Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Kỳ hoa dị thảo part 5 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 20 trang )

Bạch Công Tấn sưu tầm

Nhiều bộ phận của cây ngọc lan có tác dụng làm thuốc:
Hoa: Thu hái khi mới chớm nở, dùng tươi hoặc phơi sấy nhẹ cho khô. Dược
liệu có vị đắng, cay, tính ấm dùng chữa ho, viêm mũi, xoang.
Chữa ho: Lấy 30 g hấp cách thủy với 40 g mật ong, lấy nước uống.
Chữa đau bụng kinh ở phụ nữ: Ng
ọc lan 20 g, ý dĩ nhân 30 g, hạt đậu ván trắng
30 g, hạt mã đề 5 g sắc uống trong ngày.
Chữa viêm mũi, xoang, có chảy nước mũi: Hoa ngọc lan còn xanh sấy khô
giòn, tán bột mịn đựng vào lọ nút kín, mở lọ để ngửi và hít mạnh để bột thuốc
bay vào mũi, ngày 2-3 lần, rất hiệu quả.
Lá: Dùng chữa viêm phế quản mạn tính ở người già. Lấy lá ngọc lan 30 g, lá
cây dừa 30 g thái nhỏ phơi khô, giun đất đã chế biến 5 g dùng sắc uống.
Ngoài ra, lá ngọc lan (bánh tẻ) rửa sạch, giã nát, đắp chữa mụn nhọt sưng
tấy
Vỏ thân cây: Lấy vỏ thân cây cạo sạch lớp vỏ mỏng bên ngoài, rửa sạch, thái
mỏng, phơi khô, dùng sống hoặc tẩm giấm sao vàng. Lấy 30 g sắc với 400 ml
nước còn 100 ml, uống làm 2 lần trong ngày để chữa sốt, kinh nguyệt không
đều, đại tiện khó.
BS. Hải Diệp


Những phương thuốc bí truyền chữa tăng huyết áp
Cập nhật lúc 10h50" , ngày 03/10/2006
Theo quan niệm của y học cổ truyền (Đông y), tăng huyết
áp là hội chứng thuộc phạm vi các chứng huyễn vựng
(chóng mặt, hoa mắt), đầu thống (nhức đầu), thất miên
(mất ngủ)
Tăng huyết áp có thể do nhiều nguyên nhân như: xơ mỡ
động mạch, bệnh thận, tiền mãn kinh,


Những thể tăng huyết áp theo Đông y
Theo lương y Nguyễn Công Đức (khoa Y học cổ truyền,
Đại học Y Dư
ợc TP.HCM), Đông y quan niệm bệnh tăng huyết áp có những thể
sau: thể can thận hư; thể âm hư hỏa vượng; thể tâm tỳ hư, thể đàm thấp.
Thể âm hư hỏa vượng thường gặp ở người trẻ và phụ nữ lúc "giao thời" - thời

Đo huyết áp là
cách đơn giản
nhất phát hiện
bệnh tăng huyết
áp

Bạch Công Tấn sưu tầm

điểm tiền mãn kinh. Triệu chứng biểu hiện thường là: hoa mắt, chóng mặt, ù
tai, miệng khô, đắng, ít ngủ, mạch huyền sác (mạch nhanh, cứng) và hay cáu
gắt
Nếu trường hợp bệnh thiên về âm hư, thì những triệu chứng sẽ là: chóng mặt,
hoa mắt, hồi hộp, mất ngủ, hay quên, lòng bàn tay bàn chân nóng, m
ạch huyền
tế sác (mạch cứng, nhỏ, nhanh).
Còn nếu thiên về hỏa vượng, thì sẽ bị đau đầu dữ dội, mắt đỏ, táo bón, họng
khô, đầu lưỡi đỏ, mạch huyền sác hữu lực (mạch nhanh, mạnh). Còn tăng
huyết áp thể can thận hư hay gặp ở người lớn tuổi, bị xơ cứng động mạch,
triệu chứng biểu hiện thường là: nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, hoảng
hốt, ít ngủ, hay mê, lưng đau, gối mỏi, miệng khô, mặt đỏ, mạch huyền tế sác
(nếu bệnh thiên về âm hư).
Nếu bệnh thiên về dương hư, sẽ có những triệu chứng: sắc mặt trắng, lưng,
chân, gối yếu mềm, đi tiểu nhiều, liệt dương, di mộng tinh, mạch trầm tế (mạch

chìm, nhỏ). Tăng huyết áp thể tâm tỳ hư hay gặp ở người già có kèm theo
bệnh viêm loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng mãn tính. Triệu chứng biểu hiện
thường thấy: sắc mặt trắng, da khô, mệt mỏi, ít ngủ, ăn uống kém, thường đi
tiêu phân lỏng, đầu choáng, mắt hoa, rêu lưỡi nhợt Nếu mắc bệnh ở thể đàm
thấp (thể này thường gặp ở những người béo phệ, nghiện thuốc lá, uống rượu
nhiều, cholesterol máu cao ), triệu chứng biểu hiện: ngực tức, tim đập mạnh,
khó thở, hồi hộp, chân, tay tê, đầu nhức căng, chóng mặt, hoa mắt, ăn ngủ
kém

Nữ trinh tử

Cổ phương và bí phương chữa trị
Tăng huyết áp sẽ nặng hơn
nếu gặp các yếu tố thuận lợi.
Cần kìm chế bản thân tránh
giận dữ, lo lắng, nghĩ ngợi,
buồn rầu quá mức để tránh
bệnh nặng thêm; sinh hoạt
lao động thường ngày c
ần có
thời gian nghỉ ngơi, thư giãn
hợp lý; t
ập luyện thể dục, các
bài dưỡng sinh nhẹ nhàng,
Bạch Công Tấn sưu tầm

Theo lương y Nguyễn Công Đức, để chữa các
thể bệnh tăng huyết áp, Đông y có những
phương thuốc cổ phương, bí truyền (bí
phương), hay thuốc nam, hoặc kết hợp châm

cứu Nếu bệnh ở thể âm hư hỏa vượng, thì
phép chữa sẽ là tư âm tiềm dương. Bài thuốc cổ
phương cho trường hợp này có tên Thiên ma câu đằng ẩm, gồm các vị thuốc:
thiên ma, chi tử (mỗi vị 8gr), bạch linh, đỗ trọng, ngưu tất, hoàng cầm (mỗi loại
12gr), câu đằng, tang ký sinh, dạ giao đằng, ích mẫu (mỗi thứ 16gr) và 20gr
thạch thuyết minh (vỏ bào ngư). Tất cả đem sắc uống mỗi ngày một thang. Tùy
trường hợp, nếu nhức đầu nhiều thì thêm vào vị thuốc cúc hoa 12gr. Nếu khó
ngủ thì thêm táo nhân 20gr và bá tử nhân 12gr. Nếu bệnh thể âm hư hỏa
vượng mà thiên về âm hư, thì bài thuốc dùng thích h
ợp gồm những vị: trạch tả,
bạch linh, đơn bì (mỗi vị 12gr), sơn thù, hoài sơn (mỗi vị 16gr), kỷ tử, cúc hoa
(20gr mỗi vị) và 32gr thục địa. Đem sắc uống mỗi ngày một thang. Đặc biệt ở
bệnh tăng huyết áp thể âm hư hỏa vượng, Đông y còn có bí phương hiệu
nghiệm đó là bài Kỷ cúc địa hoàng gia giảm, gồm các vị thuốc: kỷ tử, cúc hoa,
sơn thù, đơn bì (mỗi loại 10gr), hoài sơn, quy bản (mỗi loại 16gr), thục địa, đơn
sâm (mỗi loại 20gr) và 30gr mẫu lệ. Tất cả đem sắc uống mỗi ngày một thang.


