứng này và chính điều kiện học tập có ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục.
Tương tự như con người, cơ sở vật chất cũng có thể được cung cấp từ xa thông qua
các phần mềm quản lý giáo dục. Chằng hạn như, để tham gia vào các lớp học trực
tuyến, người học chỉ cần đăng ký một tài khoản và người cung cấp dịch vụ có thể
quản lý tài khoản ở ngay tại địa điểm của mình.
- Nội dung chương trình: Đây là bộ phận không thể thiếu được trong dịch vụ
giáo dục. Nó có vai trò gắn kết các bộ phận tạo thành một chương trình giáo dục
nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội (khách hàng). Mặc dù bộ phận này dường như có

khả năng cung cấp từ xa dễ nhất bởi vì kết cấu chương trình, nội dung các môn
học, không khó có thể tìm kiếm dược. Tuy nhiên, với mỗi lần sử dụng, nội dung
môn học cần được thay đổi cho phù hợp với đặc trưng và nhu cầu của người học.
Điều đó dẫn đến những khó khăn trong việc chuyển giao nội dung chương trình.
1.1.3.4. Các phương thức cung cấp dịch vụ giáo dục đại học
Theo GATS, thương mại quốc tế về dịch vụ nói chung và dịch vụ giáo dục nói
riêng có thể được cung cấp thông qua 4 phương thức như sau:
- Phương thức 1: Cung cấp qua biên giới (Cross border)
Dịch vụ được cung cấp từ địa điểm của người cung cấp dịch vụ đến địa điểm
của người sử dụng dịch vụ. Trong phương thức này, chỉ có dịch vụ được di chuyển
qua biên giới còn người cung cấp dịch vụ thì không dịch chuyển. Người cung cấp
dịch vụ không xuất hiện tại địa điểm của người tiêu dùng dịch vụ đó.
Đối với dịch vụ giáo dục, phương thức này có thể được thực hiện thông qua
các hình thức đào tạo trực tuyến (e-learning) hay đào tạo từ xa (distance-learning).
Người học chỉ cần có điều kiện truy cập Internet (dụng cụ học tập) để tham gia học
còn toàn bộ bài giảng, tài liệu tham khảo sẽ được đưa lên mạng hoặc gửi đến người
học trước khi bắt đầu. Trên thế giới có khá nhiều tổ chức đã thực hiện các khóa đào
tạo qua mạng dưới hình thức này như Viện nghiên cứu Ngân hàng thế giới (World
Bank Insstitute) hay tập đoàn Thompson.
Cũng có trường hợp, khóa học trực tuyến có sự tham gia của một tổ chức tại
địa điểm của người sử dụng dịch vụ. Chẳng hạn, trong khóa học trực tuyến, các buổi
thảo luận được thực hiện dưới hình thức hội thảo trực tuyến (e-conference) từ các
trường ĐH ở nước cung cấp dịch vụ. Trong trường hợp này, chỉ có bài giảng và nội
dung chương trình được cung cấp qua mạng. Ưu điểm của phương thức này là khắc
phục được những hạn chế về cơ sở hạ tầng Internet.
22
Một hình thức nữa của phương thức cung cấp qua biên giới là giai đoạn học
tập trong nước của các chương trình liên kết do các giảng viên trong nước giảng dạy
theo chương trình của trường đại học nước ngoài. Như vậy, trong trường hợp này, chỉ
có nội dung chương trình được cung cấp từ xa. Việc liên kết đào tạo giúp giảm bớt

chi phí đối với người học.
- Phương thức 2: Tiêu dùng ở nước ngoài (Consumption abroad)
Hình thức này liên quan tới các dịch vụ được tiêu dùng bởi người sử dụng
dịch vụ tại địa điểm của người cung cấp dịch vụ. Nói cách khác, dịch vụ được cung
cấp cho người tiêu dùng ở ngoài quốc gia mà người tiêu dùng đó cư trú thường xuyên.
Đối với dịch vụ giáo dục, phương thức này chính là hình thức du học nước
ngoài. Theo đó, người học sẽ di chuyển còn toàn bộ 3 bộ phận cấu thành (giáo viên,
cơ sở vật chất và nội dung chương trình) được cung cấp tại địa điểm của nhà cung
cấp. Trong những năm gần đây, phương thức này đã phát triển khá mạnh. Hội đồng
Anh (Britist Council) đã có một nghiên cứu và dự báo đến năm 2020, sẽ có gần 6
triệu người trên toàn thế giới vào học tại những trường đại học không phải ở đất nước
mình. Ưu điểm của phương thức này là đảm bảo được sự nhất quán giữa các bộ phận
nên chất lượng dịch vụ được đảm bảo.
Ngoài ra, do dịch vụ giáo dục được cung cấp trong thời gian dài nên cũng có
những giai đoạn phương thức này được thực hiện trong chương trình đào tạo. Trên
thế giới, nhiều trường đại học có các chương trình trao đổi sinh viên (student
exchange) trong 1 hoặc 2 học kỳ. Nhờ đó, sinh viên có thể tiếp cận được với các nền
văn hóa khác nhau mà vẫn đảm bảo được chất lượng học tập.
- Phương thức 3: Hiện diện thương mại (Commercial presence)
Trong hình thức này dịch vụ được cung cấp bởi người cung cấp dịch vụ của
một thành viên, qua sự “hiện diện thương mại” tại địa điểm của người sử dụng dịch
vụ. Để cung cấp dịch vụ theo hình thức này người cung cấp dịch vụ phải thành lập
một công ty, một chi nhánh, một văn phòng đại diện, hay là một liên doanh, v.v. ở
ngoài nước của người cung cấp dịch vụ.
Đối với dịch vụ giáo dục, đây là trường hợp thành lập các trường đại học của
nước ngoài hay các cơ sở (branch campus) đào tạo 100% vốn nước ngoài. Nhờ đó,
không những tính đồng bộ được đảm bảo mà nội dung chương trình còn có thể được
điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện và nhu cầu từng địa phương. Trường đại học
RMIT ở Việt Nam là ví dụ cho trường hợp này.
- Phương thức 4: Hiện diện của thể nhân (Presence of natural person)