Hoàng cầm

Nếu tăng huyết áp thể can thận hư, phép chữa bổ can thận âm (nếu âm hư) và
ôn dưỡng can thận (nếu dương hư). Phương thuốc cổ phương chữa trị trong
trường hợp can thận âm hư là dùng bài thuốc: thục địa 32gr, hoài sơn, sơn thù
(16gr mỗi loại), bạch linh, trạch tả, đơn bì (mỗi loại 12gr), đương quy, bạch
thược (mỗi loại 8gr). Nếu là can thận dương hư, thì cũng với bài thuốc như
trên, nhưng gia thêm các vị, ba kích, ích trí nhân, thỏ ty tử (mỗi thứ 12gr) và
16gr đỗ trọng. Và bí phương ở thể này gồm có bài Nhất quán tiên gia giảm, với
những vị thuốc: sa sâm, huyền sâm, sinh địa, câu đằng, hạ khô thảo, hạn liên
thảo, thạch thuyết minh, táo nhân (mỗi vị 16gr), đương quy, mạch môn, kỷ tử,
cúc hoa, trần bì, nữ trinh tử (mỗi vị 10gr) và 6gr xuyên luyện tử. Sắc uống ngày

một thang (nếu can thận âm hư). Nếu âm dương lưỡng hư thì dùng bí phương
Kim quỹ thận khí hoàn gia giảm, với các vị: 32gr thục địa, 20gr câu đằng, cùng
sơn thù, hoài sơn, hải tảo, cúc hoa, tiên liên bì, đan sâm, xuyên khung (mỗi vị
16gr), bạch linh, đơn bì, trạch tả (mỗi vị 12gr) và 4gr nhục quế. Sắc uống ngày
một thang.
phù hợp với sức khỏe mỗi
ngư
ời, giữ tinh thần thoải mái
trước lúc đi ngủ; ăn uống
điều độ, hạn chế rượu, bia,
thuốc lá

Bạch Công Tấn sưu tầm


Bạch linh

Trường hợp tăng huyết áp thể tâm tỳ hư, thì cổ phương có bài Quy t
ỳ thang gia
giảm, gồm: đảng sâm, bạch truật, hoa hòe, tang ký sinh, táo nhân, long nhãn,
ngưu tất (mỗi loại 12gr), hoàng cầm, viễn chí, mộc hương, đương quy (m
ỗi loại
8gr). Sắc uống ngày một thang. Và bí phương trong trường hợp này là bài Ôn
dương giáng áp, gồm: thái tử sâm, đan sâm, bạch linh (mỗi vị 20gr), hoàng kỳ,
phụ tử chế, tiên linh bì, bá tử nhân, trạch tả, táo nhân (mỗi vị 16gr), đào nhân,
sinh khương (mỗi vị 10gr) và 6gr quế chi. Sắc uống mỗi ngày một thang.


Đơn bì


Còn tăng huyết áp thể đàm thấp, thì bài cổ phương, gồm: thiên ma, câu đằng,
ngưu tất, hoa hòe, ý dĩ (mỗi vị 16gr), bán hạ, bạch truật (mỗi vị 12gr), trần bì,
bạch linh (mỗi vị 8gr) và 6gr cam thảo. Sắc uống ngày một thang. Bí phương
trong trường hợp này là bài Giả quyết thất vị thang, với các vị: hoàng kỳ, đại
giả thạch (mỗi vị 30gr), đảng sâm, bạch linh (mỗi vị 16gr), bạch truật, cam thảo
(mỗi vị 10gr), 24gr thảo thuyết minh, 12gr bán hạ, 8gr trần bì. Sắc uống mỗi
ngày một thang. Với những cổ phương và bí phương trên, mỗi đợt trị liệu
thường là khoảng 2 tuần.


Ngài tằm đực trị "yếu sinh lý"
Cập nhật lúc 08h31" , ngày 04/10/2006
Con tằm, ngoài việc cung cấp sợi tơ dệt vải, còn
cho nhiều sản phẩm chữa bệnh như: tằm chín,
tằm vôi, nhộng tằm, kén tằm, phân tằm, đặc biệt
là ngài tằm.

Ngài tằm được hình thành như sau: Khi chín, con
tằm sẽ nhả tơ kết thành kén theo bọc thân mình và
chuyển dần thành nhộng. Đến độ phát triển chín
muồi, nhộng mọc cánh và chân rồi cắn kén chui ra
thàng ngài.

Chỉ ngài tằm đực mới
dùng để trị yếu sinh
lý Ảnh: encarta


Bạch Công Tấn sưu tầm


Ngài tằm, tên thuốc trong y học cổ truyền là tàm nga, có vị mặn, bùi béo, mùi
thơm, tính ấm.
Trong Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh đã dùng ngài tằm chế biến tán thành bột,
cho uống mỗi lần 8g với rượu vào lúc đói để chữa đái buốt do chứng lậu.
Hoặc lấy bột ngài tằm trộn với mật ong, bôi trong miệng chữa chứng "phong
chúm miệng" ở trẻ em gây cứng lưỡi, khóc không ra tiếng. Dùng ngoài: ngài
tằm giã nát, đắp chữa những vết cắn do sau hoặc côn trùng độc.
Để làm thuốc bổ thận, tráng dương, ích tinh đặc trị liệt dương, di tinh, hoạt
động sinh lý yếu, người ta thường chỉ dùng ngài tằm đực, nhất là loại chưa
giao phối.
Nhưng làm thế nào để phân biệt và thu bắt được toàn ngài tằm đực. Qua
nghiên cứu theo dõi, một hiện tượng sinh học lý thú đã được phát hiện là đúng
5 giờ sáng mỗi ngày thì ngài tằm đực đồng loạt cắn kén chui ra và từ 6 giờ
sáng trở đi, ngài tằm cái mới cắn kén chui ra.
Tuy lác đác trong ngày, vẫn có trường hợp cả con đực và con cái cắn kén chui
ra, nhưng hầu như chắc chắn từ 5 giờ đến 6 giờ sáng là có thể thu được toàn
ngài tằm đực. Về hình dáng, ngài tằm đực nhỏ, toàn thân có màu nâu sẫm,
bụng thon, còn con cái to hơn, màu nâu nhạt, bụng phình ra vì mang nhiều
trứng.
Ngài tằm đực đã được xác định chứa chất methyltestosteron (một nội tiết tố
nam) có hoạt tính sinh học cao và tác dụng làm tăng lượng của túi tinh trên
động vật thí nghiệm.
Ngài tằm đực thu được đem vặt cánh, bỏ đầu và chân, rồi phơi hoặc sấy khô.
Khi dùng, đem dược liệu sao vàng. Có thể dùng tươi.
Dược liệu được dùng theo những công thức sau:
- Ngài tằm đực 7 con, sao giòn, tán nhỏ mịn; tôm he bóc vỏ 20g, giã nhuyễn,
hai thứ trộn đều với 2 quả trứng gà. Đem rán hoặc hấp chín. Ăn một lần trong
ngày.
- Ngài tằm đực 100g, dâm dương hoắc 60g, kim anh 50g, ba kích 50g, thục địa
40g, sơn thù 30g, ngưu tất 30g, kỷ tử 20g, lá hẹ 20g, đường kính 40g. Tất cả

thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít cồn 40 độ, càng lâu càng tốt. Ngày uống 3
lần, mỗi lần 30ml trước hai bữa ăn chính và khi đi ngủ.
Ngài tằm đực còn được bào chế với cá ngựa, nhung hươu và nhi
ều vị thuốc bổ
khác có nguồn gốc thực vật như nhân sâm, hà thủ ô, ba kích thành dạng cao
(chiết xuất bằng cồn 70 độ) và viên bao với tên gọi là bipharton có tác dụng
Bạch Công Tấn sưu tầm

tăng trọng và kích thích sinh dục theo Chương trình nghiên cứu kết hợp y học
cổ truyền và y học hiện đại cảu Nhà nước.
Theo DS. Hữu Bảo
Quý ông nên "sợ" cam thảo
Cập nhật lúc 10h30" , ngày 27/10/2006
Cam thảo có mặt trong phần lớn các thang thuốc
Đông y nhờ tác dụng điều hòa vị thuốc, giải độc và trị
bệnh. Tuy nhiên, nam giới nên hạn chế dùng nó vì vị
thuốc này có thể làm suy giảm khả năng tình dục.
Cam thảo có tên khoa học là glycyrrhiza glabra, dùng làm
thuốc dưới dạng rễ khô ngâm nước sôi, dạng trích tinh
lỏng, trích tinh khô.
Cam thảo thường được dùng để phòng ngừa rối loạn tim mạch, điều trị các
chứng viêm loét dạ dày-tá tràng, viêm dạ dày mãn; làm dịu các triệu chứng
viêm khớp và đau thấp khớp; trị đau họng, viêm amiđan, ho, nhiễm virus; ngăn
ngừa các bệnh dị ứng, hội chứng tiền kinh nguyệt; giải độc gan…

Ngoài ra, các nhà khoa học thuộc Đại học New York (Mỹ) đã phát hiện hoạt
ch
ất acid glycyrrhizic (AG) trong cam thảo có khả năng ngăn ngừa virus herpes
kích hoạt dạng ung thư Kaposi sarcoma.


Tuy nhiên, theo nghiên cứu của tiến sĩ Mahmoud Mosaddegh thuộc Đại học Y
khoa Shaheed Beheshti (Iran), hoạt chất AG trong cam thảo làm giảm lượng
nội tiết tố nam testosteron, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống tình dục của nam
giới. Thí nghiệm trên 20 nam giới khỏe mạnh dùng chi
ết xuất 1,3 g rễ cam thảo
khô mỗi ngày (tương đương với 400 mg AG) trong 10 ngày cho thấy, lượng
testosteron giảm đáng kể so với người bình thường. Vì thế, Ủy ban châu Âu
khuyến cáo nam giới không nên tiêu thụ quá 100 mg AG mỗi ngày (tương
đương 0,3 g rễ cam thảo khô).

Ngoài ra, cam thảo còn có một số tác dụng phụ khác như cao huyết áp, nhiễm
độc. Nghiên c
ứu của Đại học Yorshire (Mỹ) cho thấy phụ nữ ăn nhiều cam thảo
(khoảng 0,2mg/ngày) có nguy cơ bị cao huyết áp dẫn đến đột quỵ. Ngoài ra,
việc hấp thu nhiều AG trong cam thảo sẽ gây sụt giảm kali, dẫn đến xương
yếu, dễ gãy.

Chất glycyrrhizine trong cam thảo là nguyên nhân gây ra các tri
ệu chứng nhiễm
độc như nhức đầu, tăng huyết áp, uể oải, giữ nước và natri, tăng bài tiết kali v
à
đôi khi dẫn đến tim ngừng đập. Vì thế, không nên dùng cam thảo khi bị rối loạn
chức năng gan, yếu thận, cao huyết áp, mang thai.


Rễ cam thảo Ảnh:
SGGP


Bạch Công Tấn sưu tầm


Cần thận trọng khi dùng chung cam thảo với thuốc Tây, đề phòng các tương
tác xấu: Phối hợp cam thảo với các thuốc trị bệnh tim thuộc nhóm digitaline và
dẫn xuất có thể làm tăng tính nhạy cảm của thuốc; dùng chung với các thuốc
lợi tiểu có thể gây mất nhiều kali; dùng chung với nhóm corticoid sẽ làm tăng
hoạt tính và tác dụng phụ của thuốc







Rau khúc chữa ho

Rau khúc mọc hoang dại ở khắp nước ta, gồm 2
loại khúc nếp (được dùng làm bánh khúc) và khúc
tẻ. Lá rau khúc có tinh dầu còn được dùng ở dạng
tươi hoặc khô để làm thuốc.
Theo Đông y, rau khúc vị ngọt, tính bình, có công dụng
trị ho, tiêu đờm. Sau đây là một số bài thuốc:
Chữa chứng hen suyễn: Nếu bị lên cơn suyễn thì lấy một nắm rau khúc tươi
rửa sạch vò nát, cho vào niêu đất với một miếng gừng giã dập, đổ vào khoảng
500 ml nước sắc còn 200 ml, chia làm 2 lần uống trong ngày.
Chữa ho, viêm họng: Khi bị ho, viêm họng, sưng amiđan thì lấy rau khúc tươi
rửa sạch nhai dập cùng với vài hạt muối rồi nuốt từ từ cả bã và nước. Ngày
dùng như thế 3-4 lần, rất hiệu nghiệm. Hoặc lấy một nắm rau khúc tươi sắc với
300 ml nước còn 100 ml, chia uống 3 lần trong ngày.
Chữa cảm sốt: Nếu bị cảm sốt, lấy rau khúc đã phơi khô 30 g sắc cùng với
hành và gừng (mỗi thứ khoảng 10 g), chia làm 3 lần uống trong ngày, rất hiệu

nghiệm.
BS. Đỗ Minh Phương




Thương nhĩ tán - bài thuốc hay chữa viêm mũi dị ứng
Cập nhật lúc 14h14" , ngày 24/10/2006

Bạch Công Tấn sưu tầm

Không ch
ỉ thuốc Tây mới giúp bạn thoát khỏi các triệu
chứng khó chịu của viêm mũi dị ứng. Bài thu
ốc cổ nổi
tiếng của Trung Quốc Thương nhĩ tán có hiệu quả tốt
với bệnh này, công thức chỉ gồm 4 vị thuốc dễ kiếm.
Bệnh viêm mũi dị ứng đang có xu hướng tăng do môi trường ngày càng ô
nhiễm. Các thống kê cho thấy cứ 16 người thì một mắc bệnh này. Hơn 6,3%
dân số mắc bệnh này.
Thương nhĩ tán (còn gọi là Thương nhĩ tử tán) là bài thuốc của danh y Nghiêm
Dụng Hoà (Trung Quốc). Thành phần gồm thương nhĩ tử (hạt ké đầu ngựa) 7
g, tân di hoa 15 g, bạch chỉ 30 g, bạc hà 1,5 g. Tất cả sấy hoặc phơi khô, tán
thành bột mịn, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 6 g. Theo cổ nhân, nếu dùng nư
ớc
sắc củ hành và lá trà tươi để uống bột thuốc thì rất tốt.
Thương nhĩ tán có tác dụng làm thông mũi, chống đau đầu, thường được d
ùng
để trị các chứng bệnh về mũi xoang mà Tây y vẫn gọi là viêm mũi dị ứng, viêm
mũi cấp và mạn tính, viêm xoang cấp và mạn tính với triệu chứng chảy nước

mũi, hắt hơi nhiều, ngạt mũi
Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, hạt ké đầu ngựa (thương nhĩ tử) có tác
dụng kháng khuẩn, chống viêm, giảm đau, ức chế miễn dịch, hưng phấn hô
hấp. Bạch chỉ giúp kháng khuẩn, chống viêm, giảm đau, giải nhiệt. Tân di hoa
tiêu viêm, giảm phù nề, chống dị ứng, kháng khuẩn, làm hưng phấn hô hấp.
Còn bạc hà cũng có tác dụng giảm đau, kháng khuẩn, kháng virus, chống vi
êm,
giảm ho, trừ đàm, giảm ngứa và lợi mật.
Ngoài dạng bột truyền thống, Thương nhĩ tán còn được sử dụng dưới hai hình
thức: dùng nguyên bài sắc uống hoặc gia giảm theo thể trạng và tính ch
ất bệnh
lý. Khi sắc, cần cho bạc hà vào sau, còn tân di phải chùi hết lông hoặc cho vào
túi vải để tránh gây ngứa.
Hiện nay, bài thuốc Thương nhĩ tán được sản xuất thành nhiều biệt dược dưới
các dạng hoàn mềm, hoàn cứng, trà tan, cốm thuốc, viên nang , rất tiện lợi
cho bệnh nhân. Có thể kể đến các tên Tỵ viêm hoàn, Tỵ viêm phiến, Tỵ uyên
hoàn do Trung Quốc sản xuất, có gia giảm một số vị thuốc, hoặc viên nang
Fitôrhi-f sản xuất ở Việt Nam, giữ nguyên công thức cổ của Nghiêm Dụng Hòa.