Hình thức này chỉ áp dụng với nhà cung cấp dịch vụ là các thể nhân, trong đó
các thể nhân này sẽ hiện diện trực tiếp ở địa điểm của người sử dụng để cung cấp
23
dịch vụ. Đây là trường hợp cung cấp dịch vụ của những người tự kinh doanh hay
những người làm việc cho các nhà cung cấp dịch vụ
Đối với dịch vụ giáo dục, đây là trường hợp giáo viên sẽ di chuyển đến địa
điểm của người học. Trường hợp phổ biến của phương thức này là hình thức du học
tại chỗ hay còn gọi là liên kết đào tạo. Theo đó, đại học nước ngoài sẽ cử giáo viên
sang giảng dạy còn cơ sở vật chất và quản lý sinh viên do tổ chức trong nước chịu
trách nhiệm. Ngoài ra, còn có hình thức trao đổi giáo viên giữa các trường đại học,
theo đó một số môn học có thể do giáo viên nước ngoài chịu trách nhiệm.
Bảng 1.3: Tổng hợp các phương thức cung cấp dịch vụ giáo dục
Phương thức (Mode) Định nghĩa và ví dụ
1. Cung cấp qua biên giới (Croos
Boder)
Người cung cấp và tiêu thụ không phải di
chuyển (Ví dụ: Giáo dục từ xa)
2. Tiêu dùng ở nước ngoài
(Consumption Abroad)
Người tiêu thụ di chuyển đến nước của người
cung cấp (ví dụ: du học nước ngoài)
3. Hiện diện thương mại (Commercial
Presence)
Người cung cấp lập cơ sở ở
nước ngoài, thường qua đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài (FDI), (ví dụ: Mở Chi nhánh ĐH)
4. Hiện diện thể nhân (Presence of
natural persons)
Người cung cấp tạm thời đến với người tiêu thụ
(ví dụ: giảng viên đi làm việc ở nước ngoài)

1.2. Xuất - nhập khẩu giáo dục đại học
Xuất - nhập khẩu là một thuật ngữ được dùng phổ biến trong khu vực kinh tế,
kinh doanh đối với mọi hàng hóa dịch vụ thông thường. Tuy nhiên, thuật ngữ “xuất
nhập khẩu giáo dục” vẫn là một thuật ngữ còn khá mới mẻ đối với nhiều quốc gia,
đặc biệt đối với các quốc gia đang trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế, từ nền kinh
tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường, trong đó có Việt Nam.
1.2.1. Xuất - nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
1.2.1.1. Xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ
- Xuất khẩu hay xuất cảng, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng
hóa và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là việc bán hàng hóa, dịch vụ cho nước ngoài. Theo điều
28, mục 1, chương 2 luật thương mại việt nam 2005, xuất khẩu hàng hóa là việc hàng
hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên
lãnh thổ việt nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
- Các nhân tố tác động đến xuất khẩu
24
o Khi các nhân tố liên quan đến chi phí sản xuất hàng xuất khẩu ở trong nước
không thay đổi, giá trị xuất khẩu phụ thuộc vào thu nhập của nước ngoài và
vào tỷ giá hối đoái
o Thu nhập của nước ngoài tăng (cũng có nghĩa là khi tăng trưởng kinh tế của
nước ngoài tăng tốc) thì giá trị xuất khẩu có cơ hội tăng lên.
o Tỷ giá hối đoái tăng (tức là tiền tệ trong nước mất giá so với ngoại tệ) thì giá
trị xuất khẩu cũng có thể tăng nhờ giá hàng tính bằng ngoại tệ trở nên thấp đi.
- Xuất khẩu với tăng trưởng kinh tế
Trong tính toán tổng cầu, xuất khẩu được coi là nhu cầu từ bên ngoài (ngoại
nhu). Mức độ phụ thuộc của một nền kinh tế vào xuất khẩu được đo bằng tỷ lệ giữa
giá trị nhập khẩu và tổng thu nhập quốc dân. Đối với những nền kinh tế mà cầu nội
địa yếu, thì xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế,
nhiều nước đang phát triển theo đuổi chiến lược công nghiệp hóa hướng vào xuất
khẩu. Tuy nhiên, vì xuất khẩu phụ thuộc vào yếu tố nước ngoài, nên để đảm bảo tăng

trưởng kinh tế ổn định và bền vững, Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF thường khuyến nghị
các nước phải dựa nhiều hơn nữa vào cầu nội địa.
1.2.1.2. Nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
- Nhập khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng
hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước
ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước.
- Đơn vị tính khi thống kê về nhập khẩu thường là đơn vị tiền tệ (Dollar, triệu
Dollar hay tỷ Dollar) và thường tính trong một khoảng thời gian nhất định. Đôi khi,
nếu chỉ xét tới một mặt hàng cụ thể, đơn vị tính có thể là đơn vị số lượng hoặc trọng
lượng (cái, tấn, v.v )
- Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người cư trú trong nước, vào tỷ giá
hối đoái. Thu nhập của người dân trong nước càng cao, thì nhu cầu tiêu dùng đối với
hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Tỷ giá hối đoái tăng, thì giá hàng nhập
khẩu tính bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu nhập khẩu giảm đi.
25

×