ThS. Hoàng Khánh Toàn
Bệnh viện 108
Ké đầu ngựa - một
trong 4 vị của bài
Thương nhĩ
tán Ảnh: Ucdavis



Hoa Thiên lý - Một loài cây giá trị
Bạch Công Tấn sưu tầm



Cây thiên lý có tên khoa học là Telosma cordata (Burm.f) Merr, thuộc họ
Asclepaadaceae
, thường được trồng làm giàn dây leo làm cảnh cho bóng mát trong
vườn hoặc trước sân nhà ở các nước như Thái lan, Inđônêxia, Malaixia, Trung Qu
ốc,
Việt Nam, một số nước Châu Âu, Châu Phi.

Hoa Thiên lý có nhiều dưỡng chất như 2,9g protein, 2,8g glueid, 3g chất xơ, 52mg
calcium, 53mg phosphor, 1,2mg sắt, 1,17mg tiền sinh tố A, 0,19g sinh tố B1,
0,13mg B2, 1,1mg PP, 48mg sinh tố C và các khoáng chất cần cho cơ thể như calci,
phospho, sắt, kẽm; là thức ăn ngon và bổ dưỡng của người Việt Nam dùng nấu canh
hoa thiên lý với thịt, canh cua thiên lý, thiên lý xào tép, hoa thiên lý chiên giòn.
Ngoài ra, hoa thiên lý còn có giá tr
ị dược học dùng giải nhiệt, an thần, mệt mỏi, đau
lưng

Cây có dạng hình thân thảo, dây leo; hoa mọc thành chùm ở nách lá, trổ hoa vào
mùa hè, tỏa hương thơm vào ban đêm nên còn có tên Dạ lài hương, nước ngoài gọi
là Queen of the night (Hoàng hậu của màn đêm).
Cây thiên lý thích ánh sáng, nhiệt độ thích hợp là 30-35
0
C, sinh sản hữu tính và vô
tính, có thể trồng quanh năm.

Để trồng thiên lý người ta thường chọn hom dây có đường kính 5-10mm, cắt thành
từng đoạn 30-80cm và xử lý thuốc trừ nấm bệnh rồi ươm trong bầu hoặc trong chậu.
Cây thiên lý có thể trồng trong bồn có giàn cho dây leo làm cây cảnh ở trước nhà,
trong vườn hoặc trồng ở ngoài ruộng. Đất trồng cây thiên lý thích hợp là th

ịt pha cát,
đất phải tơi xốp, thoát thủy tốt; nếu trồng ở ruộng phải cày xới cho tơi nhuyễn, lên
líp cao 40cm, rộng 40cm, đào hố kích thước 30x40cm. Để cây thiên lý phát triển tốt
và có hình dáng đẹp, người trồng phải thường xuyên chăm sóc như tưới nư
ớc đủ ẩm,
tỉa bỏ dây nhỏ, lá già, cột dây tạo hình dạng dây leo theo ý thích, chú ý phòng tr
ừ các
loài sâu bệnh như rệp, nấm muội. Trồng thiên lý ngày nay có thể mang lại thu nhập
trên 50 triệu đồng/ha.

Cây thiên lý đã gắn với tình cảm người Việt Nam qua những câu ca dao như
Thương chồng nấu cháo le le, nấu canh hoa lý, nấu chè hạt sen hay lời nhạc Tóc em
dài em cài bông hoa lý, thấy em cười, anh để ý anh thương, đôi ta chung một con
đường, đường đi xây dựng quê hương đẹp giàu (Phạm Thúy Hoan) hoặc kỷ niệm
nào êm êm bằng những chiều bên giàn thiên lý (Hoàng Thi Thơ).
Công dụng của Thiên lý Lá và hoa tươi dùng làm rau nấu canh (mát bổ).
Bệnh viện Thái Bình dùng lá thiên lý chữa các bệnh lòi dom, sa dạ con có
kết quả tốt.
Công dụng của Thiên lý

Bạch Công Tấn sưu tầm

Tên khoa học: Telosma cordata (Burm.f.) Merr. (Aslepias cordata
Burm.f.Pergularia minor Andr., Pergularia odoratissima Weght, Aslepias
odoratissima Roxb), họ Thiên lý (Aslepiadaceae).
Tên khác: Hoa lý – Hoa thiên lý – Dạ lài hương.
Bộ phận dùng: Lá của cây thiên lý (folium Telosmae cordatae).
Mô tả cây: Là cây nhỏ, mọc leo, thân có ít lông, nhất và bộ phận non. Lá hình
tim, thuôn, khía mép khoảng 5 – 8mm về phía cuống, đầu lá nhọn, có lông trên
các gân lá. Phiến lá dài 6 – 11cm, rộng 4 – 7,5 cm, cuống có lông, dài 12 – 20

cm. Hoa thành xim tán, màu vàng nhạt, rất thơm, cuống có lông, to, dài 10 –
12mm, mang nhiều tán lá mọc liền nhau. Quả đại dài 6,5 – 9,5cm, rộng 12 –
14mm.
Thiên lý được trồng nhiều nơi trên đất nước ta nhiều ở miền Bắc, làm hoa cảnh
- Ấn Độ, Malaixia, Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc, Philipin cũng có.
Thu hoạch chế biến: Hái lá tươi chọn những lá bánh tẻ, hoa hái khi sắp hoặc
mới chớm nở.
Thành phần hóa học: Theo Đỗ Tấn Lợi và Ngô Văn Thu thấy trong nhân và lá
thiên lý có alcaloid.
Công dụng: Lá và hoa tươi dùng làm rau nấu canh (mát bổ).
Bệnh viện Thái Bình dùng lá thiên lý chữa các bệnh lòi dom, sa dạ con có kết
quả tốt.
Bài thuốc: Bệnh viện Thái Bình dùng chữa lòi dom.
Lá thiên lý
bánh tẻ
Muối ăn

10g
5g
Giã nhỏ, lá thiên lý với muối. Thêm 30ml nước cất. Vắt lấy nước, dùng nước
này đắp vào dom đã rửa sạch, ngày đắp 2 lần.
Có thể chế tạo thành thuốc mỡ.:
Dung dịch thiên lý (như trên) 10 ml
Vasellin
Lanolin

50g
40g

Cho tất cả vào cối đánh kỹ thành thuốc mỡ. Đánh như trên.

Chữa sa dạ con; cũng làm như trên, nhưng chỉ có hiệu quả với những trường
hợp nhẹ.





Hạt chanh giảm ho, giải độc
Hạt chanh, một dư phẩm thường bị loại bỏ khi sử dụng quả chanh, lại là vị
Bạch Công Tấn sưu tầm

thuốc được dùng khá phổ biến theo kinh nghiệm dân gian
Hạt chanh giảm ho, giải độc

Hạt chanh, một dư phẩm thường bị loại bỏ khi sử dụng quả chanh, lại là vị
thuốc được dùng khá phổ biến theo kinh nghiệm dân gian.

Khi trẻ bị ho, lấy hạt chanh, hạt quất, lá thạch xương bồ mỗi vị 10g, mật gà đen
một cái. Tất cả dùng tươi, giã nhỏ, thêm đường, hấp cơm cho chín rồi uống
làm 2-3 lần trong ngày. Hoặc hạt chanh 10g, lá hẹ 15g, hoa đu đủ đực 15g,
nước 20ml. Các dược liệu đem nghiền nát, hòa với nước rồi thêm mật ong
hoặc đường kính, uống làm 3 lần trong ngày, dùng vài ngày.

Để giải độc chữa rắn cắn, lấy hạt chanh tươi hoặc phơi khô 10-20g nhai nhỏ,
nuốt nước, lấy bã đắp vào vết cắn (đây là kinh nghiệm của nhân dân ở một số
vùng miền núi nước ta và ở một vài địa phương của Ấn Độ). Về cơ chế tác
d
ụng của hạt chanh đối với nọc rắn, theo kinh nghiệm dân gian, những vị thuốc
có chất đắng thường có tác dụng giải độc tốt (chất đắng trong hạt chanh đã
được xác định là lemonin hay pepolimonin). Dùng riêng hoặc phối hợp hạt

chanh 15g, mướp đắng 10 hạt, rễ thạch xương bồ 12g, củ gấu 20g, muối ăn
vài hạt. Tất cả để tươi giã nhỏ, ngâm với 30ml nước sôi trong 10 phút, khuấy
đều rồi chắt hoặc lọc. Người lớn uống làm hai lần cách nhau 20 phút; trẻ em
dưới 15 tuổi uống 1/4 đến 1/3 liều người lớn.

Ngoài ra, hạt chanh vừa tách khỏi múi quả (10-20g) ngâm ngay vào một chén
nước nóng trong vài giờ. Chất nước dính bao quanh hạt sẽ nở và tan ra thành
một dung dịch đặc nhày, thêm đường, uống một lần trong ngày, chữa táo bón.
Cơ chế tác dụng của thuốc là khi vào ruột, chất nhày có tính ưu trương sẽ hút
nước, phồng lên làm cho thể tích tăng lên và tạo ra môi trường thuận lợi cho
sự sinh sản của các trực khuẩn ở ruột, các trực khuẩn này có tác dụng cần
thiết cho sự co bóp của ruột già, làm cho phân thoát ra ngoài một cách dễ
dàng.



Bạc hà chữa bệnh
Cập nhật lúc 09h46" , ngày 31/10/2006

Bạch Công Tấn sưu tầm

Theo lương y Trần Khiết, bạc hà có tính bình, vị hơi
đắng, đi vào tinh kỳ, thận, công dụng giải thử khí,
thấp khí, cầm máu Nếu biết kết hợp bạc hà với những vị thuốc hay thực
phẩm khác trong chế biến món ăn sẽ giúp chữa được nhiều bệnh.

1. Bạc hà nấu gạo tẻ
Thành phần: 1 kg vị thuốc bạc hà tươi và 150 gr gạo tẻ.
Chế biến: Bạc hà rửa sạch, cắt khúc, gạo tẻ vo sạch.
Cho bạc hà vào nồi cùng một lít nước, nấu trong 1 giờ, lọc bỏ bã, lấy nước và

cho nước này lại vào nồi cùng gạo tẻ nấu cháo (nấu lỏng).
Món cháo bạc hà là chữa trị chứng đau nhức đầu, bụng đầy trư
ớng, da nóng ra
mồ, tai ù, chứng phiền táo.
Lưu ý, người thân nhiệt nóng nhiều vào ban đêm không nên dùng món này.
2. Bạc hà nấu kim ngân hoa
Thành phần: 10 gr vị thuốc bạc hà tươi, 100 gr vị thuốc kim ngân hoa, 30 gr
đậu xanh, 10 gr lá tre, một ít gạo và đương cát.
Chế biến: Rửa sạch các nguyên liệu, rồi cho bạc h
à, kim ngân hoa và lá tre vào
nồi cùng hai lít nước, nấu trong 1giờ, lọc lấy nước, bỏ xác. Cho đậu xanh vào
nước này cùng một ít gạo vào nấu đến khi chín, cho vào ít đường.
Chia làm 2-3 lần dùng trong ngày để chữa chứng nhức đầu mỏi toàn thân; đau
đầu, phát sốt, ớn lạnh
3. Bạc hà nấu kinh giới
Thành phần: 3-5 gr bạc hà (vị thuốc bạc hà), 5-10 gr kinh giới, 5-10 gr đậu xị
(loại đậu làm tương Tàu) và 50-100 gr gạo tẻ.
Cách làm: Cho bạc hà, kinh giới, đậu xị vào nồi cùng 3 chén nước, nấu còn
một chén, lọc bỏ xác, lấy nước để đó.
Sau khi nấu cháo bằng gạo tẻ chín thì cho nước này vào, giảm lửa nhỏ nấu
tiếp để cho nước thuốc vào cháo hòa lẫn đều vào nhau.
Chia làm 2 lần dùng trong ngày. Món này có công dụng trị phong hàn c
ảm mạo,
tay chân đau nhức, đau đầu, hắt xì, chảy nước mũi, nghẹt mũi
Lưu ý, người phát nhiệt không nên dùng.


Bạch Công Tấn sưu tầm




8 loại rượu thuốc chữa yếu sinh lý
Cập nhật lúc 10h57" , ngày 06/11/2006
Dâm dương hoắc 60 g, phục linh 30 g, đại táo 9 quả. Ba
thứ đem hấp chín, phơi khô 3 lần, sau đó thái nhỏ, ngâm
với 2 bát rượu trắng và 100 g mật ong. Đ
ậy kín, để 1 tháng
rồi lấy ra uống mỗi ngày 2-3 chén nhỏ. Dùng liền 3 tháng.

Y học cổ truyền có nhiều kinh nghiệm chữa yếu sinh lý bằng
nguồn thuốc tự nhiên từ cây cỏ và động vật. Sau đây là một
số bài thuốc ngâm rượu hiệu nghiệm:
Cá ngựa đã chế biến 30 g, bàn long sâm 30 g, cốt toái bổ 20 g, long nh
ãn 20 g.
Tất cả ngâm với một lít rượu trắng trong 5-7 ngày, càng lâu càng tốt. Ngày
uống 20-40 ml. Người không uống được rượu đặc, pha thêm nước và mật ong
mà uống.
Tắc kè 50 g; ba kích, hà thủ ô, hoàng tinh ho
ặc thục địa mỗi vị 100 g; đại hồi 10
g. Tắc kè ngâm với đại hồi trong rượu 35 độ để được 30 0ml. Các dược liệu
khác cũng ngâm với rượu 35 độ để được 700 ml. Hòa lẫn hai rượu với nhau,
thêm 100 g đường kính (đã nấu thành sirô) để thành 1 lít. Lọc kỹ, ngày uống 1-
2 lần, mỗi lần 15-20 ml sau bữa ăn hoặc trước khi đi ngủ.
Dâm dương ho
ắc 12 g; ba kích, sa sâm mỗi vị 16 g; thỏ ty tử, nhục thung dung,
kỷ tử mỗi vị 12 g; đỗ trọng, đương quy mỗi vị 8 g; cam thảo 6 g; đại táo 3 quả.
Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 1 lít rượu 35-40 độ (càng lâu càng tốt).
Uống trong vòng 1 tuần.
Dâm dương hoắc 60 g, ngài tằm đực 100 g, kim anh 50 g, ba kích 50 g, thục
địa 40 g, sơn thù du 30 g, ngưu tất 30 g, kỷ tử 20 g, lá hẹ 20 g, đường kính 40

g. Tất cả ngâm với 2 lít rượu 40 độ. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30 ml trước hai
bữa ăn chính và khi đi ngủ.
Chim bìm bịp 2 con (1 lớn, 1 nhỏ) làm thịt, để tươi; tắc kè 1 con, làm thịt, phơi
khô; củ sâm cau 100 g phơi khô. Tất cả ngâm với 1 lít rượu 30-40 độ, càng lâu
càng tốt. Ngày 2 lần, mỗi lần uống 30 ml.
Kỷ tử 120 g, đương quy 60 g, thục địa 180 g. Tất cả thái nhỏ, ngâm với 3 lít
rượu 35-40 độ. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30 ml.
Mật cá chép và gan gà trống mỗi thứ 1 cái, nghiền nát, ngâm với 500 ml rượu
trắng trong 5-7 ngày, thỉnh thoảng lắc đều. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30 ml.
DS. Hữu Bảo


Ảnh: Sức Khỏe
& Đời Sống


Bạch Công Tấn sưu tầm





Cây và củ
nghệ
Nghệ vàng - Vị thuốc quý
Trong cuộc sống, nhân dân ta thường dùng nghệ vàng để bôi lên da, non cho
mau liền da không bị nhiễm khuẩn, nhiều người dùng bột nghệ vàng mật ong
để chữa bệnh viêm loét dạ dày - tá tràng, các bệnh về viêm túi mật, sỏi mật
Nghệ vàng - Vị thuốc quý
Trong cuộc sống, nhân dân ta thường dùng nghệ vàng để bôi lên da, non cho

mau liền da không bị nhiễm khuẩn, nhiều người dùng bột nghệ vàng mật ong
để chữa bệnh viêm loét dạ dày - tá tràng, các bệnh về viêm túi mật, sỏi mật.
Tuy nhiên, nhiều người chưa có dịp để hiểu sâu hơn ở góc độ khoa học về tác
dụng của nghệ vàng.

Một hôm, tôi đến chơi nhà ông bạn trước kia là nhà giáo mà gia đình có nghề
lang gia truyền, đã bỏ nghề dạy học đi học Đông y, nay hành nghề Đông y
cũng có tiếng, tham gia thư
ờng trực trong Hội đồng Đông y Việt Nam, tôi chứng
kiến cả nhà thường xuyên nấu cơm bằng nước nghệ vàng, hấp nghệ vàng để
ăn như ăn khoai để nhấn mạnh và chứng tỏ rằng “nghệ vàng” là một “thần
dược” trong Đông y và khuyến khích tôi nên thường xuyên dùng nghệ vàng. T

đó tôi bắt đầu quan tâm tìm hiểu sâu hơn về nghệ vàng, sử dụng nghệ vàng
thường xuyên hơn.

Qua tìm hiểu, tôi thấy cần tóm tắt phổ biến rộng rãi cho nhiều người cùng quan
tâm: Tiến sĩ Phạm Đình Tỵ cùng các đồng nghiệp ở Viện Hóa học và Hợp chất
tự nhiên thuộc Trung tâm KHCN&CNQG đã chiết tách thành công từ nghệ
vàng được 2 chất. Đó là TN-999 và TN-999-AC. Nhiều bệnh nhân bị viêm loét
dạ dày, hành tá tràng, đại tràng, thiểu năng gan, mật, thấp khớp, huyết áp đã
dùng thử TN-999 và thấy kết quả khả quan. Chế phẩm TN-999-AC có đặc tính
chống ung thư não, dạ dày, phổi, gan, da Đến nay, các nhà khoa học chưa
ghi nhận bất kỳ một trường hợp nào có biểu hiện tác dụng phụ như nhiều chất
chống ung thư khác, thậm chí tinh nghệ vàng còn giúp cho người bệnh nâng
cao thể lực, hạn chế chán ăn, không tích độc ở các cơ quan nội tạng và bệnh
nhân không bị rụng tóc hay kiệt sức. Tinh nghệ đã được Viện kiểm nghiệm Bộ
Y tế công nhận “tương đương tiêu chuẩn quốc tế JECFA”. Đối với người bệnh
Bạch Công Tấn sưu tầm


thì đây là “thần dược”. Thành phần chính của tinh nghệ là hợp chất curcumin.
Chất này có hoạt tính sinh học khá độc đáo như giải độc gan, chống xơ gan cổ
chướng, bảo vệ tế bào hồng cầu, làm thông mật, có tác dụng phá cholesterol
trong máu, ngăn sự phát triển vi khuẩn lao, chống viêm loét dạ dày, hành tá
tràng, đường tiết niệu. Curcumin còn là ch
ất chống ôxy hóa mạnh, có khả năng
tiêu diệt các gốc tự do và các loại men hại gây ung thư có trong thức ăn, nước
uống hằng ngày. Chúng có thể tách tế bào ung thư ra khỏi các phân tử AND,
làm vô hiệu hóa và ngăn chặn sự hình thành mới của tế bào bệnh mà các tế
bào thường không bị ảnh hưởng. Những nghiên cứu gần đây còn cho thấy nó
còn có tác dụng kháng HIV.

Trong thí nghiệm của mình, Bharat Aggarwal và các đồng nghiệp đã làm thí
nghiệm trên chuột có đối chứng về ung thư vú thì thấy curcumin kiềm chế sự
phát triển của một protein và loại protein có vai trò then chốt trong việc hình
thành và lan tỏa u di căn. Các nhà khoa học cũng chứng minh khả năng chữa
ung thư da của curcumin. Trong việc phòng bệnh Alzheimer, chất curcumin
cũng tỏ ra có hiệu quả.

Gia đình tôi bước đầu nghe lời khuyên của thầy giáo, lang y kết hợp sự tìm
hiểu sâu hơn về nghệ vàng, quan tâm thường xuyên sử dụng nghệ vàng chủ
yếu để phòng bệnh mà chẳng có hại gì vì không có tác dụng phụ. Để tiết kiệm
tiền không phải mua tinh bột nghệ vì mục đích phòng bệnh là chính, chúng tôi
mua củ nghệ vàng về thái, phơi khô rồi xay (dùng máy xay sinh tố, bộ phận
chuyên xay bột, xay cà phê ) độ 1 phút là thành bột dùng dần, dùng không
hạn chế như cho vào cháo, cho vào thức ăn, ăn cùng mật ong. Mới đầu d
ùng ít
để làm quen dần với mùi hăng khó ăn, sau tăng dần cho phù hợp khẩu vị. Bây
giờ chúng tôi còn dùng nghệ tươi thái nhỏ cho vào nấu cơm, thường xuyên ăn
cơm nghệ vàng để phòng bệnh.


Tóm lại, nghệ vàng là vị thuốc quý, có tác dụng phòng nhiều bệnh, chữa được
nhiều bệnh và một số bệnh ung thư. Mọi người nên thường xuyên ăn nghệ
vàng, nhất là người trung niên, người cao tuổi lại càng cần tăng cường hơn để
phòng bệnh, chữa bệnh mà chưa thấy các tác dụng phụ có hại gì; nữ giới nên
dùng để phòng ngừaung thư vú, khi bị ung thư rồi cũng nên dùng để phòng
ngừa di căn.

Người sưu tầm đã thường xuyên áp dụng thấy tốt, thực tế đã bị ung thư da
phải cắt bỏ tại Bệnh viện K Hà Nội, không thấy tái phát đã 2 năm nay, ch
ẳng có
hại gì, xin thành tâm phổ biến để cùng ứng dụng.

BS. Phạm Thị Tuyết Nhung - Nhà giáo Nguyễn Đức Thuần


Hoa ngâu chữa cao huyết áp
Bạch Công Tấn sưu tầm

Cập nhật lúc 11h00" , ngày 23/11/2006
Không chỉ dùng để ướp trà, hoa ngâu còn là m
ột vị thuốc.
Ngoài tác dụng nổi bật là chữa cao huyết áp, hoa ngâu
còn giúp làm tỉnh rượu, chữa bế kinh, giúp tỉnh táo đầu
óc Không dùng cho phụ nữ có thai.
Hoa ngâu nhỏ, màu vàng, mọc thành chùm ở kẽ lá, rất thơm,
thường được dùng để ướp trà và làm vị thuốc, mùa hoa vào tháng 7, tháng 8.
Hoa ngâu có vị cay ngọt, giúp giải uất kết, làm thư giãn bên trong người, giúp
tỉnh rượu, sạch phổi, tỉnh táo đầu óc, sáng mắt, ngưng phiền khát. Nó được
dùng chữa chứng đầy trướng khó chịu ở ngực, chứng nghẹn hơi mới phát,

chữa ho hen và váng đầu, nhọt độc.
Chữa tăng huyết áp: Hoa ngâu 10 g, hoa cúc 30 g. Hai thứ gộp chung, chia l
àm
3 phần bằng nhau. Khi dùng cho một phần vào tách, rót nước sôi già ngâm, để
nguội uống. Uống hết 3 phần thuốc đó trong một ngày.
Chữa chứng bế kinh: Hoa ngâu 10 g, rượu 50 g. Cho hoa vào rượu, thêm vào
chút nước, nấu cách thủy đến khi hoa chín nhừ, để nguội uống. Uống trước
ngày có kinh 3 ngày, uống liền trong 5 ngày, ngày uống 1 lần.
Chữa chứng thương tích do vấp ngã, bị đòn: Hoa ngâu, lá ngâu mỗi thứ 50 g.
Gộp chung cả hai thứ, cho vào một lượng nước vừa phải nấu chín, chắt lấy
nước, đổ nước vào nấu tiếp, nấu đủ 3 lần, gộp chung nước thuốc chắt 3 lần,
trước tiên nấu bằng lửa mạnh (vũ hỏa), sau nấu bằng lửa yếu (văn hỏa) thành
cao. Mỗi lần dùng, quết một ít cao này lên vải lụa mỏng đắp vào chỗ vết
thương sưng đau, ngày đắp thuốc cao này một lần.
Chữa chứng say rượu: Hoa ngâu, hoa sắn dây (cát hoa) mỗi thứ 10 g. Gộp
chung cả hai thứ vào ly, rót nước sôi già vào ngâm uống.

Ngoài ra nhân dân còn dùng hoa ngâu để ướp trà, uống rất thơm và mát.








Tri mẫu
Y h
ọc cổ truyền điều trị cảm cúm Cảm cúm thuộc phạm vi ôn bệnh (còn
gọi là ôn dịch, dịch lệ) theo y học cổ truyền. Tùy t

ừng thời kỳ của bệnh có
thể chia làm bốn thể: Nguyên nhân gây bệnh (tà khí) xâm phạm vào phế,
Bạch Công Tấn sưu tầm

khí, dinh, huyết. Y học cổ truyền có thể điều trị các thể nhẹ và hỗ trợ
trong các thể trung bình
Y h
ọc cổ truyền điều trị cảm cúm

Cảm cúm thuộc phạm vi ôn bệnh (còn gọi là ôn dịch, dịch lệ) theo y học cổ
truyền. Tùy từng thời kỳ của bệnh có thể chia làm bốn thể: Nguyên nhân gây
bệnh (tà khí) xâm phạm vào phế, khí, dinh, huyết. Y học cổ truyền có thể điều
trị các thể nhẹ và hỗ trợ trong các thể trung bình.

Thể tà xâm phạm vào phế, vệ
Bệnh nhẹ: Triệu chứng nổi bật của giai đoạn này là phát sốt, hơi sợ gió lạnh,
không có mồ hôi hoặc ít mồ hôi, nhức đầu, hơi có cảm giác khát, rêu lưỡi
mỏng, mạch nhanh (trên 90 lần/phút). Phương pháp chữa: dùng các vị thuốc
có tinh dầu, tính cay, mát, sát khuẩn đường hô hấp như bạc hà, kinh giới; có
tính kháng sinh như kim ngân hoa, liên kiều; có tác dụng hạ sốt như lá tre, lá
dâu; tác dụng giảm ho, đau họng như cát cánh, cam thảo, ngưu bàng tử Bài
thuốc kinh điển để điều trị chứng này là “Ngân kiều tán” gồm:
Liên kiều 40g, kim ngân 40g, bạc hà 24g, kinh giới 16g, trúc diệp (lá tre) 16g,
đậu xị 20g, cát cánh 24g, ngưu bàng tử 24g, cam thảo 20g.
Các vị trên xay nhỏ, mỗi lần uống 30g sắc với rễ lau tươi, khi thấy hơi thơm
bốc thì rót ra uống (không sắc lâu vì bay mất tinh dầu làm giảm tác dụng của
thuốc). Bệnh nặng cứ 2 giờ uống một lần; nhẹ thì 3 giờ uống một lần, ngày
uống 3 lần, đêm uống một lần. Bệnh chưa khỏi thì uống thêm một thang như
trên.
Bài thuốc này thích hợp nhất với chứng: phát sốt, sợ lạnh và không có mồ hôi.

Nếu sợ lạnh hết rồi thì không dùng kinh giới và đậu xị nữa. Nếu bệnh nhân
không tiện dùng thuốc tán có thể đổi thành thuốc thang mà sắc uống, nhưng
liều lượng mỗi vị thì cần căn cứ theo thuốc tán mà giảm đi. Khi sắc không nên
sắc lâu quá.
Kinh nghiệm gia giảm: Tức ngực thì gia thêm uất kim, hoắc hương mỗi vị 6-
10g; đau họng, sưng gáy thì gia huyền sâm 12g, bối mẫu 4g; ho nhiều, nặng
thì
gia hạnh nhân (giã dập) 10g; chảy máu cam: bỏ kinh giới, đậu xị, gia rễ cỏ
tranh 12g, lá trắc bá, chi tử 12g đều sao đen để giải nhiệt, cầm chảy máu; nếu
thấy nóng, chất lưỡi đỏ, cơ thể mất nước gia sinh địa, mạch môn đông; nếu
tiểu tiện ít gia sinh địa, mạch môn, chi tử, tri mẫu, hoàng cầm để chống hao thể
dịch, hạ sốt, phòng bội nhiễm phổi và đường tiết niệu.

Thể phong tà xâm vào phế
Triệu chứng chính là ho, sốt nhẹ 38 - 38,5oC, hơi khát nước.
Phương pháp chữa: Thường dùng các thuốc có vị cay, tính mát như bạc hà,
cúc hoa, lá dâu, gia các vị có tính kháng khuẩn như liên kiều; thuốc giảm ho
như hạnh nhân, cát cánh, cam thảo; thuốc hạ sốt nhẹ như rễ lau Bài thuốc
điển hình để điều trị thể này là “Tang cúc ẩm” (ôn bệnh điều biện) gồm các vị:
hạnh nhân 8g, bạc hà 7g, cúc hoa 4g, sinh cam thảo 3g, liên kiều 6g, tang diệp
Bạch Công Tấn sưu tầm

8g, cát cánh 8g, rễ lau 8g.
Kinh nghiệm gia giảm bài thuốc này như sau: Thở mạnh như suyễn gia thạch
cao 20g, tri mẫu 6g giúp hạ sốt; chất lưỡi đỏ, về chiều sốt tăng hơn gia bột
sừng trâu, huyền sâm để thanh nhiệt, lương huyết, giải độc; nếu sốt cao hơn,
nằm không yên, môi đỏ khô cần nghĩ đến rối loạn điện giải, nhiễm độc: bỏ bạc
hà, rễ lau, gia mạch môn, sinh địa, ngọc trúc, đan bì giúp cơ thể đỡ mất tân
dịch, giảm chứng bứt rứt nằm không yên, tạo cảm giác mát mẻ, dễ chịu; nếu
cảm giác nóng trong ngực gia hoàng cầm để thanh phế nhiệt, phòng chống bội

nhiễm; nếu khát nước gia thiên hoa phấn để tăng thể dịch, giảm cảm giác háo
khát.

Thể cảm sốt, khó thở kiểu hen
Triệu chứng chính: Toàn thân nóng, nằm không yên, ra mồ hôi, khó thở kiểu
hen, ho, mạch nhanh trên 90 lần/phút.
Phương pháp chữa: Thanh nhiệt, tuyên phế, bình suyễn. Các vị thuốc thường
dùng có tác dụng giãn ph
ế quản (hoạt chất ephedrin), giảm xuất tiết, giúp thông
đường thở, giảm ho và hạ sốt. Bài thu
ốc kinh điển: “Ma hạnh thạch cam thang”:
ma hoàng 12g, hạnh nhân 12g, trích thảo 12g, thạch cao 16g - 40g (nếu sốt
cao trên 38,5oC)
Kinh nghiệm thực tiễn trên lâm sàng cho thấy bài thuốc có tác dụng tốt trong
các trường hợp cúm có bội nhiễm, viêm phế quản thể hen. Hiện nay, trên thị
trường có bán các dạng thành phẩm với tác dụng tương tự như cao ma hạnh,
bổ phế chỉ khái lộ.
Trên đây là một số phương pháp chữa cảm cúm không thư
ờng, thể nhẹ. Trong
các trường hợp bệnh nặng, người bệnh cần được theo dõi, kết hợp chữa trị
theo phương pháp y học hiện đại. Đặc biệt, hiện nay nước ta đang nằm trong
vùng có nguy cơ bùng phát dịch cúm gia cầm H5N1, nếu có triệu chứng sốt
cao, khó thở nhiều, cần nhanh chóng đến cơ sở y tế để chữa trị, tuyệt đối
không giữ bệnh nhân chữa trị theo phương pháp y học cổ truyền đơn thuần.


SỨC KHOẺ -> Y HỌC CỔ TRUYỀN

Thuốc bổ dưỡng từ dược thảo
Cập nhật lúc 09h22" , ngày 08/02/2007

Thuốc bổ dưỡng rất cần cho nhiều đối tượng như ph

nữ mang thai ốm nghén không ăn uống đủ dinh
dưỡng, người già yếu, trẻ em suy dinh dưỡng, người
mắc các bệnh cấp tính nặng hoặc các bệnh mãn tính
lâu ngày. Trong những trường hợp này, bên c
ạnh việc
điều trị bệnh bằng các thuốc đặc hiệu, rất cần dùng
các thuốc bổ dưỡng để nâng cao thể trạng, làm tăng
sức đề kháng của cơ thể chống lại bệnh tật.



Bạch Công Tấn sưu tầm


Bạch biển đậu (đậu ván trắng)

Quả non đậu ván trắng là món ăn giàu chất bổ, quả già cho hạt làm thuốc. Trong
y học cổ truyền bạch biển đậu được dùng làm thuốc bồi bổ cơ thể, chữa tỳ vị hư
nhược, chán ăn, tiêu chảy lâu ngày, đau bụng nôn mửa, đầy bụng khó tiêu, trẻ
em suy dinh dưỡng rối loạn tiêu hóa.

Bạch truật

Bạch truật được xem là một vị thuốc bổ dưỡng và được dùng điều trị các chứng
bệnh đau dạ dày, bụng đầy trướng, nôn mửa, ăn chậm tiêu, tiêu chảy, phân
sống, viêm ruột mạn tính, ốm nghén nôn oẹ. Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc
sắc hay bột.


Đảng sâm

Đảng sâm được dùng chữa tỳ vị suy kém, phế khí hư nhược, kém ăn, đại tiện
lỏng, mệt mỏi, ốm lâu cơ thể suy nhược, thiếu máu. Dùng riêng hay phối hợp với
các vị thuốc khác. Ngày dùng 20-40g, dạng thuốc sắc, viên hoàn, b
ột, hoặc ngâm
rượu uống. Cùng với tác dụng bổ toàn thân, đảng sâm còn có tác dụng tăng
cường sức lực, bình ổn sức sống.

Đương quy

Đương quy có tác dụng tăng lực và tăng sức đề kháng của cơ thể chống yếu tố
độc hại, được dùng rất phổ biến trong nhiều đơn thuốc bổ và trị nhiều chứng
bệnh như thiếu máu xanh xao, cơ thể gầy yếu, mệt mỏi, kém ăn. Ngày uống 10-
20g, dạng thuốc sắc hoặc rượu thuốc.

Hà thủ ô đỏ

Hà thủ ô đỏ có tác dụng bổ máu, chữa thận suy, gan yếu, thần kinh suy nhược,
ngủ kém, thiếu máu, uống lâu làm đen tóc đối với người bạc tóc sớm, làm tóc đỡ
rụng. Ngày dùng 6-20g, dạng thuốc sắc, rượu thuốc hoặc bột.

Hoài sơn (củ mài)

Hoài sơn được coi là một vị thuốc bổ, chữa tỳ vị hư nhược, kém tiêu, tiêu chảy
lâu ngày. Ngày uống 10-20g, dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột.

Nhân sâm

Trong y học cổ truyền, nhân sâm là một vị thuốc bổ quý hiếm làm tăng thể lực và

trí lực, dùng trong trường hợp cơ thể suy yếu, kiệt sức, mệt mỏi và trong thời
Bạch Công Tấn sưu tầm

gian dưỡng bệnh. Liều thường dùng hàng ngày là 2-4g. Dùng dưới dạng lát cắt
ngậm, nước sắc, cao, rượu thuốc hoặc hoàn tán.

Phục linh

Trong y học cổ truyền, phục linh được dùng làm thuốc bổ chữa suy nhược,
chóng mặt, bụng đầy trướng, tiêu chảy, tỳ hư, kém ăn. Ngày dùng 4-10g, thuốc
sắc bột hoặc viên.

Sen

Hạt sen dùng điều trị tỳ hư, cơ thể suy nhược, kém ăn, ít ngủ. Ngày dùng 12-
20g,
có thể đến 100g, dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường phối hợp với các
vị thuốc khác.

Ý d
ĩ

Ý dĩ được xem là vị thuốc chữa rối loạn tiêu hóa, tả lỵ, và là thuốc bồi dưỡng cơ
thể, nhất là đối với trẻ em, ý dĩ hầm với hạt sen và thịt nạc là thức ăn, vị thuốc
cho người cơ thể gầy yếu, suy dinh dưỡng. Ngày dùng 8-30g, dạng thuốc sắc,
phối hợp với các vị khác.

Các bài thuốc bổ dưỡng

Chữa cơ thể suy nhược, mỏi mệt, gầy yếu


Bạch linh, nhân sâm, bạch truật, cam thảo, mỗi vị 8g. Sắc kỹ, chia làm 2-3 lần
uống trong ngày.
Bạch linh, mẫu đơn, trạch tả, mỗi vị 12g; thục địa hay sinh địa 32g; ho
ài sơn, sơn
thù, mỗi vị 16g. Tán bột, làm viên, uống mỗi ngày 20-30g hoặc sắc uống (lục vị
hoàn).

Thục địa 20g, đảng sâm 16g; bạch truật, đương quy, bạch linh, bạch thược,
hoàng kỳ sao, mỗi vị 12g; cam thảo, xuyên khung, mỗi vị 8g, nhục quế 4g. Làm
viên với mật ong, mỗi lần uống 20g, ngày 2 lần (thập toàn đại bổ).

Thuốc bổ tỳ, làm ăn ngủ ngon, đại, tiểu tiện dễ dàng

Hạt sen, hà thủ ô, hoài sơn, ý dĩ, cỏ xước, râu mèo, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày
một thang. Hạt sen 16g; sâm bố chính, hoài sơn, mỗi vị 12g, viên với mật ong,
uống mỗi ngày 20-30g.

Chữa suy dinh dưỡng trẻ em

Đảng sâm, ý dĩ, hoài sơn, hạt sen, bạch biển đậu, mỗi thứ 100g; mạch nha 30g,

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×